Bản án số 11/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 11/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 11/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 11/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 11/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 11/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Phần đất ông Ẩ lấn chiếm có tứ cận |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 11/2025/DS-PT
Ngày 06 – 01– 2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Lập
Các Thẩm phán: Ông Đặng Minh Trung
Ông Ninh Quang Thế
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: ÔNg
Nguyễn Văn Điện – Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 01 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 500/2024/TLPT-DS ngày 13 tháng 11
năm 2024 về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 150/2024/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 371/2024/QĐ-PT ngày 28
tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Nguyễn Minh K, sinh năm 1973 (Có mặt);
2. Bà Nguyễn Kim N, sinh năm 1978 (Có mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn: Ông Lâm Văn Ẩ, sinh năm 1962 (Có mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Lâm Văn Ẩ: Ông Cao Quốc
T, là Luật sư của Công ty L1 – thuộc Đoàn Luật sư tỉnh C (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần Trung H, sinh năm 1975 (Vắng mặt)
2. Bà Trần Hồng A, sinh năm 1975 (Vắng mặt)
3. Ông Trần Trọng L (Vắng mặt)
4. Bà Bùi Thị T1 (Vắng mặt)
5. Bà Trịnh Thị C, sinh năm 1962 (Có mặt).
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau.
- Người kháng cáo: Ông Lâm Văn Ẩ, là bị đơn; bà Trịnh Thị C, là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo ông Nguyễn Minh K, bà Nguyễn Kim N trình bày:
Vào năm 2021, vợ chồng ông bà và vợ chồng ông H có nhận chuyển nhượng
của ông Lê Văn P phần đất có chiều ngang mặt tiền 10,1m, chiều ngang mặt hậu
9,5m, tổng diện tích 686,7m
2
, thuộc thửa 337, tờ bản đồ số 12, đất tọa lạc tại ấp A,
xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau. Phần đất này trước đây là của ông Lê Văn A1 (cha
ông P được Nhà nước giao), trên giấy tờ đất do con ông P là anh Lê Phúc Đ đứng
tên. Ông A1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất diện tích 2.000m
2
.
Khi ông P ly hôn thì chia phần đất làm hai, ông P nhận 1.000 m
2
.
Phần đất nhận chuyển nhượng có tứ cận: Mặt tiền giáp lộ T - T, mặt hậu
giáp đất ông Ẩ và giáp đất Ủy ban xã Trí Phải quản lý, cạnh phải nhìn từ mặt tiền
giáp ông Trần Khải H1 và giáp đất ông Ẩ, cạnh trái nhìn từ mặt tiền giáp đất ông
H.
Lúc đầu anh Đ và vợ chồng ông cùng đứng tên quyền sử dụng đất. Sau đó
anh Đ chuyển nhượng lại cho ông H, bà A. Hiện tại ông H, bà A chuyển lại cho
ông L, bà T1.
Khi nhận chuyển nhượng đất từ ông P thì đã có cặm trụ đá. Phần giáp ông Ẩ
có cặm 03 trụ đá, xung quanh thửa đất cặm nhiều trụ đá.
Khi Nhà nước giao đất cho ông A1 thì có cặm trụ đá, có ông Ẩ ký giáp ranh.
Trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có để rõ kích thước phần đất. Khi ông
bà nhận chuyển nhượng đất có đo đạc lại nhưng do trước đây không nhớ nên ông
bà cho rằng không có đo đạc. Lý do ông bà không đứng tên quyền sử đụng đất
riêng vì không đủ hạn mức tách thửa đất.
Khi ông bà nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì trên đất có sẵn nhà,
ông bà nhận chuyển nhượng luôn căn nhà (căn nhà này bà ở từ năm 2020 vì lúc đó
ông bà thuê nhà, đến năm 2021 thì nhận chuyển nhượng luôn nhà và quyền sử
dụng đất).
Ông bà sử dụng đúng diện tích, vị trí đất nhận chuyển nhượng nhưng khoảng
cuối năm 2022, ông bà phát hiện ông Ẩ nhổ 02 trụ đá và lấn sang đất của ông bà
khoảng 3,47m (tại vị trí 2,47m trong giấy chứng nhận đến hết hậu đất), diện tích
khoảng 37,1 m
2
. Từ đó phát sinh tranh chấp cho đến nay.
Phần đất ông Ẩ lấn chiếm có tứ cận: Mặt tiền giáp đất của vợ chồng ông bà,
mặt hậu giáp kênh Ủy ban xã quản lý, cạnh trái nhìn từ mặt tiền giáp đất ông Ẩ,
cạnh phải nhìn từ mặt tiền giáp đất của vợ chồng ông bà. Trên đất ông Ẩ có trồng
chuối, mãng cầu. Lúc phát hiện ông Ẩ trồng cây, ông bà có báo chính quyền địa
phương. Nay vợ chồng ông bà yêu cầu vợ chồng ông Ẩ, bà C di dời cây trồng và
trả lại cho ông bà phần đất đã lấn chiếm diện tích theo đo đạc thực tế là 22,5m
2
.
- Theo ông Lâm Văn Ẩ trình bày:
Ông Ẩ không thống nhất với trình bày và yêu cầu của bà N, ông K. Ông Ẩ
xác định ông Nguyễn Thanh T2 được nhà nước cấp 10 công đất vào năm 1955, sau
một thời gian ông T2 bị bắt và chết. Ông Nguyễn Thanh H2 là con ông T2 thừa kế
phần đất. Ông H2 sử dụng đến năm 1977 thì Nhà nước thu hồi 04 công. Đến năm
1984, thu hồi 06 công còn lại. Năm 2004, ông H2 uỷ quyền lại cho ông đi đòi đất.
Đến năm 2013, Nhà nước trả lại cho ông phần đất có diện tích 3.518,9m
2
tọa lạc tại
ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau. Ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
số CA 998047 ngày 30/7/2015. Diện tích và hình thể được cấp giấy chứng nhận
giống như Bản đồ Nhà nước đo năm 2013. Tại thời điểm đó, cán bộ cấp đất nói
ông được sử dụng ½ diện tích đất Kinh Xéo, nhưng cấp giấy chỉ cấp phần đất liền
vì Kinh Xéo là của Nhà nước. Việc này, có lập biên bản, Uỷ ban xã quản lý, ông
không giữ biên bản nên không cung cấp cho Toà án được. Ngoài ra, ông không còn
chứng cứ gì chứng minh việc ông được sử dụng ½ con Kinh Xéo.
Sau đó, ông chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nhiều người, diện tích
bao nhiêu ông không nhớ, diện tích còn lại khoảng 210m
2
. Thực tế giấy chứng
nhận chưa tách hết, còn khoảng trên 1.000m
2
. Giấy chứng nhận ông đang quản lý,
không thế chấp.
Phần đất còn lại của ông có tứ cận: Mặt tiền giáp lộ nhỏ (do ông hiến đất,
trước mặt công ty C1), mặt hậu giáp đất Ủy ban xã quản lý (K), cạnh phải nhìn từ
mặt tiền giáp đất bà Ý, cạnh trái nhìn từ mặt tiền giáp đất ông N1 và đất ông H.
Phần đất của ông P chuyển nhượng cho vợ chồng bà N và vợ chồng ông H là
của ông A1 (cha ông P) được Nhà nước trả lại nhưng trả sau ông. Khi ông A1 được
trả đất có cặm 01 cây trụ đá và ông có ký giáp ranh (trụ đá này hiện vẫn còn). Tuy
nhiên, sau đó không biết ai cặm thêm 02 cây trụ đá. Cuối năm 2022 ông phát hiện
02 cây trụ đá này cặm qua đất ông nên ông nhổ dời chỗ khác. Ông xác định khi nhà
nước trả đất cho ông P thì vị trí đất trên sơ đồ khác vị trí đất cặm mốc thực tế (có
sự sai sót tại vị trí 2,47m). Phần 2,47m mà bà N, ông K yêu cầu ông trả là nằm trên
phần đất của ông được nhà nước trả lại. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông K bị cấp sai tại vị trí ranh đất của ông A1 và bà Â trước đây, có nghĩa là đáng
lẽ đất ông A1 phải lùi lại chiều ngang 2,47m, chạy dài từ lộ tới hậu (tức là từ mốc
M1-M2 theo Mãnh trích đo địa chính lùi qua hướng mốc M7-M8 2,47m ngang).
Vì vậy, ông không thống nhất trả lại phần đất như ông K, bà N yêu cầu. Bởi
vì, ông sử dụng đúng vị trí, diện tích được nhà nước trả đất, không có lấn chiếm
đất của ai.
- Theo bà Trịnh Thị C trình bày:
Bà C thống nhất với trình bày của ông Ẩ, không đồng ý trả lại đất theo yêu
cầu ông K, bà N.
- Theo bà Trần Hồng A trình bày:
Vợ chồng bà đã chuyển nhượng phần đất đồng sở hữu với ông K, bà N cho
ông L, bà T1. Hiện ông L, bà T1 và ông K, bà N đang đứng tên quyền sử dụng đất.
- Theo ông Trần Trọng L trình bày:
Ông nhận chuyển nhượng phần đất của ông H, bà A đồng sở hữu với ông K,
bà N khoảng 01 tháng nay. Ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đồng sở hữu với ông K, bà N. Ông không biết phần đất đang tranh chấp. Tại vụ án
ông không có yêu cầu gì vì vị trí phần đất của ông không có liên quan đến phần đất
tranh chấp.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 150/2024/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Thới Bình quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh K, bà Nguyễn
Kim N về việc yêu cầu ông Lâm Văn Ẩ, bà Trịnh Thị C trả lại quyền sử dụng đất.
Buộc ông Lâm Văn Ẩ, bà Trịnh Thị C di dời tài sản, trả lại cho ông Nguyễn
Minh K, bà Nguyễn Kim N phần đất diện tích 22,5m
2
, tọa lạc tại ấp A, xã T, huyện
T, tỉnh Cà Mau. Có tứ cận: Mặt tiền giáp hậu đất của ông Trần Khải H1 mốc M2-
M3 dài 2,5m; Mặt hậu giáp phần đất của Ủy ban nhân dân xã Q dài 02m; Cạnh
phải (nhìn từ mặt tiền) giáp phần đất của nguyên đơn không tranh chấp mốc M2-
M5 dài 10,19m; Cạnh trái (nhìn từ mặt tiền) giáp phần đất của bị đơn không tranh
chấp mốc M3-M4 dài 10,49m.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, lãi suất chậm trả, án phí
và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 09/10/2024, ông Lâm Văn Ẩ và bà Trịnh Thị C có đơn kháng cáo, yêu
cầu sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Lâm Văn Ẩ và bà Trịnh Thị C giữ nguyên
kháng cáo.
Phần tranh luận tại phiên toà:
Luật sư T phát biểu: Cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đưa ông A1, ông P,
ông Đ tham gia tố tụng là vi phạm tố tụng. Do đó, kiến nghị Hội đồng xét xử huỷ
toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Ông Ẩ, bà C không có ý kiến tranh luận.
Bà N phát biểu: Yêu cầu Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
ông Ẩ và bà C, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ông K không có ý kiến tranh luận.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
chấp nhận kháng cáo của ông Lâm Văn Ẩ và bà Trịnh Thị C, giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét kháng cáo của ông Lâm Văn Ẩ và bà Trịnh Thị C, Hội đồng xét xử xét
thấy:
[1] Theo Bản vẽ trích đo hiện trạng của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một
thành viên T3 thì phần đất tranh chấp giữa các đương sự có vị trí, kích thước, diện
tích theo đo đạc thực tế như sau: Mặt tiền giáp hậu đất của ông Trần Khải H1 mốc
M2-M3 dài 2,5m; Mặt hậu giáp phần đất của Ủy ban nhân dân xã T quản lý mốc
M4-M5 dài 02m; Cạnh phải (nhìn từ mặt tiền) giáp phần đất của nguyên đơn sử
dụng không tranh chấp mốc M2-M5 dài 10,19m; Cạnh trái (nhìn từ mặt tiền) giáp
phần đất của bị đơn sử dụng không tranh chấp mốc M3-M4 dài 10,49m, diện tích
22,5m
2
, đất tọa lạc tại ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau.
[2] Xét nguồn gốc đất của các đương sự sử dụng:
[2.1] Nguồn gốc phần đất của ông K và bà N sử dụng có nguồn gốc là của
ông Lê Văn A1 được nhà nước giao quyền sử dụng đất vào năm 2019, diện tích
2.000m
2
. Ông A1 được cấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 821940,
thửa 327, tờ bản đồ số 12, diện tích 651m
2
và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CN 821941, thửa 329, tờ bản đồ số 12, diện tích 1.349m
2
. Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất có thể hiện kích thước chiều ngang, chiều dài, các cạnh của thửa
đất.
[2.2] Ông A1 cho con là ông P phần đất, nhưng ông P để cho con ông P là
anh Đ đứng tên quyền sử dụng đất; đến năm 2021 ông P chuyển nhượng cho ông K
và bà N một phần diện tích, nên anh Đ đồng đứng tên quyền sử dụng đất với ông
K, bà N, các đương sự được cấp giấy chứng nhận ngày 14/10/2022, diện tích 686,7
m
2
, thửa số 337, tờ bản đồ số 12.
[2.3] Ngày 07/12/2022, anh Đ chuyển nhượng phần diện tích đất của anh Đ
cho cho ông H, bà A. Đến ngày 29/12/2022, ông K, bà N và ông H, bà A được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đồng sử dụng) diện tích 686,7m
2
, thửa số 337,
tờ bản đồ số 12. Đến năm 2023, ông H, bà A chuyển nhượng quyền sử dụng phần
đất của mình cho ông L, bà T1. Ông K, bà N, ông L, bà T1 được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (đồng sử dụng) ngày 20/12/2023, diện tích 686,7m
2
, thửa
số 337, tờ bản đồ số 12. Giấy chứng nhận quyền sử dụng các lần được cấp đều có
thể hiện kích thước chiều ngang, chiều dài, các cạnh của thửa đất.
[2.4] Phần đất của ông Ẩ sử dụng có nguồn gốc là của ông Nguyễn Thanh
T2 (là cha ông Nguyễn Thanh H2). Trước đây ông H2 có uỷ quyền cho ông Ẩ đi
khiếu nại về đất đai và được giải quyết bằng Quyết định số 957 ngày 18/6/2014
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh C. Theo đó, ông Ẩ được Nhà nước hợp thức
hóa phần đất có diện tích 3.518,9m
2
, gồm thửa số 12, diện tích 2.900,3m
2
và thửa
số 17 diện tích 618,6m
2
, theo bản đồ trích đo địa chính do Trung tâm T4 trích đo
ngày 12/12/2013). Tại bản đồ trích đo địa chính thể hiện rõ diện tích, kích thước
chiều ngang, chiều dài các cạnh phần đất ông Ẩ được hợp thức hóa. Ông Ẩ được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 30/7/2015, diện tích 3.518,9m
2
, gồm
thửa 243 diện tích 2.900,3m
2
và thửa 244 diện tích 618,6m
2
, tờ bản đồ số 21, giấy
chứng nhận không thể hiện kích thước chiều ngang, chiều dài các cạnh của thửa
đất, nhưng về diện tích các thửa và hình thể thửa đất thì giống với bản đồ trích đo
địa chính do Trung tâm T4 trích đo ngày 12/12/2013.
[3] Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông K, bà N đồng sử
dụng với ông L, bà T1 có diện tích là 686,7m
2
; diện tích không tranh chấp theo đo
đạc thực tế là 627m
2
, diện tích đất tranh chấp là 22,5m
2
, cộng chung hai phần đất
thì diện tích là 649,5m
2
, nhỏ hơn diện tích được cấp giấy chứng nhận. Phần đất ông
K bà N sử dụng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp phần hậu đất
có kích thước ngang là 9,50m; nhưng theo đo đạc thực tế tính cả phần đất tranh
chấp thì phần đất có kích thước chiều ngang là 9,44m.
[4] Hơn nữa, đối chiếu bản đồ trích đo địa chính do Trung tâm T4 trích đo
ngày 12/12/2013 với sơ đồ thửa đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng
tên ông Lê Văn A1; Lê Phúc Đ (đồng sử dụng với ông K, bà N); Trần Trung H,
Trần Hồng A (đồng sử dụng với ông K, bà N) với sơ đồ Mãnh trích đo địa chính
phần đất tranh chấp ngày 04/01/2024 là phù hợp với nhau về hình thể đất, phần đất
tranh chấp thuộc quyền sử dụng đất đã cấp cho ông A1, anh Lê Phúc Đ (đồng sử
dụng với ông K, bà N), ông H, bà A (đồng sử dụng với ông K, bà N); phần đất
tranh chấp không nằm trong diện tích đất được Nhà nước giao trả lại cho ông Ẩ.
Tại phiên toà, ông Ẩ cũng thừa nhận phần đất tranh chấp không nằm trong diện
tích đất ông được Nhà nước giao trả lại, không nằm trong giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mà ông được cấp.
[5] Như vậy, có cơ sở xác định phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của
ông K và bà N; Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông K và bà N, buộc
ông Ẩ trả lại đất là có căn cứ.
[6] Đối với ông A1, ông P, anh Đ: Xét thấy việc giải quyết tranh chấp không
liên quan quyền lợi, nghĩa vụ của ông A1, ông P và anh Đ, nên không cần thiết
phải đưa ông A1, ông P, anh Đ tham gia tố tụng trong vụ án: do đó, đề nghị của
Luật sư huỷ bản án sơ thẩm là không có cơ sở chấp nhận.
[7] Từ nhận định trên, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo ông Lâm
Văn Ẩ và bà Trịnh Thị C, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà là phù hợp.
[8] Án phí dân sự phúc thẩm ông Lâm Văn Ẩ và bà Trịnh Thị C là người cao
tuổi có đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí theo quy định.
[9] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt
ra xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Lâm Văn Ẩ và bà Trịnh Thị C. Giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 150/2024/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2024 của
Toà án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh K, bà Nguyễn
Kim N. Buộc ông Lâm Văn Ẩ, bà Trịnh Thị C di dời tài sản, trả lại cho ông
Nguyễn Minh K, bà Nguyễn Kim N phần đất diện tích 22,5m
2
, tọa lạc tại ấp A, xã
T, huyện T, tỉnh Cà Mau. Phần đất có tứ cận: Mặt tiền giáp hậu đất của ông Trần
Khải H1 mốc M2-M3 dài 2,5m; Mặt hậu giáp phần đất của Ủy ban nhân dân xã Q
dài 02m; Cạnh phải (nhìn từ mặt tiền) giáp phần đất của nguyên đơn không tranh
chấp mốc M2-M5 dài 10,19m; Cạnh trái (nhìn từ mặt tiền) giáp phần đất của bị
đơn không tranh chấp mốc M3-M4 dài 10,49m.
(Kèm theo Bản vẽ trích đo hiện trạng của Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên T3).
- Về chi phí tố tụng: Ông Lâm Văn Ẩ, bà Trịnh Thị C phải chịu số tiền
9.400.000 đồng. Do ông Nguyễn Minh K, bà Nguyễn Kim N đã nộp xong số tiền
chi phí tố tụng 9.400.000 đồng, nên buộc ông Ẩ và bà C có nghĩa vụ trả lại cho ông
K và bà N số tiền 9.400.000 đồng.
Kể từ ngày ông K và bà N có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành
xong khoản tiền nêu trên, thì hàng tháng ông Ẩ và bà C còn phải chịu thêm khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật Dân sự.
- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lâm Văn Ẩ, bà Trịnh Thị C được miễn chịu
án phí. Ông Nguyễn Minh K, bà Nguyễn Kim N không phải chịu án phí. Ông K, bà
N đã dự nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0003646 ngày
26/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình được nhận lại.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lâm Văn Ẩ, bà Trịnh Thị C được miễn chịu
án phí.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Thới Bình;
- Chi cục THADS huyện Thới Bình ;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thành Lập
Tải về
Bản án số 11/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 11/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm