Bản án số 46/2024/HNGĐ-ST ngày 27/09/2024 của TAND huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 46/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 46/2024/HNGĐ-ST ngày 27/09/2024 của TAND huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Vũ Thư (TAND tỉnh Thái Bình)
Số hiệu: 46/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/09/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Xử cho chị Trần Thị D được ly hôn anh Bùi Đình T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN V
TỈNH THÁI BÌNH
CNG HOÀ XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp - T do - Hnh phúc
Bản án số 46/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 27 - 9 - 2024
V/v: Chị Trần Thị D xin ly hôn
anh Bùi Đình T
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH THÁI BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thùy Dương.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Thanh Nghĩa.
Bà Vũ Thị Thanh Tâm.
- Thư ký phiên tòa: Phạm Thị Hương, Thư Tòa án nhân dân huyện
V, tỉnh Thái Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình tham gia
phiên toà: Bà Bùi Thị Vân Anh, Kiểm sát viên.
Ngày 27/9/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình xét xử
thẩm công khai
vụ án thụ số 221/2023/TLST-HNGĐ ngày 20/12/2023 về
“Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số 16/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 08/4/2024, Quyết định tạm ngừng phiên tòa
số 01/2024/QĐST-HNGĐ ngày 06/5/2024, Thông báo mở lại phiên tòa số
01/2024/TB-TA ngày 30/5/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2024/QĐST-
HNGĐ ngày 05/6/2024, Thông báo mở lại phiên tòa số 02/2024/TB-TA ngày
18/6/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2024/QĐST-HNGĐ ngày 28/6/2024,
Thông báo mlại phiên tòa số 03/2024/TB-TA ngày 15/7/2024, Quyết định hoãn
phiên tòa số 25A/2024/QĐST-HNGĐ ngày 23/7/2024, Thông báo mlại phiên
tòa số 04/2024/TB-TA ngày 19/8/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số
28/2024/QĐST-HN ngày 23/8/2024, Thông o mở lại phiên tòa số
2
05/2024/TB-TA ngày 12/9/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2024/QĐST-
HNGĐ ngày 20/9/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị D, sinh năm 1985; nơi thường trú: Thôn V1,
V2, huyện V, tỉnh Thái Bình. (vắng mặt)
- Bị đơn:
Anh Bùi Đình T, sinh năm 1982; nơi thường trú: Thôn V1, xã
V2, huyện V, tỉnh Thái Bình. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/11/2023 trong qtrình Tòa án giải
quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị D, trình bày:
Chị và anh Bùi Đình T t nguyện tìm hiểu, t nguyện đăng ký kết hôn với
nhau vào ngày 03/02/2006 tại UBND V2, huyện V, tỉnh Thái Bình. Sau kết
hôn, anh chị chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì xảy ra mâu thuẫn do
anh T người sống ích kỷ, gia trưởng, vũ phu, thường xuyên đánh, chửi chị, gây
áp lc cho ch c v th xác ln tinh thn. Đỉnh điểm của mâu thuẫn ngày
15/10/2022, anh T dấu điện thoại của chị, khi đi tìm điện thoại chị thấy trong
của anh T có 02 triệu đồng, chị lấy 01 triệu đồng, anh T cầm 01 viên gạch đi tìm
định ném chị. Ngày 23/10/2022, chị về nhà bố mẹ đẻ chị , anh T đi tìm, chị
không về, chị và anh T đã sống ly thân từ đó. Tháng 5/2023, chị quay về tái hợp
nhưng vẫn không có hạnh phúc nên chlại vnhà bố mẹ đ chị ở. Trong thời gian
anh chị sống ly thân, khi chị về thăm con, bố mẹ đẻ anh T không những không
cho chị gặp con còn khóa cổng không cho ch vào nhà. Nay ch xác định ch
không còn tình cm vi anh T, cuc sng chung gia anh ch quá nhiu mâu
thun, thc s căng thẳng không th đoàn tụ, do đó, ch cương quyết xin ly hôn
anh T, không chp nhận đoàn tụ. Việc ly hôn chị đã suy nghĩ kỹ và tự nguyện.
Chị và anh Bùi Đình T 02 con chung là Bùi Trần Bảo M, sinh ngày
02/6/2007 và Bùi Đình Tr, sinh ngày 09/02/2015. Hiện các con đang cùng anh
T và ông bà nội, anh T có công việc ổn định, có sự hỗ trợ của gia đình trong việc
nuôi con, các con đều nguyện vọng cùng bố. Về phía chị, hiện chị đang
nhà bố mẹ đẻ, cuộc sống còn nhiều khó khăn. Do đó, chị đề nghị Tòa án giao cả
hai con chung M Tr cho anh T nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng tiền nuôi
con chung cùng anh T.
3
Chị anh Bùi Đình T tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, anh chị không
đi vay không cho ai vay nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về chia
tài sản chung.
Năm 2022, do áp lực cuộc sống, chị bị mất ngủ, tinh thần không ổn định, chị
đã đến khám điều trị tại Bệnh viện Tâm thần Thái nh. Năm 2023, sức khỏe
của chị ổn định, chị không điều trtại Bệnh viện Tâm thần Thái Bình nữa. Hiện
tình trạng sức khỏe của chị tốt, chị vẫn giao tiếp, sinh hoạt lao động tại địa
phương bình thường. Anh T yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định tâm
thần đối với chị, chị không đồng ý. Chị không yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên
bố chị mất năng lực hành vi dân sự. Quá trình giải quyết vụ án, theo yêu cầu của
chị, Tòa án đã đưa Đỗ Thị B, Chủ tịch Hội phụ nữ V2, huyện V vào tham
gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị, nay bà B
từ chối tham gia tố tụng, chị đồng ý.
* Tại biên bản lấy lời khai đề ngày 23/01/2024 trong quá trình Tòa án
giải quyết vụ án, anh Bùi Đình T trình bày:
Anh và chị Trần Thị D đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 03/02/2006 tại
UBND V2, huyện V, tỉnh Thái Bình. Sau kết hôn, anh chị chung sống hòa
thuận, hạnh phúc đến khoảng năm 2022 thì xảy ra mâu thuẫn do chD thiếu quan
tâm đến gia đình, chồng con. Anh hai bên gia đình đã góp ý nhưng chị D không
thay đổi. Từ cuối tháng 10/2022, chị D tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ . Anh nhắn
tin, gọi điện, trực tiếp đi tìm nhưng chị D không về, sau anh được biết có thời gian
chị D vào miền nam làm ăn, sinh sống nhưng không nói với anh, cũng không
liên lạc về gia đình. Anh chị D đã ly thân, chấm dứt quan hệ tình cảm từ cuối
năm 2022 đến nay. Nay chị D xin ly hôn anh, theo anh, anh chị vẫn còn tình cảm,
mặt khác, anh chị là người công giáo, không cho phép ly hôn nên anh không đồng
ý ly hôn, xin đoàn tụ. Nếu chị D vẫn cương quyết xin ly hôn, anh đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định.
Anh chị Trần Thị D 02 con chung là Bùi Trần Bảo M, sinh ngày
02/6/2007 Bùi Đình Tr, sinh ngày 09/02/2015. Nếu ly hôn, anh đ ngh đưc
nuôi dưỡng c hai con chung M Tr, anh không yêu cu ch D phi cấp dưỡng
tin nuôi con chung cùng anh. Hiện anh làm lao động t do, thu nhp t khong
08 triệu đến 10 triệu đồng/01 tháng, ngoài ra, anh còn có s h tr ca b m đẻ
4
anh trong việc chăm sóc các con. Hiện ch D làm , thu nhp bao nhiêu, anh
không biết.
V chia tài sn chung gia anh ch D, anh không đề ngh Tòa án gii
quyết. Anhch D không có n chung nên anh không có yêu cu, đề ngh gì.
V tình trng sc khe ca ch D, theo anh, ch D b mc bnh tâm thn,
anh đ ngh Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định tâm thn vi ch D, anh
không yêu cu Tòa án tuyên b ch D mất năng lực hành vi dân s, anh không
đồng ý việc Tòa án đưa B, Ch tch Hi ph n V2 vào tham gia t tng vi
tư cách là người bo v quyn li ích hp pháp cho ch D, nếu Tòa án không đưa
bà B vào tham gia t tng, anh s không đề ngh Tòa án trưng cầu giám định tâm
thần đối vi ch D.
* Tại văn bản đề ngày 07/3/2024, cháu Bùi Trần Bảo M trình bày:
Bố đẻ cháu là Bùi Đình T. Mđẻ cháu Trần Thị D. Nếu bố mẹ đẻ cháu
ly hôn, nguyện vọng cháu muốn cùng với bố.
* Tại biên bản ghi lời khai ngày 12/3/2024, cháu Bùi Đình Tr trình bày:
B đẻ cháu Bùi Đình T. M đẻ cháu Trn Th D. Nếu Tòa án gii quyết
cho b m cháu ly hôn, nguyn vọng cháu xin được vi b.
* Tại biên bản c minh ngày 12/3/2024, bà Nguyễn Thị T (mẹ đẻ chị D)
trình bày:
Chị D và anh T đăng ký kết hôn năm 2006 tại UBND xã V2, huyện V. Do
bố mẹ anh T khó tính nên giữa chị D với bố mchồng hay xảy ra mâu thuẫn. Anh
T nóng tính, ghen tuông lý, nhiều lần đánh chị D khiến chị D suy sụp tinh thn
phải chịu đựng căng thẳng trong thời gian dài. Nhiều lần chị D nói chuyện
với gia đình không còn tình cảm với anh T. Từ cuối năm 2022 đến nay, chị D
về cùng gia đình bà, anh T đi tìm nhưng chị D không về. Nay chị D xin ly
hôn anh T, theo bà, mâu thuẫn giữa anh chị có, đã kéo dài nhưng do gia đình
là người công giáo, giáo lý không cho phép ly hôn nên không có ý kiến, đề
nghị gì.
Chị D anh T có 02 con chung là Bùi Trần Bảo M, sinh ngày 02/6/2007
Bùi Đình Tr, sinh ngày 09/02/2015, hiện cùng anh T. Nếu anh chly hôn, về
con chung của anh chị, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Chị D hiện
5
làm tự do tại địa phương, công việc thu nhập không ổn định, và gia đình
vẫn phải hỗ trợ thêm về kinh tế cho chị D.
Chị D anh T không nghĩa vụ về tài sản liên quan đến gia đình bà.
* Tại biên bản xác minh ngày 12/3/2024, ông Bùi Văn S (bđẻ anh T)
trình bày:
Chị D và anh T đăng ký kết hôn ngày 03/02/2006 tại UBND xã V2, huyện
V. Sau kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2022 thì xảy ra mâu thuẫn
do chị D không khéo léo trong cách ứng xử, thiếu quan tâm đến gia đình, chồng
con. Anh T gia đình khuyên bảo nhưng chị D không thay đổi. Từ cuối tháng
10/2022, chị D về nhà bố mđẻ , anh T đi tìm nhưng chị D không về. Nay
chị D xin ly hôn anh T, ông đề nghị Tòa án hòa giải để anh chị đoàn tụ, hơn nữa
giáo lý không cho phép ly hôn nên ông không đồng ý cho anh chị ly hôn.
Chị D anh T có 02 con chung Bùi Trần Bảo M, sinh ngày 02/6/2007
Bùi Đình Tr, sinh ngày 09/02/2015, hiện cùng anh T gia đình ông. Ông
không ý kiến về việc nuôi con chung của anh chị nhưng nếu anh T được
nuôi 2 con, gia đình ông sẽ hỗ trợ anh T trong việc chăm sóc, nuôi dạy các cháu.
Anh T làm nghề tự do, cuộc sống và thu nhập ổn định, đủ khả năng nuôi hai con.
Ch D anh T không có nghĩa vụ v tài sn liên quan đến ông và gia đình ông.
* Tại biên bản xác minh ngày 12/3/2024, đại diện cơ sở thôn V1, UBND
V2 và Công an xã V2, huyện V, cung cấp:
Chị Danh T đều đăng ký thường trú và ở tại thôn V1, xã V2, huyện V.
Anh chị đăng kết hôn tại UBND V2, huyện V vào ngày 03/02/2006. Về
mâu thuẫn giữa anh chị hay không, chính quyền địa phương không biết. Từ
cuối năm 2022 đến nay, chị D về ở tại nhà bố mẹ đẻ. Nay chị D xin ly hôn anh T,
đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Chị D anh T có 02 con chung là Bùi Trần Bảo M, sinh ngày 02/6/2007
Bùi Đình Tr, sinh ngày 09/02/2015. Nếu anh chị ly hôn, về con chung của anh
chị, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Chị D anh T hiện không vay nợ tại các tổ chức tín dụng, đoàn thể tại địa
phương.
* Tại công văn s 42/BVTT-KHTH ngày 20/5/2024, Bệnh viện Tâm Thần
Thái Bình cung cấp:
6
Từ ngày 21/11/2022 đến ngày 06/3/2023, chị D đến khám điều trị
ngoại trú tại Bệnh viện Tâm thần Thái Bình với chẩn đoán bệnh Theo dõi Giai
đoạn hưng cảm”. Bệnh này, nếu người bệnh tuân thủ phác đồ điều trị, không tự ý
bỏ thuốc thể ổn định tốt hoặc t lệ khỏi nhưng ít. Ngoài khoảng thời gian
trên, không tìm thấy thông tin chị D đến khám chữa bệnh lần nào khác tại bệnh
viện nên không thể đánh giá được vào thời điểm hiện tại chị D đã khỏi bệnh hay
chưa. Nếu muốn biết tình trạng bệnh hiện tại của chị D thì gia đình phải đưa
chị D đến bệnh viện để khám và đánh giá.
* Tại các biên bản lấy lời khai đề ngày 29/5/2024 và ngày 18/6/2024, ông
Trần Văn R (bố đẻ chị D) trình bày:
Trước khi kết hôn, sức khỏe chị D tốt, không có biểu hiện mắc bệnh m
thần. Đầu năm 2022, chị D bị áp lực về tinh thần nên tâm lý bất ổn, tính tình thay
đổi. Cuối năm 2022 đến đầu năm 2023, gia đình đưa chị D đi khám và điều trị
bệnh tại Bệnh viện Tâm thần Thái Bình, ngoài ra, chị D không đi khám, điều trị
tại sy tế nào khác. Ông đã được nghe Tòa án giải thích quy định pháp luật
liên quan, do gia đình ông người công giáo, không cho phép ly hôn nên gia đình
ông không đồng ý làm người đại diện theo pháp luật cho chị D trong qtrình
Tòa án giải quyết vụ án, không đề nghị Tòa án ra quyết định tuyên bố chị D mất
năng lực hành vi dân sự, không đề nghị Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định
tâm thần đối với chị D. Ông đnghị Tòa án không đến gia đình ông làm việc nữa.
Nếu chị D vẫn cương quyết xin ly hôn anh T, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo
pháp luật.
* Tại các biên bản làm việc ngày 18/6/2024 ngày 11/9/2024, ĐThị
B Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ V2, huyện V trình bày:
Chị D và anh T đều là người ở tại địa phương, đều là người công giáo. Khi
biết giữa chị D anh T xảy ra mâu thuẫn, Hội phụ nữ đã gặp gỡ, động viên
chị D khắc phục mâu thuẫn để quay về đoàn tụ nhưng chị D không đồng ý. Chị D
và anh T có hai con chung Bùi Trần Bảo MBùi Đình Tr, hiện cùng anh T.
Đối với việc chị D xin ly hôn anh T, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định
của pháp luật. không đề nghị Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định tâm
thần đối với chị D, không yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố chị D mất năng
7
lực hành vi dân sự. Tại địa phương, chị D tình trạng sức khỏe bình thường, tham
gia đầy đủ, tích cực các phong trào hoạt động hội phụ nữ xã.
Trước đây, bà đồng ý làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị
D trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, đã được tiếp cận hồ vụ án. Sau
đó, anh T nhiều lần đến nhà bà yêu cầu bà không được tham gia bảo vệ quyền lợi
chị D, theo anh T thì chị D người tâm thần, không đủ hành vi dân sự, bố mẹ
anh chị em chị D còn sống, không thiếu gì người bảo vệ cho chị D, không đến
lượt bà và nếu bà cố tình tham gia phiên tòa để chị D bỏ chồng, chị D có làm sao,
hoàn toàn chịu trách nhiệm. Sự việc này đã o cáo lên Hội phụ nữ cấp huyện
nhận được ý kiến chỉ đạo không tham gia. Do đó, từ chối tham gia tố tụng
trong vụ án với cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị D.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình tham gia
phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết án kể từ khi thụ cho đến
trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
phiên tòa đã thực hiện đúng quy định pháp luật ttụng dân sự. Viện kiểm sát
không yêu cầu, kiến nghị gì. Nguyên đơn chấp hành đúng quyền nghĩa vụ
của mình theo quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn
chấp hành đúng một phần quyền nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 72
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xáp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83,
84 của Luật Hôn nhân gia đình, xử: Cho chD được ly hôn anh T. Giao hai con
chung của anh chị là Bùi Trần Bảo M, sinh ngày 02/6/2007 và Bùi Đình Tr, sinh
ngày 09/02/2015 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị D không phải cấp ỡng
cho hai con chung cùng anh T. Về chia tài sản chung, không đặt ra giải quyết. Chị
D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm
sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:
8
[1.1] Ch Trần Thị D khởi kiện xin ly hôn anh Bùi Đình T, anh T hiện
thường trú tại V2, huyện V, tỉnh Thái Bình, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều
28, điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự,
đây vụ án v Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, thuộc thẩm quyền
giải quyết ca Tòa án nhân dân huyn V, tnh Thái Bình.
[1.2] Ngày 23/8/2024, chị Trần Thị D đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng
mặt. Anh Bùi Đình T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên
tòa lần thứ hai không do. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227,
khoản 1 khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng t
xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt chị D và anh T.
[1.3] Theo cung cấp của Bệnh viện Tâm thần Thái Bình thì t ngày
21/11/2022 đến ngày 06/3/2023, chị D điều trị ngoại trú tại bệnh viện với chẩn
đoán bệnh “Theo dõi Giai đoạn hưng cảm; bệnh này, nếu người bệnh tuân thủ
phác đồ điều trị có thể ổn định tốt hoặc có tỷ lệ khỏi nhưng ít; nếu muốn biết chị
D đã khỏi bệnh hay chưa thì chị D phải đến bệnh viện để khám đánh giá. Từ
khi Tòa án thụ lý vụ án đến trước thời điểm xét xử, anh T đều vắng mặt không có
do. Tại phiên tòa, anh T mặt yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám
định tâm thần đối với chị D. Để có căn cứ xem xét yêu cầu của anh T, Tòa án đã
giải thích quy định pháp luật liên quan, nhiều lần ra văn bản yêu cầu anh T cung
cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến tình trạng sức khỏe của chị D để thực hiện
việc giám định nhưng anh T không cung cấp. Xét thấy: Từ 21/11/2022 đến ngày
06/3/2023, chị D có điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Tâm thần Thái Bình với chẩn
đoán bệnh “Theo dõi Giai đoạn hưng cảm”. Anh T yêu cầu Tòa án ra quyết định
trưng cầu giám định tâm thần đối với chị D nhưng anh T không cung cấp tài liệu,
chứng cứ Tòa án đã yêu cầu để thực hiện việc giám định. Tòa án đã giải thích
pháp luật, hướng dẫn anh T, chị D, đại diện gia đình chị D B thực hiện quyền
yêu cầu tuyên bố chị D mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật
nhưng không ai có yêu cầu, do đó, Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: Chị Trần Thị D và anh Bùi Đình T kết hôn trên sở tự
nguyện, có đăng ký tại UBND xã V2, huyện V, tỉnh Thái Bình theo Giấy chứng
nhận kết hôn số 13, quyển số 01, ngày 03/02/2006, là hôn nhân hợp pháp. Trong
9
cuộc sống giữa anh chị đã xảy ra mâu thuẫn. Vnguyên nhân chính, theo chị D
do anh T người sống ích kỷ, gia trưởng, vũ phu, thường xuyên đánh, chửi chị,
gây áp lực cho chị cả vthể xác lẫn tinh thần, anh chị đã sống ly thân từ cuối năm
2022 đến nay, chị cương quyết xin ly hôn anh T, không chấp nhận đoàn tụ. Về
phía anh T cho rằng, nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn do chị D không
quan tâm đến gia đình, chồng con, anh và gia đình đã góp ý nhưng chị D không
thay đổi, anh chị cũng đã sống ly thân từ cuối năm 2022 đến nay, do anh vẫn còn
tình cảm với chị D, mặt khác, anh chị đều người công giáo, không được phép
ly hôn nên anh không đồng ý ly hôn, mong muốn đoàn tụ. Theo các lời khai đương
sự đã trình bày và theo kết quả xác minh đối với đại diện hai bên gia đình, xác
định mâu thuẫn giữa anh chlà có, xảy ra từ năm 2022 và anh chị sống ly thân từ
đó đến, anh T xin đoàn tụ nhưng anh T không đưa ra được biện pháp nào để hàn
gắn hạnh phúc gia đình. Như vậy, mâu thuẫn giữa chị Danh T đã thực sự trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, Hội
đồng xét x căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn
nhân gia đình, chấp nhận đơn khởi kiện của chị D, xử cho chị D được ly hôn
anh T.
[2.2] Về nuôi con chung: Chị Trần Thị D anh Bùi Đình T 02 con
chung Bùi Trần Bảo M, sinh ngày 02/6/2007 Bùi Đình Tr, sinh ngày
09/02/2015. Tại Tòa án, chị D đề nghị giao cả hai con chung cho anh T trực tiếp
nuôi dưỡng, anh T cũng nguyện vọng được nuôi dưỡng cả hai con. Xét thấy,
chị D hiện ở nhà bố mẹ đẻ, công việc và thu nhập của chị D không ổn định, cháu
M cháu Tr đang cùng anh T cuộc sống ổn định đều nguyện vọng
cùng bố, anh T sức khỏe, có nhà ở, có công việc, thu nhập ổn định có sự
hỗ trợ của gia đình trong việc quan tâm, chăm sóc các con. Do đó, để đảm bảo s
ổn định trong cuộc sống, việc học tập đảm bảo s phát triển mọi mặt của con
trẻ, căn cứ quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình, Hội
đồng xét x cần chấp nhận đề nghị của chị D anh T, giao cháu M và cháu Tr
cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Về nghĩa vcấp dưỡng cho con, xét thấy, quá
trình Tòa án giải quyết vụ án, chị D do có khó khăn về kinh tế nên không có khả
năng cấp dưỡng, anh T đều không yêu cầu chD phải cấp dưỡng cho các con cùng
anh, yêu cầu này của anh T là tự nguyện, Hội đồng xét x chấp nhận.
10
[2.3] Về chia tài sản chung: Chị Trần Thị D anh Bùi Đình T đều trình
bày anh chị tthỏa thuận phân chia tài sản chung, anh chị không đi vay không
cho ai vay nợ chung, anh chị không yêu cầu hay đnghị , do đó, Hội đồng
xét x không đặt ra giải quyết.
[2.4] Về án phí: Chị Trần Thị D phải chịu án phí ly hôn thẩm theo quy
định của pháp luật.
[2.5] Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị D anh Bùi Đình T quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 và các Điều 81, 82, 83, 84 của
Luật n nhân gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b
khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 khoản
3 Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27
Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp quản sử dụng án phí lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho chị Trần Thị D được ly hôn anh Bùi Đình T.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao cho anh Bùi Đình T được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung
Bùi Trần Bảo M, sinh ngày 02/6/2007 và Bùi Đình Tr, sinh ngày 09/02/2015. Chị
Trần Thị D không phải cấp dưỡng cho hai con chung cùng anh Bùi Đình T.
2.2. Chị Trần Thị D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai
được cản trở. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng cho con
được đặt ra giải quyết khi các bên có yêu cầu.
3. Về chia tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị Trần Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn thẩm.
Đối trừ vào số tiền 300.000 đồng chị D đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai số
0001557 ngày 20/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Thái
Bình. Chị D đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
11
5. Về quyền kháng cáo: Chị Trần ThD và anh Bùi Đình T có quyền kháng
cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm
yết công khai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự tngười được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành
án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhn:
- Các đương sự;
- Vin kim sát nhân dân huyn V,
tnh Thái Bình;
- quan Chi cc Thi hành án dân
s huyn V, tnh Thái Bình;
- UBND V2, huyn V, tnh Thái
Bình (CNKH s 13, quyn s 01,
ngày 03/02/2006);
- Lưu: Hồ sơ v án, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THM PHÁN - CH TA PHIÊN TÒA
Nguyn Th Thùy Dương
Tải về
Bản án số 46/2024/HNGĐ-ST Bản án số 46/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 46/2024/HNGĐ-ST Bản án số 46/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất