Bản án số 519/2024/DS-PT ngày 10/06/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 519/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 519/2024/DS-PT ngày 10/06/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 519/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/06/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

Bn án s: 519/2024/DS-PT
Ngày: 10/6/2024
V/v Tranh chp hợp đồng vay tài sn
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Huyền
Các Thẩm phán: 1. Bà Đặng Huyền Phương
2. Bà Đỗ Thị Hòa
Thư ký phiên tòa: Bà Võ Thị Hoàng Yến - Thư ký Tòa án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: Trần Thị
Thúy Ái - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 10 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 319/2024/TLPT ngày 29
tháng 3 năm 2024, về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 956/2023/DS-ST ngày 11 tháng 12 năm 2023
của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2157/2024/QĐ-PT ngày 24
tháng 4 năm 2024, Quyết định hoãn phiên toà số 5714/2024/DS-ST ngày 13
tháng 5 năm 2024 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn:Vũ Thị N, sinh năm 1960 (có mặt).
Địa chỉ thường trú: 2 H, Phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ tạm trú: 2/91 Phan Thúc Duyện, Phường 4, quận Tân Bình, Thành
phố Hồ Chí Minh
2. Bị đơn: Đặng Thị L, sinh năm 1966
Địa chỉ thường trú: B N, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ tạm trú: A Hồ V, Khu phố A, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí
Minh (có mặt).
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền: Ông Lê Trung H, sinh năm 1970
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PH H CHÍ MINH
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp T do Hnh phúc
2
Địa chỉ: C Tổ B, Khu phố A, phường B, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh
(có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đào Văn T, sinh năm 1955
Địa chỉ thường trú: 2 H, Phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ tạm trú: 2 P, Phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn
xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai các tài liệu trong hồ vụ án,
nguyên đơn bà Vũ Thị N trình bày:
Thông qua mối quan hệ làm ăn quen biết, bà có cho bà Đặng Thị L vay tiền
hai lần: Lần 1: Vào ngày 17/10/2009 L vay của số tiền 1.000.000.000
đồng, thời hạn vay 10 ngày, hai bên không thỏa thuận lãi suất. Lần 2: Vào
ngày 24/11/2009 L vay của số tiền 1.500.000.000 đồng, thời hạn vay
30 ngày, hai bên không thỏa thuận lãi suất.
Theo hai giấy: “Giấy vay tiền” ngày 17/10/2009 “Giấy cam kết mượn
tiền” ngày 24/11/2009 thì có sự việc bà N giao tiền cho bà L mượn theo như nội
dung hai giấy trên. Cả hai lần bà L đều đến nhà bà N nhận tiền do bà N trực tiếp
đưa cho bà L, bà L nhận tiền là viết giấy nợ.
Mục đích Đặng Thị L vay tiền của để làm dịch vụ đáo hạn ngân
hàng. Bà L hứa sẽ cho bà tiền cà phê sau mỗi lần bà L làm xong dịch vụ đáo hạn
hồ sơ cho khách hàng. Nhưng sau khi nhận tiền thì bà L bỏ trốn khỏi địa phương
cho đến nay, suốt 10 năm qua không liên lạc được cũng như không gặp mặt
L đyêu cầu L trả lại tiền. Năm 2011 gặp được L một lần, lúc
này, L đã viết giấy hẹn trong vòng 10 ngày strả lại tiền cho bà, nhưng sau
đó bà L không thực hiện và bà cũng không liên lạc được với bà L nữa. Thời gian
gần đây, nhờ mối quan hquen biết biết được chỗ mới của L, nhưng
nhiều lần đến tìm tL cố tình tránh mặt, không gặp để giải quyết số tiền
đã vay mượn của bà.
Nay, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Đặng Thị L trả lại cho bà số tiền
nợ gốc 2.500.000.000 đồng, bà tự nguyện không yêu cầu L thanh toán tiền
lãi.
Cả hai lần vay tiền, bà Đặng Thị L đều đến tận nhà của bà để trực tiếp nhận
tiền và viết giấy nợ. Số tiền vay 2.500.000.000 đồng bà cho L vay tài
sản riêng của bà, không phải tài sản chung vợ chồng. Số tiền này cũng chỉ
cho nhân L vay, không liên quan đến chồng L nên chỉ yêu cầu
nhân L trách nhiệm trả nợ cho bà. Trước hai lần cho vay này, giữa bà N
với bà L cũng có vài lần cho vay qua lại để bà L làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng,
những lần trước hai bên làm giấy tờ nhưng sau khi giao dịch thành công thì
xé giấy vay.
3
Bị đơn bà Đặng Thị L trình bày: Trong một lần đi công chứng hồ sơ vay tại
Phòng công chứng số D, quận T, gặp làm quen với Thị N. N
biết bà làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng cho khách cần tiền nên N nói thể
thu xếp vốn giúp bà L.
Đến ngày 17/10/2009, bà cần tiền nên báo N biết, N bảo N
lập giấy vay tiền như chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện bà N đã nộp, giấy
này nhằm để cho N sở đi gặp bạn huy động tiền cho L, từ đó
người ta thấy có người thật việc thật để cho mượn. Nhưng thực tế sau khi bà viết
giấy vay tiền giao cho bà N, bà chờ đợi cả tuần nhưng bà N vẫn chưa có tiền nên
bà đã xoay sở tiền ở chỗ khác.
Đến ngày 24/11/2009, lại cần tiền đáo hạn cho khách nên hỏi thử N
có hay không để cho bà mượn thì bà N kêu bà viết giấy cam kết mượn tiền nhằm
mục đích làm tin sở cho N đi huy động số tiền 1.500.000.000 đồng
về cho mượn. Sau khi viết giấy cam kết ợn tiền, kéo dài đến 4-5 ngày
sau bà N vẫn chưa huy động được tiền nên L tự lo.
Giấy vay tiền ngày 17/10/2009 Giấy cam kết mượn tiền ngày
24/11/2009 thực chất N hứa cho mượn hứa mượn chchưa nhận
số tiền tổng cộng 2.500.000.000 đồng như N đã trình bày và yêu cầu
phải trả. Nội dung hai giấy trên không từ nào cho thấy bà đã nhận và bà N đã
đưa cho số tiền trên. Các chữ chữ viết tên trong 02 giấy: “Giấy vay
tiền” ngày 17/10/2009 và “Giấy cam kết mượn tiền" ngày 24/11/2009 là chữ của
bà, lý do bà viết hai giấy này là:
Đối với “Giấy vay tiền” ngày 17/10/2009 bà viết tại nhà bà N, mục đích bà
viết để làm tin, làm sở cho N đi huy động vốn về cho vay lại làm
dịch vụ đáo hạn ngân hàng cho khách. Nhưng ba ngày sau, N vẫn không đủ
tiền nên L lấy tiền chỗ khác để m dịch vụ đáo hạn cho khách. Thực chất
bà L không nhận số tiền 1.000.000.000 (một tỷ) đồng theo giấy này của bà N.
Đối với “Giấy cam kết mượn tiền” ngày 24/11/2009 viết quán phê
đường B, quận T, mục đích cũng giống như lần trước để N huy động tiền
cho bà L vay làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng cho khách. Nhưng một tuần sau bà
N vẫn không huy động được tiền, do đó thực chất L không nhận số tiền
1.500.000.000 (một tỷ năm trăm triệu) đồng theo như giấy này của bà N.
Đối với Giấy hẹn nợ ngày 17/10/2011 toàn bộ chữ chữ viết của
L. do L viết giấy này do trước đó L vay của N số tiền
20.000.000 đồng, bà L chưa có tiền trả lại nên khi bà N đòi thì bà L ghi giấy hẹn
cho N. L xác định không vay tiền cũng nkhông nhận bất kỳ số tiền
nào như yêu cầu khởi kiện của bà N. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà N thì bà L
không đồng ý. Trước hai lần viết giấy nnêu trên thì N cũng vài lần cho
L vay tiền để làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng cho khách, mỗi lần nhận tiền bà
4
L đều ghi vào giấy “đã nhận đủ số tiền", khi giao dịch thành công thì hai n
xé giấy vay tiền.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đào Văn T đơn xin vắng
mặt, có lời trình bày tại bản tự khai ngày 05/9/2023 (bút lục 25) như sau:
Ông là chồng của bà Vũ Thị N. Ông có biết sự việc bà N có cho bà L mượn
số tiền tổng cộng 2.500.000.000 đồng vào năm 2009. Hai lần ợn tiền bà L
đều đến nhận trực tiếp tại nhà vợ chồng ông. Ông xác định số tiền bà N cho bà L
mượn là tiền riêng của N, không phải là tài sản chung của vợ chồng. Do xa
đi lại khó khăn nên ông đề nghị được vắng mặt tại các buổi làm việc, hòa giải,
đối chất, xét xử tại Tòa án.
Tại phiên tòa, Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. L trình
bày nhân suy nghĩ là không nhận tiền của N thì thôi, không
trốn tránh hay tìm cách tránh mặt bà N như bà N trình bày mà do bà chuyển sang
nơi mới, bà vẫn còn hộ khẩu thường trú nhà cũ. Nếu có vay tiền của N
trốn tránh thì N chỉ cần qua Công an phường nơi bà có hộ khẩu thường trú
tìm, lúc này công an phường sẽ có trách nhiệm cung cấp số điện thoại của bà cho
N biết. L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của N. Do L đã tự
trình bày ý kiến tại phiên tòa nên ông Trung H người đại diện hợp pháp
theo ủy quyền của L không lời trình bày hay ý kiến bổ sung tại phiên
tòa.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 956/2023/DS-ST ngày 11 tháng 12 năm 2023
của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định:
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 471 và Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí và lệ phí tòa án;
Căn cứ Luật thi hành án dân sự;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thị N: Buộc
Đặng Thị L trách nhiệm trả cho Thị N số tiền vốn vay
2.500.000.000 đồng (hai tnăm trăm triệu đồng), trả làm một lần ngay sau khi
bản án có hiệu lực pháp luật.
Đôi bên Thi hành tại Chi cc thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày Thị N đơn yêu cầu thi hành án, nếu Đặng Thị L
chưa thanh toán đủ số tiền nêu trên thì hàng tháng L còn phải chịu tiền lãi
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng
với thời gian và khoản tiền chưa thi hành án.
5
2. Về án phí: Án phí dân s thẩm là 82.000.000 đồng (tám mươi hai
triệu đồng) do Bà Đặng Thị L phải chịu.
Thị N thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí
nên không phải hoàn tiền tạm ứng án phí lại cho bà N.
Bản án dân sự sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và quyền thi hành án
của các đương sự.
Ngày 13/12/2023, bị đơn bà Đặng Thị L kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm
yêu cầu sửa án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Bị đơn không rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu kháng cáo.
Bị đơn Đặng Thị L trình bày: xác nhận chữ viết chữ tại các
giấy vay nợ ngày 17/10/2009, ngày 24/11/2009 giấy hẹn nợ ngày 17/10/2011
là của bà L, phần sửa chữa tại số17/10/2011 là do bà L tự sửa. Tuy nhiên, bà viết
giấy cam kết hẹn nợ ngày 17/10/2011 hẹn trả snbà vay N 20.000.000
đồng chứ không phải số nợ 2.500.000.000 đồng bởi giấy nợ ngày
17/10/2009, ngày 24/11/2009 để N huy động vốn chứ thực tế N chưa
giao khoản tiền này cho bà.
Đại diện theo ủy quyền bđơn ông Trung H trình bày: Các giấy vay
tiền ngày 17/10/2009, ngày 24/11/2009 không thể hiện nội dung bà Thị N đã
giao tiền cho Đặng Thị L. Đây chỉ hợp đồng vay tiền chứ không phải xác
nhận đã nhận tiền nên không có căn cứ xác định bà L có nghĩa vụ trả tiền cho
N theo các giấy vay tiền ngày 17/10/2009, ngày 24/11/2009. Yêu cầu hội
đồng xét xử sửa án thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn.
Nguyên đơn bà Thị N trình bày: Đặng Thị L đã vay tiền nhận
tiền của như các giấy vay tiền, giấy cam kết vay tiền giấy cam kết trả n
đã ký. Ngoài khoản nợ 2.500.000.000 đồng theo giấy nợ ngày 17/10/2009
ngày 24/11/2009 không cho L vay khoản tiền nào khác.Yêu cầu hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến
và đề nghị:
- Về tố tụng: Từ ngày thụ đến khi xét xử tại phiên tòa hôm nay, Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương
sự đã thực hiện đầy đủ đúng trình tự thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Về nội dung: Đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị
đơn, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên bản án dân sự
6
thẩm số 956/2023/DS-ST ngày 11/12/2023 của Tòa án nhân dân quận Bình
Tân. Án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm bà Đặng Thị L phải chịu
theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hvụ án được thẩm
tra tại phiên toà và kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về thời hạn kháng cáo: Ngày 11/12/2023, Toà án nhân dân quận Bình
Tân, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên bản án thẩm số 956/2023/DS-ST về
“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Ngày 13/12/2023, bị đơn bà Đặng Thị L
kháng cáo toàn bộ bản án thẩm. Kháng cáo của đương sự trong thời hạn
qui định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[1.2] Về quan hệ tranh chấp thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Nguyên
đơn Thị N khởi kiện yêu cầu bị đơn Đặng Thị L trả lại số tiền đã vay
theo Giấy vay tiền ngày 17/10/2009 Giấy cam kết mượn tiền ngày
24/11/2009. Bị đơn Đặng Thị L địa chỉ trú tại quận B, Thành phố Hồ
Chí Minh. Do đó, cơ sở xác định đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tài
sản Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết là
đúng thẩm quyền của theo quy định tại khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều
35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Đào Văn T có đơn xin vắng mặt trong toàn bộ quá trình tố tụng
tại Tòa án. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Bộ luật tố tụng dân
sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt.
[2] Về nội dung kháng cáo: Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Đặng Thị
L kháng cáo toàn bộ bản án thẩm yêu cầu sửa án thẩm theo hướng không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn về việc triệu tập ông Đào Văn T:
Ông Đào Văn T là chồng nguyên đơn bà Vũ Thị N đã được Tòa án sơ thẩm triệu
tập tham gia tố tụng với cách người quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã
có bản tự khai trình bày ý kiến tại bản tự khai ngày 05/9/2023 (bút lục 25). Đồng
thời, ông T yêu cầu được vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng không liên
quan trong vụ án. Do đó, kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở chấp nhận.
[2.2] Xét, yêu cầu khởi kiện của N về việc yêu cầu L trách nhiệm
hoàn trả số tiền vốn vay là 2.500.000.000 đồng:
Căn cứ vào “Giấy vay tiền” ngày 17/10/2009 nội dung: Bên cho vay:
Thị N; CMND số: 023501096 cấp ngày 15/5/2000 tại CATPHCM; Thường
trú tại:2 H phường D quận T. Bên vay tiền:Đặng Thị L,CMND số: 021704537
7
cấp ngày 17/7/2006 tại CATP.HCM, Thường trú tại: B N P.14.QTB.Số tiền vay
1.000.000.000 đồng( Một tỷ đồng chẵn).Thời hạn hai bên thỏa thuận.Thỏa
thuận giữa hai bên trong vòng 10 ngày)”. L đã tên ghi họ tên tại bên vay.
Xác định L vay của N số tiền 1.000.000.000 đồng. Căn cứ vào “Giấy
cam kết mượn tiền" ngày 24/11/2009 nội dung: Tôi Đặng Thị L sinh 1966,
giấy CMND số: 021704537 Thường ttại: B N P.14.QTB, mượn của chị:
Thị N, sinh năm 1960 CMND số: 023501096 cấp ngày 15/5/2000 tại
CATPHCM; Thường trú tại:2 H phường D quận T TP ..Chị L mượn số tiền:
1.500.000.000 đồng. Hẹn từ ngày 24/11/2009 đến ngày 24/12/2009 sẽ trả đủ cho
chị N”. Phía dưới cùng của “Giấy cam kết mượn tiền" ngày 24/11/2009 chữ
viết và tên“Người giao tiền Thị N người mượn tiền Đặng Thị L”.
Xác định vào ngày 24/11/2009, L vay của N 1.500.000.000 đồng. L
xác nhận đã viết và ký tên tại các giấy vay tiền, giấy cam kết mượn tiền và cam
kết trả nợ như nội dung các giấy vay tiền do N giao nộp, L cũng người
trực tiếp sửa số 17/10/2011 tại cam kết trả nợ. Theo L thì L N thỏa
thuận vay tiền nhưng thực tế bà N không xoay được tiền giao cho bà L như thỏa
thuận. Tuy nhiên, tại Giấy hẹn nợ ngày 17/10/2011, L hứa trả nợ cho bà N từ
ngày 17/10/2011. Thời điểm viết giấy cam kết trả nợ này là sau khi các bên thực
hiện hai giấy nợ ngày 17/10/2009 ngày 24/11/2009. Điều này chứng tỏ
L có vay tiền, đã có nhận tiền của bà N nên mới hứa trả nợ cho bà N. L trình
bày toàn bộ chữ chữ viết là của bà L nhưng do L viết giấy này do
trước đó L vay của N số tiền 20.000.000 đồng, bà L chưa có tiền trả lại
nên khi N đòi thì L ghi giấy hẹn cho N. L không cung cấp được
chứng cứ chứng minh L vay s tiền 20.000.000 đồng của N, N xác
định ngoài hai khoản nợ tại giấy nợ ngày 17/10/2009 và ngày 24/11/2009 N
không cho L vay bất cứ khoản tiền nào khác nên Giấy hẹn nợ ngày
17/10/2011 là bà L hứa trả cho bà N hai khoản vay trên. Do đó, lời trình bày của
L không căn cứ. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ được thể hiện trong
hồ sơ vụ án, sở xác định L vay còn nợ N số tiền nợ gốc
2.500.000.000 đồng đến nay vẫn chưa thanh toán.
Xét thấy, các bên giao kết hợp đồng vay tiền trên sở hoàn toàn tự
nguyện, các chủ thể tham gia kết hợp đồng đầy đủ năng lực trách nhiệm
dân sự. Tất cả các hợp đồng vay các bên đã giao kết hình thức và nội dung
phù hợp với quy định tại Điều 124 và Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2005 nên có
hiệu lực đối với các bên tham gia giao dịch, được pháp luật ng nhận bảo
vệ.
Căn cứ Điều 471 Bộ luật Dân sự quy định “Hợp đồng vay tài sản s
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; ”.
Trong quá trình giải quyết tại phiên tòa, nguyên đơn xuất trình 02 giấy vay
tiền viết chữ của Đặng Thị L như sau: “Giấy vay tiền” ngày
17/10/2009, “Giấy cam kết mượn tiền” ngày 24/11/2009 với tổng số tiền vay là
2.500.000.000 đồng.
8
Căn cứ khoản 1 Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định Bên vay tài
sản tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn…”; Căn cứ vào lời trình bày của các
đương s cũng ncác tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình gồm Giấy
vay tiền” ngày 17/10/2009, “Giấy cam kết mượn tiền” ngày 24/11/2009 Giấy
hẹn nợ ngày 17/10/2011 đủ cơ sở để xác định nguyên đơn cho bị đơn vay
tiền với tổng số tiền 2.500.000.000 đồng, và bị đơn đã nhận số tiền này. Đến nay
thời hạn vay tiền đã hết, nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả lại số tiền ngốc
2.500.000.000 đồng ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu bị đơn
trả tiền lãi là tự nguyện phù hợp với quy định tại các Điều 474, Điều 478 của
Bộ luật Dân snăm 2005. Bản án thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn n cứ đúng qui định pháp luật, kháng cáo của bị đơn
không có cơ sở chấp nhận.
[3] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh căn
cứ, đúng pháp luật phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên sở
không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí:
- Về án phí dân sự thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án,
Đặng Thị L trách nhiệm trả số tiền 2.500.000.000 đồng cho Thị N
nên phải chịu án phí theo qui định của pháp luật là 82.000.000 đồng đồng.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án
Bị đơn bà Đặng Thị L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng nhưng
được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí lệ
phí Tòa án số 0027120 ngày 19/12/2023 của Chi cục thi hành án Dân squận
Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn bà Đặng Thị L.
Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số 956/2023/DS-ST ngày 11 tháng 12
năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Thị N: Buộc bị đơn
Đặng Thị L phải trách nhiệm trả cho Thị N số tiền 2.500.000.000
9
đồng (Hai tỷ năm trăm triệu đồng), trả một lần ngay sau khi bản án hiệu lực
pháp luật.
Các bên Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày Thị N đơn yêu cầu thi hành án, nếu Đặng Thị L
chưa thanh toán đủ số tiền nêu trên thì hàng tháng L còn phải chịu tiền lãi
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng
với thời gian và khoản tiền chưa thi hành án.
2. Về án phí dân sự thẩm: Đặng Thị L phải chịu 82.000.000 đồng
(Tám ơi hai triệu đồng).
Thị N thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí nên
không phải hoàn tiền tạm ứng án phí lại cho bà N.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Đặng Thị L phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo
Biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0027120 ngày 19/12/2023 của Chi
cục thi hành án Dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người
phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành
án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các
Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật Thi hành án
dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhn:
- TAND Ti cao;
- TAND cp cao ti TPHCM;
- VKSND TP.HCM;
- TAND Q.Bình Tân;
- Chi cc THADS Q.Bình Tân;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án, VP (T/16)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Huyền
Tải về
Bản án số 519/2024/DS-PT Bản án số 519/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 519/2024/DS-PT Bản án số 519/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất