Bản án số 160/2024/DS-PT ngày 03/12/2024 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 160/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 160/2024/DS-PT ngày 03/12/2024 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bạc Liêu
Số hiệu: 160/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nay bà Phùng Thị Kim P yêu cầu bà Thạch Thị Na R và ông Huỳnh Văn Q cùng có trách nhiệm trả cho bà P, ông P1 số tiền nợ gốc là 2.000.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh tính từ ngày khởi kiện (ngày 20/6/2024) đến khi thanh toán xong các khoản tiền theo lãi suất 10%/năm.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẠC LIÊU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 160/2024/DS-PT
Ngày 03 12 2024
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trương Thanh Dũng
Các Thẩm phán: Ông Lê Phan Công Trí
Ông Lê Thanh Hùng
- Thư phiên tòa: Dương Thị Kiều Thảo Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Bạc Liêu.
- Đại diện Viện Kiểm t nhân dân tỉnh Bạc Liêu tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Nhỏ - Kiểm sát viên.
Ngày 03 tháng 12 năm 2024, tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét
xử phúc thẩm ng khai vụ án dân sự thụ số: 144/2024/TLPT-DS, ngày 04
tháng 11 năm 2024.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 88/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2024,
của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 135/2024/QĐ-PT
ngày 13 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phùng Thị Kim P, sinh năm 1977; địa chỉ: Số B, đường
N, Khóm B, Phường E, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu (có đơn yêu cầu xét xử vắng
mặt).
- Bị đơn:
1. Bà Thạch Thị Na R, sinh năm 1983 (có mặt).
2. Ông Huỳnh Văn Q, sinh năm 1982 (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Số C, Trung tâm thương mại P3, thành phố B, tỉnh Bạc
Liêu.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Na R: Huỳnh Thị
Hồng T là luật sư Công ty L - Chi nhánh B. (Có mặt)
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Hồng P1, sinh
năm 1977; Địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.
2
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Hồng P1: Phùng Thị
Kim P, theo văn bản ủy quyền ngày 02/8/2024 (có đơn yêu cầu xét xử vắng
mặt).
- Người kháng cáo:Phùng Thị Kim P là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình ttụng tại Tòa án
Phùng Thị Kim P trình bày:
Bà P và vợ chồng ông Huỳnh Văn Q, bà Thạch Thị Na R có quen biết với
nhau do cùng làm chung Ngân hàng thương mại cổ phần Đ Chi nhánh B.
Trong khoảng thời gian quen biết o khoảng tháng 11/2021, vợ chồng ông Q
R tìm đến gặp bà để hỏi vay số tiền 2.000.000.000 đồng. Tại đơn khởi
kiện P nộp cho Tòa án trình bày vào năm 2019, do tôi nhớ nhầm với
việc giao dịch môi giới mua bán nhà với ông C, A, nay xác định lại thời
gian cho R ông Q vay 2.000.000.000 đồng được diễn ra vào
khoảng tháng 11/2021.
do ông R, ông Q hỏi vay số tiền trên để mua căn nhà tọa lạc tại
thành phố T, thành phố Hồ Chí Minh. Bà chỉ nghe R nói lại như thế chứ thực
tế ông Q R sử dụng tiền vào mục đích thì không biết được. Do quen
biết và tin tưởng nhau nên P đồng ý cho vợ chồng R vay số tiền
2.000.000.000 đồng, không thỏa thuận lãi suất, ông Q R cam kết 15
ngày sau sẽ thanh toán lại toàn bộ số tiền trên cho tôi. Ông Q và bà R viết "Giấy
mượn tiền" không đề ngày với nội dung "Tôi tên Thạch Thị Na R cùng chồng
tên Huỳnh Văn Q có mượn của chị Phùng Thị Kim P số tiền 2.000.000.000 đồng
(Hai tỷ đồng) trong vòng 15 ngày sẽ hoàn trả số tiền trên cho chị Phùng Thị
Kim P. Nếu chậm trả sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật". ng
ngày bà P đã đưa đủ số tiền 2.000.000.000 đồng cho vợ chồng ông Q, bà R.
Đến hẹn trả thì do vợ chồng ông Q, bà R có nhiều khó khăn do ánh hưởng
của dịch Covid 19 nên cũng kéo dài thời gian trả nợ cho vợ chồng ông Q.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay thì ông Q R vẫn chưa trả cho bà số tiền
2.000.000.000 đồng. Nay Phùng Thị Kim P yêu cầu Thạch Thị Na R
ông Huỳnh n Q cùng trách nhiệm trả cho P, ông P1 số tiền nợ gốc
2.000.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh tính từ ngày khởi kiện (ngày 20/6/2024)
đến khi thanh toán xong các khoản tiền theo lãi suất 10%/năm.
Bị đơn bà Thạch Thị Na R trình bày:
Thạch Thị Na R và Phùng Thị Kim P ng công tác tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Đ Chi nhánh B. Trước đây, vào ngày 28/8/2019, bà R có
mượn của P số tiền 2.000.000.000 đồng, thỏa thuận sau 15 ngày sẽ trả lại
toàn bộ khoản vay. Mục đích mượn tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất của ông Nguyễn Minh C bà Nguyễn Thị Kim A. Khi chuyển nhượng đất
R không quen biết ông C, việc nhận chuyển nhượng đất do Phùng Thị
Kim P giới thiệu cho bà R, giá mua do bà P nói là 2.500.000.000 đồng, bà P trực
3
tiếp giao dịch, trả tiền cho ông C chứ R không nhận tiền mặt. Vào ngày
09/9/2019, R đã hoàn trả đủ số tiền 2.000.000.000 đồng đã ợn của
Phùng Thị Kim P, hai bên làm “Giấy nhận tiền” do P ghi ngày 09/9/2019, số
tiền 2.200.000.000 đồng để chứng minh.
Tại đơn khởi kiện P cho rằng việc mượn tiền nhằm mục đích để R
mua căn hộ chung tại thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên số tiền mua căn hộ
từ nguồn tiền khác, không phải từ nguồn tiền 2.000.000.000 đồng đã ợn
của Phùng Thị Kim P. Ngoài các mục đích sử dụng tiền như đã nêu trên, vợ
chồng không còn phát sinh mục đích sử dụng tiền để mua sắm bất kỳ tài sản
nào khác giá trị lớn trong khoảng thời gian từ năm 2019 đến năm 2024. Do
đó, bà R không đồng ý với toàn bộ nội dung bà Phùng Thị Kim P đã khởi kiện.
Từ nội dung trên, tại Bản án thẩm số: 88/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8
năm 2024, của Tòa án nhân n thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu đã quyết
định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; điểm b khoản 2 Điều 227, điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244 của
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 357; Điều 464; Điều 466; Điều 468 của
Bộ luật dân snăm 2015;Khoản 2 Điều 26 Nghquyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phùng
Thị Kim P đối với bị đơn bà Thạch Thị Na R, ông Huỳnh Văn Q.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự theo quy định pháp luật.
Ngày 11 tháng 9 năm 2024, Phùng Thị Kim P kháng cáo yêu cầu chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của P2. Tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày
27/11/2024 bà P xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu và nội dung kháng cáo.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Na R trình bày: Na R
và bà P cùng công tác tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ, bà P giới thiệu cho
Na R mua căn nhà của ông C, A với số tiền 2,5 tỷ đồng, mọi thỏa thuận
giao dịch P giao dịch với ông C A. Để mua đất tR đã chuyển
khoản cho P số tiền 100.000.000 đồng, R chơi hụi P hốt dùm
204.000.000 đồng, còn thiếu lại 2,2 t đồng để tiền trả cho ông C thì R
mượn của P, khi mượn P yêu cầu bà R viết biên nhận mượn 2tỷ đồng
không để ngày tháng năm trên thực tế bà P không đưa tiền cho Na R
mà bà P giữ lại để trả cho ông C, bà A. Sau khi làm xong thủ tục chuyển nhượng
đất, Na R mới thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay tiền Ngân
hàng, đến ngày 09/9/2019 nhận tiền vay 2,5 tđồng, bà Na R đã trả cho P
2 tỷ hai bên làm “Giấy nhận tiền” do P ghi ngày 09/9/2019, số tiền 2,2 tỷ
đồng để chứng minh. Khi trả bà R yêu cầu bà P đưa lại biên nhận nhưng P
4
nói để nhà nên hiện nay bà P mới còn bản gốc. Mặt khác, tại biên nhận mà
R viết cho bà P có hứa 15 ngày sau sẽ trả, nếu bà R mượn của P từ năm 2021
thì do bà R không trả, P cũng không đòi đến nay mới khởi kiện, tại đơn
khởi kiện bà P xác định cho mượn năm 2019, sau này xác định cho mượn m
2021, lời trình bày của P không phù hợp. vụ kiện R khởi kiện bà P
đòi số tiền 904.000.000 đồng thì P yêu cầu phản tố các khoản tiền khác
không đặt ra khoản tiền này. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xkhông chấp nhận
kháng cáo của bà P, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu phát biểu ý kiến:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Từ khi thụ vụ án đến khi xét xử
phúc thẩm, Thẩm phán Hội đồng xét xử, Thư các đương sự thực hiện
đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng
cáo của bà Phùng Thị Kim P; căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Sửa Bản án thẩm số: 88/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2024, của Tòa án
nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu, theo hướng chấp nhận kháng cáo
của bà Phùng Thị Kim P.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ lưu trong hồ
vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến trình bày của các đương sự
ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu, sau khi thảo
luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Về tố tụng: Nguyên đơn Phùng Thị Kim P đồng thời người đại
diện theo uỷ quyền của ông Nguyễn Hồng P1 bị đơn ông Huỳnh Văn Q
đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; tiến hành xét xử vắng mặt theo Điều 228 Bộ luật
Tố tụng dân sự.
[3] Xét kháng cáo của bà Phùng Thị Kim P yêu cầu chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của bà, Hội đồng xét xử xét thấy:
[3.1] Tại đơn khởi kiện, P trình bày bà Na R quen biết nhau do
cùng công tác chung tại Ngân hàng TMCP Đ chi nhánh B. Năm 2019, vợ
chồng Na R, ông Q ợn của số tiền 2.000.000.000 đồng, mục đích mua
căn hộ tại Thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tại Bản tự khai
ngày 14/8/2024 (bút lục 94) tại phiên tòa thẩm, P xác định Na R,
ông Q ợn tiền của vào khoảng tháng 11 năm 2021, không nhớ ngày, mục
đích mượn tiền thì bà không rõ bà Na R, ông Q sử dụng làm gì.
Vợ chồng bà Na R thì xác định, ngày 28/8/2019, bà Na R mượn của bà
P số tiền 2.000.000.000 đồng, thoả thuận 15 ngày sau sẽ trả toàn bộ số tiền
mượn, mục đích mua đất của ông C, A; vợ chồng Na R, ông Q viết giấy
mượn tiền, mục đích để bà P tự xuất tiền trả cho ông C, bà A, thực tế bà Na R
ông Q không nhận tiền từ P. Đến ngày 09/9/2019, Na R đã hoàn trả đủ số
5
tiền cho P bằng giấy nhận tiền do P viết biên nhận số tiền 2.200.000.000
đồng, đồng thời Na R chuyển khoản cho P số tiền 100.000.000 đồng
đưa tiền hụi cho P 204.000.000 đồng; tổng cộng các khoản bà Na R đưa bà P
là 2.504.000.000 đồng.
Tuy nhiên, sau khi nhận tiền từ bà Na R 2.504.000.000 đồng, bà P chỉ đưa
cho ông C, bà A 1.600.000.000 đồng, nên ông C, bà A khởi kiện yêu cầu vô hiệu
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng ngày 26/8/2019.
Theo Bản án dân sự phúc thẩm số: 199/2023/DS-PT ngày 17/4/2023 của
TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện ngày 26/8/2019 bà P giới
thiệu vợ chồng Na R, ông Q nhận chuyển nhượng đất ông Nguyễn Minh C,
Nguyễn Thị Kim A, với giá chuyển nhượng 2.500.000.000 đồng. Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng ngày 26/8/2019, P
yêu cầu Na R đưa P 2.500.000.000 đồng. Quá trình giao dịch chuyển
nhượng, P trực tiếp làm thủ tục trả tiền cho ông C, Á. Tổng số tiền
Na R đưa P 2.504.000.000 đồng, trong đó ngày 09/9/2019 P ghi biên
nhận tiền của Na R 2.200.000.000 đồng, chuyển khoản từ tài khoản của bà Na R
số 78510000006063 sang tài khoản của P số 78510000020018 số tiền
100.000.000 đồng và bà P hốt hụi thay bà Na R tổng số 204.000.000 đồng.
[3.2] Bà P yêu cầu To
̀
a a
́
n gia
̉
i quyết buộc bà Na R và ông Q hoàn trả cho
P, ông P1 số tiền ngốc 2.000.000.000 đồng lãi phát sinh tính từ ngày
khởi kiện là ngày 20/6/2024 đến khi thanh toán xong các khoản tiền theo lãi suất
10%/năm. Chứng cứ do P cung cấp cho yêu cầu khởi kiện của mình là “Giấy
mượn tiền” không thể hiện ngày tháng năm, nội dung:“Tôi n Thạch Thị Na
R chồng Huỳnh Văn Q mượn của chị Phùng Thị Kim P s tiền
2.000.000.000 đồng(hai tỷ đồng) trong vòng 15 ngày sẽ hoàn trả stiền trên
cho chị Phùng Thị Kim P. Nếu chậm trả sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
pháp luật”.
Xét thấy, số tiền 2.000.000.000 đồng là số tiền giá trị lớn, hai bên thỏa
thuận thời hạn trả nợ 15 ngày kể từ ngày vay nhưng trong suốt thời gian từ
11/2021 đến tháng 6/2024 bà P không yêu cầu Na R thanh toán, P cũng
không nhớ chính xác ngày vay tiền, không mục đích Na R vay tiền làm
là chưa phù hợp.
[3.3] Mặt khác, tại đơn phản tố ngày 08/01/2024 trong vụ kiện Na N
nguyên đơn khởi kiện yêu cầu P hoàn trả số tiền gốc là 904.000.000 đồng, bà
P phản tố chỉ yêu cầu bà Na R hoàn trả tổng số tiền 173.266.667 đồng; (trong đó
100.000.000 đồng tiền mượn, 40.000.000 đồng nợ tiền hụi, 6.600.000 đồng
tiền chi phí định giá vụ kiện trước 26.666.667 đồng tiền thuê luật sư). Tuy
nhiên, P không đề cặp hay yêu cầu đến số tiền 2.000.000.000 đồng trong
vụ án này. Bà Na R xác định khi bà P giới thiệu bà nhận chuyển nhượng đất của
ông C, A, do vay tiền Ngân hàng không kịp để thanh toán cho ông C,
A, nên P tự xuất tiền thanh toán trước cho ông C, A, đồng thời để làm tin
với nhau tNa R viết biên nhận nhận của P 2.000.000.000 đồng, thực tế
6
P2 không đưa tiền cho Na R. Đến ngày 09/9/2019, khi Na R vay
được tiền tại ngân hàng Đ chi nhánh B, Na R đã đưa P 2.200.000.000
đồng là đã đối trừ số tiền 2.000.000.000 đồng mà bà Na R viết biên nhận cho bà
P.
[3.4] Xét thấy, tại Giấy nhận tiền P ghi ngày 09/9/2019 số tiền
2.200.000.000 đồng. Giấy nhận tiền phù hợp với thời gian 15 ngày mà bà R viết
giấy nhận tiền cho bà P mượn số tiền 2.000.000.000 đồng. Quá trình tham gia tố
tụng, bà Na R và bà P đều xác định bà Na R chỉ viết biên nhận mượn tiền của bà
P một lần. Mặt khác, tại phiên tòa trong vụ án tranh chấp đòi tài sản bà Na R
nguyên đơn, bà P bị đơn thì P người đại diện theo ủy quyền của P
thừa nhận nhận của Na R tổng số tiền 2.504.000.000 đồng, trong đó
biên nhận ngày 09/9/2019 với stiền 2.200.000.000 đồng phù hợp về mặt
thời gian mượn tiền và trả tiền của bà Na R.
[3.5] Đối với tài sản căn nhà tại Thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh
mà bà Na R, ông Q mua năm 2019, theo Hợp đồng mua bán căn hộ số:
S5.030316/VHGP/HĐMBCH ngày 25/9/2019. Do đó, lời trình bày của P xác
định tháng 11 năm 2021 Na R vay tiền của để mua nhà Thành phố T
không phù hợp về thời gian.
[4] P khởi kiện Na R, ông Q nhưng không xác định được thời gian
vay tiền, không chứng minh được việc giao tiền, trong khi Na R đưa ra được
các chứng cứ phản đối yêu cầu của nguyên đơn các chng cứ này phù hợp
với thời gian diễn ra giao dịch và nội dung giao dịch giữa các bên, nên bản án sơ
thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của P vviệc yêu cầu bà Na R
ông Q hoàn trả số tiền gốc 2.000.000.000 đồng và tiền lãi là phù hợp.
[5] Từ nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử căn cứ chấp nhận đề nghị
của người bảo vquyền lợi ích hợp pháp của Na R; không căn cứ chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của P; không căn cứ chấp nhận ý kiến phát biểu
của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu về việc đề nghị căn cứ khoản
2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa Bản án thẩm số: 88/2024/DS-ST ngày
27 tháng 8 năm 2024, của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
[6] Án phí dân sự phúc thẩm: Phùng Thị Kim P phải chịu theo quy
định của pháp luật.
[7] Các phần quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị đã hiệu lực pháp luật; nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét,
giải quyết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Đều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
7
Không chấp nhận kháng cáo của bà Phùng Thị Kim P; Giữ nguyên Bản án
dân sự sơ thẩm số: 88/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2024, của Tòa án nhân
dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39, Điều 228, điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2015; Điều 357, Điều 464, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật
Dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phùng
Thị Kim P đối với bị đơn bà Thạch Thị Na R, ông Huỳnh Văn Q về việc yêu cầu
Thạch Thị Na R ông Huỳnh Văn Q trả số tiền 2.000.000.000 đồng lãi
phát sinh 10%/năm từ ngày 20/6/2024 đến khi thanh toán xong.
2. Về án phí:
2.1. Án phí dân sthẩm: Buộc Phùng Thị Kim P phải nộp án phí
dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 72.416.438 đồng. P đã nộp tạm ứng án phí số
tiền 36.000.000 đồng theo biên lai thu số 0002850 ngày 26/6/2024 tại Chi cục
thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu, được đối trừ, P còn phải nộp tiếp số
tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 36.416.438 đồng. Bà Thạch Thị Na R,
ông Huỳnh Văn Q không phải nộp án phí.
2.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Phùng Thị Kim P phải chịu 300.000
đồng. P đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0003058
ngày 18/9/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu được chuyển
thu án phí.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Bạc Liêu;
- TAND Tp. Bạc Liêu;
- CCTHADS Tp. Bạc Liêu;
- Đương sự;
-Lưu,TổHCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trương Thanh Dũng
Tải về
Bản án số 160/2024/DS-PT Bản án số 160/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 160/2024/DS-PT Bản án số 160/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất