Bản án số 95/2024/DS-PT ngày 04/12/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 95/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 95/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 95/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 95/2024/DS-PT ngày 04/12/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hải Dương |
Số hiệu: | 95/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Văn S khởi kiện Đặng Xuân T về hợp đồng vay tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 95/2024/DS-PT
Ngày: 04 - 12 - 2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Đăng Huy
Các Thẩm phán: Ông Phạm Anh Tuyết
Bà Phạm Thúy Hằng
- Thư ký phiên tòa: Bà Vũ Thị Mai Trang – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương: Bà Phan Thị Thu
Huyền - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 04 tháng 12 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 103/2024/TLPT-DS ngày 01 tháng
11 năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Do bản án dân sự sơ thẩm
số 46/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố
Hải Dương, tỉnh Hải Dương bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
phúc thẩm số 108/2024/QĐ-PT ngày 13 tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1967; Có mặt
Địa chi: Thôn K, xã B, thị xã K, tỉnh Hải Dương.
2. Bị đơn: Ông Đặng Xuân T, sinh năm 1974; Có mặt
Nơi đăng ký thường trú: Thôn C, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình;
Chỗ ở và nơi làm việc: Trạm viễn thông T5 - Quảng Ninh thuộc Đài viễn
thông H – Trung tâm hạ tầng mạng miền B.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm
1970; địa chi: Thôn K, xã B, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Có mặt
Người đại diện theo ủy quyền của bà L: Ông Nguyễn Văn S – nguyên đơn.
Có mặt
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn - ông Nguyễn Văn S. Có mặt
Bản án không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Nguyên đơn – ông Nguyễn Văn S đồng thời là người đại diện theo ủy
quyền của bà Nguyễn Thị L trình bày:
2
Ông quen biết ông Đặng Xuân T thông qua người quen là ông Trần Văn
S1. Vào năm 2015, ông muốn xin việc cho hai con nên gặp ông T nhờ giúp đỡ.
Ông T nhận lời và hứa xin việc vào làm tại Trung tâm hạ tầng viễn thông miền B,
mỗi con là 230 triệu đồng, nhưng do có 1 con gái nên lấy tổng 450 triệu đồng và
hẹn đến cuối năm 2017 sẽ được đi làm. Sau khi giao được một vài lần tiền, do ông
T rủ nên ông đồng ý đầu tư mua máy thu sóng để bán lại cho Trung tâm hạ tầng
viễn thông miền B là cơ quan ông T đang làm để hưởng chênh lệch tiền lời. Ông
đã giao tiền mặt cho ông T nhiều lần. Mỗi lần nhận tiền, ông T tự viết và ký giấy
biên nhận bằng hình thức viết giấy vay tiền, cụ thể: Ngày 23/11/2016, nhận 180
triệu đồng; ngày 23/12/2016 nhận 150 triệu đồng; ngày 24/01/2017 nhận 30 triệu
đồng; ngày 17/3/2017 nhận 130 triệu đồng; ngày 27/3/2017 nhận 260 triệu đồng;
ngày 17/4/2017 nhận 70 triệu đồng; ngày 22/6/2017 nhận 30 triệu đồng. Tổng số
tiền ông T nhận của ông là 850 triệu đồng là tiền chung của vợ chồng ông. Từng
lần giao tiền và ký giấy vay đều thực hiện ở thành phố H và chỉ có hai người tham
gia. Trong giấy vay tiền ngày 23/11/2016, có thoả thuận 06 tháng sau sẽ trả ông
tiền, còn các giấy khác không ghi thời hạn trả. Để làm tin, ông T đã đưa lại cho
ông bản gốc Bằng tốt nghiệp cao đẳng của Trường cao đẳng K ngành cơ điện của
ông T. Việc thoả thuận xin việc và đầu tư mua máy thu sóng chỉ có ông và ông T
tham gia, không có ai làm chứng.
Đến cuối năm 2017, các con ông vẫn chưa được đi làm. Ông T khất đến
tháng 3/2018 nhưng rồi không thực hiện được. Khi ông đòi tiền, ông T hứa hẹn
nhiều lần nhưng không trả thể hiện qua tin nhắn zalo. Ông làm đơn tố cáo đến
Công an thành phố H nhưng không được giải quyết và được hướng dẫn đến Toà
án khởi kiện. Vì vậy, ông khởi kiện đề nghị Toà án buộc ông T có trách nhiệm trả
ông số tiền 850 triệu đồng tiền gốc và tiền lãi 531.630.000đ. Sau đó ông rút yêu
cầu khởi kiện đòi tiền lãi.
Quá trình giải quyết tại Toà án, ông mới biết có Giấy biên nhận trả tiền
ngày 03/01/2019 do ông Thủy cung C. Ông bác bỏ chứng cứ này vì ngày
03/01/2019 ông chưa nhận được số tiền 800 triệu đồng và không ký tên trong giấy.
Ông cho rằng quá trình giải quyết tại Công an thành phố H, thông qua người quen
ông Tiêu Xuân T1 giới thiệu nên ông gặp ông Nguyễn Huy T2 là cán bộ công an
thành phố H xem xét giải quyết đơn tố cáo của ông. Sau đó được ông T2 hướng
dẫn viết xác nhận và ký một số giấy tờ tài liệu với nội dung “Tên tôi là Nguyễn
Văn S; trú tại: B, K, Hải Dương xác nhận nội dung trên là đúng sự thật” rồi ký tên
Nguyễn Văn S. Tại giấy biên nhận trả tiền ngày 03/01/2019 cũng có ghi nội dung
xác nhận như trên nên ông đề nghị thu thập hồ sơ trình báo và làm việc tại Công
an thành phố H. Ông đề nghị giám định tài liệu Giấy bên nhận trả tiền ngày
03/01/2019 về chữ ký, chữ viết của ông, thời điểm ký, viết và nội dung nào có
trước nội dung nào có sau.
3
2. Bị đơn - ông Đặng Xuân T trình bày:
Năm 2016, ông có đặt vấn đề vay tiền của ông S để làm ăn, không phải để
nhận xin việc cho con ông S. Ông S nhất trí cho ông vay và tính lãi là
2.000đ/triệu/ngày và ông giao Bằng tốt ngiệp của trường cao đẳng K ngành cơ
điện cho ông Sáu G làm tin. Ông vay của ông S nhiều lần, tổng số tiền vay là 850
triệu đồng đã bao gồm cả gốc và lãi. Khi viết giấy vay tiền và giao nhận tiền, ông
S đã cắt tiền lãi vào tiền gốc, bản gốc giấy vay tiền từng lần do ông Sáu G. Ví dụ
viết giấy vay là 260 triệu đồng nhưng thực tế giao nhận là 200 triệu đồng. Do thời
gian đã lâu nên ông không nhớ thời gian, số tiền vay gốc thực tế, số tiền lãi trừ
vào tiền gốc của từng lần vay là bao nhiêu. Tài liệu chứng minh 850 triệu đồng
gồm cả gốc và lãi không có. Các giấy vay tiền mà ông S cung cấp đúng là chữ ký,
chữ viết của ông.
Quá trình vay, ông đã trả dần được 40 triệu đồng tiền mặt nhưng không viết
giấy. Đến ngày 03/01/2019, ông trả 800 triệu đồng, chỉ còn nợ 10 triệu đồng và
thoả thuận khi nào trả 10 triệu đồng thì ông S trả lại ông B cao đẳng cơ điện. Nội
dung này được thể hiện tại Giấy biên nhận trả tiền đề ngày 03/01/2019 giữa ông
và ông S. Ông đã soạn thảo nội dung đánh máy sẵn sau mang đến cho ông S viết
và ký khi nhận số tiền 800 triệu đồng vào ngày 03/01/2019. Các lần trả tiền đều
bằng tiền mặt, tại quán cà phê ở ngã 6 Tổng hợp gần đại lộ đường H, thành phố
H, chỉ có ông và ông S tham gia, không có người làm chứng.
Nguồn gốc số tiền 800 triệu đồng đã trả cho ông S ngày 03/01/2019 là do
ông vay của bà Nguyễn Thị Hồng S2 195 triệu đồng, vay của anh Đặng Hồng L1
là 110 triệu đồng và vay của ông Phạm Khắc T3 230 triệu đồng đều cuối năm
dương lịch năm 2018, tổng số tiền vay là 535.000đ, số tiền còn lại là từ tiền lương
tiết kiệm được. Ngoài ra, ông không vay mượn của ai khác.
Đến tháng 2/2020, ông S đòi ông trả 10 triệu đồng nhưng chưa có. Sau đó,
ông S làm đơn tố cáo ông đến Công an thành phố H. Khi làm việc với cán bộ công
an, ông đã xuất trình giấy biên nhận trả tiền đề ngày 03/01/2019 bản phô tô. Sau
ông S lại tiếp tục làm đơn đến Toà án khởi kiện mà không thông báo. Nay, ông S
khởi kiện đòi ông trả 850 triệu đồng, ông không đồng ý. Ông đồng ý trả 10 triệu
đồng và yêu cầu ông S trả lại Bằng cao đẳng bản gốc cho ông.
3. Những người làm chứng trình bày:
- Anh Đỗ Hồng L2 xác nhận tháng 12/2018, ngày cụ thể không nhớ, anh có
cho ông Đặng Xuân T vay số tiền 110 triệu đồng mục đích để ông T trả nợ, nay
ông T đã trả hết nợ. Chị Nguyễn Thị H xác nhận cuối năm 2018 có cho ông T vay
tổng số tiền 195 triệu đồng không lãi, ông T có nói mục đích sử dụng số tiền vay
nhưng do thời gian lâu nên chị không nhớ, nay ông T vẫn còn nợ 75.450.000đ.
Ông Phạm Khắc T3 xác nhận ngày 01/3/2013, ông cho vợ chồng ông T vay số
tiền 230 triệu đồng nhưng sau đó ông T nhờ ông ký Giấy xác nhận vay tiền đề
4
ngày 17/5/2024 là ông T vay vào cuối năm 2018.
- Ông Trần Văn S1 xác nhận: Năm 2013-2014 ông Sáu Q ông T do ông S
đi cùng với ông đến gặp ông T để nhờ xin việc cho cháu ông S1. Lúc này, ông S
cũng có nhu cầu xin việc cho con nên ông S xin số điện thoại ông T. Sau đó, ông
S liên lạc với ông T nói chuyện với nhau như thế nào ông không biết, không liên
quan. Năm 2016-2017, ông S giao tiền cho ông T không biết mục đích để làm gì.
- Ông Nguyễn Huy T2 xác nhận: Trước đây ông công tác tại Cơ quan Cảnh
sát điều tra Công an thành phố H nay chuyển công tác ở Văn phòng điều tra Công
an tỉnh H. Vào khoảng cuối năm 2019 đầu năm 2020, thông qua ông Tiêu Xuân
T1 (công an phường N, thành phố H) là người quen của ông Nguyễn Văn S, ông
có tiếp nhận đơn trình báo của ông S có nội dung ông Đặng Xuân T chiếm đoạt
tiền. Quá trình làm việc, ông T cho biết đã trả tiền và nộp tài liệu chứng minh trả
tiền. Nhưng do thời gian đã lâu nên giờ ông không nhớ số tiền trả là bao nhiêu.
Xác định nội dung đơn không có dấu hiệu tội phạm nên ông thông tin lại sự việc
cho ông T1 để báo cho ông S biết. Hồ sơ đơn tố cáo của ông S do thời gian đã lâu
và không thụ lý tin báo tội phạm nên bị thất lạc, không có để cung cấp cho Toà
án. Quá trình làm việc với ông S và ông T, ông không hướng dẫn mọi người viết
và ký khống vào giấy trắng.
- Ông Tiên Xuân T4 xác nhận: Do có quen biết ông Nguyễn Văn S, vào
khoảng năm 2018, được ông S nói chuyện về việc ông S đưa tiền cho ông Đặng
Xuân T nhờ xin việc cho con nhưng không xin được việc mà không trả lại tiền.
Sau đó, ông hướng dẫn ông S làm đơn tố cáo ông T và cùng đến Công an thành
phố H để gửi đơn. Quá trình làm việc, ông không tham gia trực tiếp nên không
biết ông S và cán bộ công an làm việc, trao đổi với nhau như thế nào. Đến khoảng
giữa năm 2020, ông gọi điện hỏi thì được ông Nguyễn Huy T2 thông tin là ông T
đã trả tiền và gửi hình ảnh giấy trả tiền qua zalo nội dung là ông T trả cho ông S
800 triệu đồng. Ông có thông báo lại cho ông S nhưng ông S phủ nhận việc đã
nhận tiền của ông T, sự việc tiếp theo ông không rõ.
* Tại Biên bản xác minh ngày 04/6/2024, Cơ quan cảnh sát điều tra Công
an thành phố H cung cấp không thụ lý và giải quyết đơn tố cáo của ông Nguyễn
Văn S về vụ việc ông Đặng Xuân T chiếm đoạt số tiền 850 triệu đồng nên không
có hồ sơ giải quyết đơn của ông S.
* Tại Kết luận giám định số 01/KL-HTHS ngày 19/3/2024 của Phòng K1
Công an tỉnh H kết luận: Chữ viết, chữ ký đứng tên Nguyễn Văn S dưới mục
“NGƯỜI NHẬN TIỀN XÁC NHẬN NỘI DUNG TRÊN” trên tài liệu cần giám
định với chữ ký, chữ viết của nguyễn Văn S trên các tài liệu so sánh là do cùng
một người viết, ký ra.
* Tại Kết luận giám định số 286/KL-KTHS ngày 15/8/2024 của V- Bộ C1
kết luận:
5
- Không đủ cơ sở kết luận chữ in, chữ ký và chữ viết dưới mục “NGƯỜI
NHẬN TIỀN XÁC NHẬN NỘI DUNG TRÊN” và dưới mục “NGƯỜI TRẢ
TIỀN” cái nào có trước, cái nào có sau trên mẫu cần giám định.
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 24 Luật giám định tư pháp năm 2012 được
sửa đổi, bổ sung năm 2020 và điểm d khoản 1 Điều 80 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, V từ chối thực hiện giám định đối với yêu cầu giám định thời điểm viết, ký,
in tài liệu. Do hiện nay, V chưa giải quyết được yêu cầu giám định thời điểm viết,
ký, in.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 46/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024
của Toà án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương đã quyết định: Chấp
nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông T phải trả cho ông S,
bà L3 số tiền 10.000.000 đồng và buộc ông S phải trả lại cho ông T Bằng tốt
nghiệp trường Cao đẳng kỹ thuật Mỏ ngành cơ điện, mang tên Đặng Xuân T;
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S đòi ông T trả số tiền vay
840.000.000 đồng. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
về đòi tiền lãi.
Ngoài ra bản án còn áp dụng điều luật, tuyên về án phí và chi phí giám định,
quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/9/2024, nguyên đơn ông Nguyễn Văn S
kháng cáo toàn bộ bản án.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.
- Bị đơn không đồng ý với kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
Hai bên đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Nguyên đơn kháng cáo không được
chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của đương sự trong thời hạn quy định tại Điều
273 Bộ luật tố tụng dân sự là kháng cáo hợp lệ được xem xét theo trình tự phúc
thẩm.
[2] Xem xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn S:
[2.1] Về quan hệ tranh chấp: Ông S cho rằng giao 850 triệu đồng cho ông
T là nhờ xin việc cho con và đầu tư làm ăn cùng. Ông S cung cấp các đoạn tin
6
nhắn vào các năm 2017, 2018, 2021 tuy nhiên ông T không thừa nhận và không
có ai làm chứng cho sự việc này. Trong khi đó, các lần giao tiền cho ông T đều
thể hiện là giấy vay tiền. Ông S khởi kiện theo các giấy vay tiền này và các đương
sự tranh chấp về số tiền nợ nên cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là tranh
chấp về hợp đồng cho vay tài sản là có căn cứ.
[2.2] Tại các Giấy vay tiền đề ngày 23/11/2016, ngày 23/12/2016, ngày
24/01/2017, ngày 17/3/2017, ngày 27/3/2017, ngày 17/4/2017, ngày 22/6/2017 do
ông S cung cấp đều là bản gốc với tổng số tiền ông S cho ông T vay là 850 triệu
đồng. Ông T thừa nhận các giấy vay tiền này do ông T viết và ký tuy nhiên theo
ông T số tiền này bao gồm cả gốc và lãi nhưng tại các giấy vay tiền không ghi
thỏa thuận về lãi, ông T cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Do đó
xác nhận ông S đã cho ông T vay tổng số tiền gốc là 850 triệu đồng, do ông S đã
rút yêu cầu về lãi nên cấp sơ thẩm đình chỉ nội dung này là có căn cứ.
Về việc trả nợ: Ông T khai đã trả trước 40.000.000 đồng tiền mặt nhưng
không viết giấy và không nhớ ngày trả nợ, đến ngày 03/01/2019 trả tiếp
800.000.000 đồng nhưng ông S không thừa nhận nội dung này. Tại Giấy biên
nhận trả tiền ngày 03/01/2019 thể hiện nội dung ghi nhận số tiền ông T còn nợ
ông S là 10.000.000 đồng và ông T để lại cho ông S 01 Bằng cao đẳng cơ điện để
làm tin. Căn cứ kết luận giám định tài liệu của Phòng K1 Công an tỉnh H, có căn
cứ xác định chữ viết và chữ ký ở dưới mục “NGƯỜI NHẬN TIỀN XÁC NHẬN
NỘI DUNG TRÊN” trong Giấy biên nhận trả tiền đề ngày 03/01/2019 đúng là
chữ ký, chữ viết của ông S.
Ông S cho rằng ông chưa nhận được số tiền ông T trả, ông bị lừa ký nhưng
ông không xuất trình được tài liệu chứng cứ chứng minh. Tại kết luận giám định
của V- Bộ C1 kết luận: Không đủ cơ sở kết luận chữ in, chữ ký và chữ viết dưới
mục “NGƯỜI NHẬN TIỀN XÁC NHẬN NỘI DUNG TRÊN” và dưới mục
“NGƯỜI TRẢ TIỀN” cái nào có trước, cái nào có sau trên mẫu cần giám định.
Lời khai của anh T2 (cán bộ công an) xác định không cho ông S ký lưu không vào
giấy trắng và xác minh tại Công an thành phố H không thụ lý, giải quyết đơn tố
cáo của ông S. Đối với các đoạn tin nhắn zalo ông S cung cấp có năm 2021 (sau
thời điểm ngày 03/01/2019) để chứng minh việc đòi nợ nhưng nội dung tin nhắn
không thể hiện số tiền cụ thể còn nợ. Giai đoạn phúc thẩm ông S không cung cấp
thêm được chứng cứ nào khác chứng minh cho việc hiện ông T còn nợ ông S
850.000.000 đồng. Từ những phân tích trên, xác định đến thời điểm khởi kiện ông
T chỉ còn nợ vợ chồng ông S 10.000.000 đồng và ông S hiện giữ bản gốc Bằng
cao đẳng điện của ông T. Theo hợp đồng, đến nay ông T đã vi phạm nghĩa vụ
thanh toán. Nên cần chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Sáu B1 ông
T trả cho ông S, bà L 10.000.000 đồng, đồng thời ông S có trách nhiệm trả Bằng
tốt nghiệp cao đẳng cho ông T. Do đó kháng cáo của ông S không có căn cứ chấp
7
nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí phúc thẩm: Ông S kháng cáo không được chấp nhận nên phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[4] Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, Hội
đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng và sử dụng án phí, lệ
phí Tòa án.
1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông Nguyễn Văn S. Giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 46/2024/DS-ST ngày 30/8/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn S phải chịu 300.000 đồng
án phí dân sự phúc thẩm, đối trừ với số tiền 300.000 đồng ông S đã nộp theo biên
lai thu số 0006145 ngày 18/9/2024 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hải
Dương, tỉnh Hải Dương, ông S đã thi hành xong.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án phúc thẩm
04/12/2024.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- TAND TP. Hải Dương;
- Chi cục THADS TP. Hải Dương;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(ĐÃ KÝ)
Bùi Đăng Huy
Tải về
Bản án số 95/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 95/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 590/2024/DS-PT ngày 26/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 565/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm