Bản án số 51/2025/HC-PT ngày 17/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 51/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 51/2025/HC-PT ngày 17/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 51/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/01/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 241, Điều 242 Luật Tố tụng hành chính; Bác kháng cáo của bà Nguyễn Thị X và giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 114/2024/HC-ST ngày 30 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Nguyễn Tấn Long
ông V Thanh Liêm
ông Trần Quốc Cường
- Thư phiên tòa: ông Nguyễn Thế Trường, Thư Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
toà: bà Bùi Ngô Ý Nhi - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ số 301/2024/TLPT-
HC ngày 01 tháng 10 năm 2024 vviệc: “Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính thẩm số 114/2024/HC-ST ngày 30 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử s133/2024/-PT ngày 30 tháng
12 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: bà Nguyễn Thị X sinh năm: 1969
Địa chỉ: 91 Y, buôn P, phường T, Tp. B (có mặt).
Đại diện theo ủy quyền của bà X: ông Nguyễn Quốc V Sinh năm: 1996;
địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho X: Luật Văn K -
Công ty Luật TNHH – MTV hãng luật L; địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ:
Tp. B, tỉnh Đắk Lắk.
Đại diện theo pháp luật: ông V Văn H - Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành
phố B.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 51/2025/HC-PT
Ngày: 17 - 01 - 2025
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành
chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Đại diện theo ủy quyền: ông Lê Đại T - Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố B (vắng mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Ủy ban nhân dân thành phố
B:
Ông Trương Văn C - Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất Tp. B (có
đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Ông Võ Quang H - Phó Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất Tp. B (có
đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Trung tâm phát triển quỹ đất Tp. B; đại diện theo pháp luật: ông Trương
Văn C, Giám đốc (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Ông Đặng Phương N Sinh năm: 1998; nơi thường trú: Tổ dân phố 2,
phường T, Tp. B; địa chỉ liên lạc: 91 Y, buôn P, phường T, Tp. B.
- Ông Đặng Văn H, địa chỉ: 91 Y, buôn P, phường T, Tp. B;
Người đại diện theo ủy quyền của ông N, ông H: bà Nguyễn Thị X sinh
năm: 1969; địa chỉ: 91 Y, buôn P, phường T, Tp. B (có mặt).
4. Người kháng cáo: bà Nguyễn Thị X.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
[1] Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án như sau:
- Người khởi kiện Nguyễn Thị X, đồng thời đại diện theo ủy quyền
của ông Đặng Phương N, ông Đặng Văn H; ông Nguyễn Quốc V đại diện
theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị X trình bày:
Gia đình X diện tích đất 55,1m
2
thuộc thửa đất số 60, tờ bản đồ số
16 tại số 91 Y, buôn P, phường T, thành phố B bị Nhà nước thu hồi để thực hiện
dự án: Xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư (tái định cư) thuộc quy hoạch chi tiết
khu dân P K, diện tích 6,55ha phường T, thành phố B (đợt 2). Vị trí, ranh
giới, diện tích đất thu hồi được xác định theo trích lục bản đồ địa chính số
7225/TL-VPĐKĐĐ KTĐC ngày 28/12/2018 của Văn phòng đăng đất đai
tỉnh Đắk Lắk.
Diện tích đất bị thu hồi nêu trên nguồn gốc chồng của X ông
Đặng Văn H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 60, tờ
bản đồ số 16, diện tích 500m
2
của ông Y H Niê KÐăm (bằng giấy viết tay) vào
ngày 18/3/1994. Ngày 25/11/2020, ông Đặng Văn H Nguyễn Thị X được
Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp các GCNQSDĐ số: CV 748820
đối với thửa đất số 613, tờ bản đồ số 16, diện tích 91,6m
2
đất tại đô thị; CV
748821 đối với thửa đất số 615, tờ bản đồ số 16, diện tích 43,5m
2
đất tại đô
thị; CV 748822 đối với thửa đất số 612, tờ bản đồ s16, diện tích 81,1m
2
đất
tại đô thị; CV 748823 đối với thửa đất số 614, tờ bản đồ số 16, diện tích 76,5m
2
đất ở tại đô thị. Bốn thửa đất này được tách ra từ thửa đất số 60, tờ bản đồ số 16,
diện tích 500m
2
(đã trừ đi diện tích đất quy hoạch đất giao thông). Theo đó,
3
phần diện tích 55,1m
2
đất bị Nhà nước thu hồi hiện nay được xác định nằm
trong quy hoạch đường giao thông (đường Y) không được nhà nước cấp giấy
CNQSD đất.
Hiện tại, phần diện tích đất này tiếp giáp mặt tiền của hai thửa đất 612
613 tờ bản đồ số 16. Trong đó, thửa 613 tờ bản đồ 16 vợ chồng X đã tặng cho
con trai là Đặng Phương N vào ngày 17/10/2021.
Theo Bảng tính chi tiết kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi
đất được ban hành kèm theo Quyết định số 7849/QĐ-UBND, ngày 31/12/2023
của UBND thành phố B thì gia đình X được bồi thường tổng số tiền
97.611.822 đồng, trong đó tiền bồi thường đối với diện tích 55,1m
2
đất 0
đồng, tiền bồi thường đối với nhà trên đất (gồm nhà số 1 nhà số 2)
94.611.822 đồng khoản hỗ trợ tiền chấp hành tốt việc bàn giao mặt bằng,
trước và đúng thời hạn (tháo dỡ một phần nhà) là 3.000.000 đồng.
Đối với việc Ủy ban nhân dân thành phố B phê duyệt chủ trương đầu
dự án: Xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư (tái định cư) thuộc quy hoạch chi tiết
khu dân P K, diện tích 6,55ha, phường T, thành phố B từ năm 2016, gia
đình bà X hoàn toàn nhất trí, ủng hộ chủ tơng của thành phố, đường lối, chính
sách phát triển kinh tế - hội của các cấp Đảng ủy, chính quyền địa phương
thành phố B tỉnh Đắk Lắk.
Tuy nhiên, X không đồng ý về việc không bồi thường khi Nhà nước
thu hồi diện tích 55,1m
2
đất của gia đình X không đồng ý với mức bồi
thường 94.611.822 đồng đối với nhà trên đất theo Quyết định số 7849/QĐ-
UBND, ngày 31/12/2023 của UBND thành phố B vì các lý do sau:
Theo khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai 2013 quy định: “Đối với đất nông
nghiệp đã sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ
gia đình, nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không Giấy chứng
nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này
thì được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện ch được
bồi thường không vượt quả hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129
của Luật này.”. Diệnch đất trên từ ngày 18/3/1994 đến trước ngày 25/11/2020
do gia đình bà X sử dụng với mục đích đất nông nghiệp, chưa được cấp
GCNQSD đất và không thuộc các trường hợp theo quy định tại Điều 82 Luật
Đất đai 2013. Như vậy, gia đình bà X phải được bồi thường về đất.
Theo khoản 1 Điều 89 Luật Đất đai 2013 vbồi thường thiệt hại về nhà,
công trình xây dựng trên đất khi Nhà nước thu hồi đất quy định: "Đối với nhà ở,
công trình phục vụ sinh hoạt gắn liền với đất của hộ gia đình, nhân, người
Việt N định nước ngoài khi Nhà nước thu hồi đất phải tháo dtoàn bộ
hoặc một phần phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy
định của pháp luật thì chủ sở hữu nhà ở, công trình đó được bồi thường bằng
giá trị xây dựng mới của nhà ở, công trình tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương.
Trường hợp phần còn lại của nhà ở, công trình vẫn bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật
theo quy định của pháp luật thì bồi thường theo thiệt hại thực tế.”
4
Căn nhà số 1 nêu trong Bảng tính Quyết định 7849 nhà cấp 4 hai mái,
gác lửng được xây dựng bởi sự tài trợ từ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Đắk Lắk
với Công ty AINOMOTO VN - Báo Thanh niên trong chương trình Mái ấm tỉnh
thương, căn nhà duy nhất của gia đình X. Diện tích căn nhà buộc phải
phá dỡ khi nhà nước thu hồi đất 12,54m
2
, gần hết diện tích phòng khách, phá
hủy gần hết kết cấu tường, mái trước thẩm mỹ của một căn nhà. Do đó, gia
đình X phải được bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều 89 Luật Đất đai
2013.
Hơn nữa, sau khi đọc, đối chiếu giữa các Bảng tính Quyết định 7849,
Bảng tính phương án 431 Thông báo 26 về việc chi trả tiền bồi thường sự
không chính xác vthông tin, sự khác nhau về số tiền bồi thường, hỗ trợ. Cụ
thể:
Đầu tiên, thông tin về thời gian xây dựng căn nhà trên thửa đất số 613, tờ
bản đồ số 16 hiện nay Bà X không yêu cầu xem xét lại.
Đối với khoản bồi thường về đất bị thu hồi (55,1m
2
) có sự khác nhau. Tại
Bảng tính phương án 431 có nêu số lượng, khối lượng bồi thường, hỗ trợ đối với
diện tích đất bị thu hồi 55,1m
2
, vị trí đất: Đất trồng cây hàng năm khác, Buôn
P, vị trí 2, phường T mặt tiền đường Y, giá 2.200.000 đồng/m
2
(Căn cứ
Quyết định số 4286/QĐ-UBND ngày 25/7/2023 của UBND thành phố B).
Trong đó, bồi thường đất trồng cây hàng năm khác với 45,5m
2
theo đơn giá
2.200.000 đồng/m, tỷ lệ hỗ trợ, bồi thường 100%, thành tiền 100.100.000
đồng. Đất không đủ điều kiện bồi thường 9,6m
2
. Trong khi đó, tại Bảng tính
Quyết định 7849 thì ghi rõ: Đất không đủ điều kiện bồi thường là 55,1m
2
(do đất
thuộc quy hoạch đường giao thông không được cấp giấy CNQSD đất), căn cứ
Điều 82 Luật Đất đai năm 2013.
Đối với khoản bồi thường về nhà sự khác nhau. Tại Bảng tính PA431
ghi rõ số tiền bồi thường, hỗ trợ đối với căn nhà số 01 thuộc thửa 613, tờ bản đồ
số 16 là 53.415.158 đồng (có bảng tính nộp kèm theo đơn). Trong khi đó, tại
Bảng tính Quyết định 7849 thì ghi số tiền bồi thường, hỗ trợ đối với 02 căn
nhà là 42.732.127 đồng.
Đối với khoản bồi thường về vật kiến trúc sự khác nhau giữa hai bảng
tính: Bảng tính phương án 431 và Bảng tính Quyết định 7849.
Từ các nội dung nêu trên, chúng tôi nhận thấy việc Ủy ban nhân dân
thành phố B ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Công trình: Xây dựng sở hạ tầng
khu dân (tái định cư) thuộc quy hoạch chi tiết khu dân P K, diện tích
6,55ha phường T, thành phố B (Đợt 2) chưa thỏa đáng không chính xác.
Yêu cầu Tòa án giải quyết hủy một phần Quyết định số 7849/QĐ- UBND ngày
31/12/2023 của UBND thành phố B về việc phê duyệt phương án bồi thường, h
trợ, tái định cư đối với phần bồi thường về đất và tài sản trên đất của gia đình bà
X. Buộc UBND thành phố B phải ban hành lại quyết định phê duyệt phương án
bồi thường trong đó bồi thường về đất và tài sản trên đất cho gia đình bà X theo
đúng quy định của pháp luật theo mức bồi thường đối với 55,1m
2
đất bị thu hồi
theo đơn giá 2.200.000 đồng/m
2
thành tiền là 121.220.000 đồng; mức bi
5
thường đối với căn nhà số 1 số tiền 500.000.000 đồng; mức bồi thường đối
với căn nhà số 2 là số tiền 68.352.133 đồng và vật kiến trúc với số tiền
36.043.254 đồng.
- Người đại diện theo ủy quyền của UBND thành phố B trình bày:
* Đối với yêu cầu bồi thường về đất:
Về nguồn gốc đất: Đất do Ban Định canh, Định cư Buôn P, phường T cấp
cho ông D Êban năm 1986 làm kinh tế vườn (không có giấy tờ). Sau đó ông Y D
Êban chết để lại cho con ông Y H Niê KĐăm (không giấy tờ). Ngày
18/3/1994 ông Y H Niê KĐăm chuyển nhượng 500m
2
đất cho ông Đặng Văn H
(bằng giấy viết tay). Đến ngày 25/11/2020 ông Đặng Văn H Nguyễn Thị
X được Sở tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp GCNQSD đất số CV
748822 ngày 25/11/2020 tại thửa đất số 612, tờ bản đồ số 16 với diện tích
81,1m
2
đất tại đô thị, GCNQSD đất số CV 748820 ngày 25/11/2020 tại thửa
đất số 613, tờ bản đồ số 16 với diện tích là 91,6m
2
đất ở tại đô thị, GCNQSD đất
số CV 748823 ngày 25/11/2020 tại thửa đất số 614, tờ bản đồ số 16 với diện tích
76,5m
2
đất tại đô thị GCNQSD đất số CV 748821 ngày 25/11/2020 tại
thửa đất số 615, tờ bản đồ số 16 với diện tích là 43,5m
2
đất ở tại đô thị.
Ông Đặng Văn H và Nguyễn Thị X sử dụng ổn định tđó đến nay
không tranh chấp. Tổng diện tích được cấp của 04 thửa đất 292,7m
2
. Tổng
diện tích thửa đất đo đạc thực tế là 500,3m
2
lớn hơn diện tích trong giấy
CNQSD đất tại thửa đất số 612; 613; 614; 615 tờ bản đồ số 16 là 207,6m
2
đất
thuộc quy hoạch đường giao thông không được cấp giấy CNQSD đất.
- Diện tích thu hồi: 55,1m
2
đất thuộc quy hoạch đường giao thông không
được công nhận quyền sdụng đất. (Căn cứ Khoản 4, Điều 82 Luật Đất đai số
45/2013/QH13 ngày 29/11/2013 của Quốc Hội). “Trường hợp không đủ điều
kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này
* Đối với phần tài sản trên đất đủ điều kiện bồi thường về đất phần tài
sản là nhà trên đất thuộc lộ giới giao thông:
Căn cứ Khoản 1, Điều 14 & Khoản 4, Điều 20 Quyết định 14/2022/QĐ-
UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đắk Lắk quy định:
+ Xây dựng gắn liền với đất đủ điều kiện bồi thường về đất hỗ trợ bằng
100% đối với trường hợp xây dựng trước ngày 01/7/2004; 60% đối với trường
hợp xây dựng từ ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/7/2014; 30% đối với trường
hợp xây dụng từ ngày 01/7/2014 đến trước ngày thông báo thu hồi đất theo
giá xây dựng mới”.
+ Xây dựng gắn liền với đất không đủ điều kiện bồi thường về đất hỗ trợ
bằng 80% đối với trường hợp xây dựng trước ngày 01/7/2004; 60% đối với
trường hợp xây dựng từ ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/7/2014; 30% đối với
trường hợp xây dụng từ ngày 01/7/2014 đến trước ngày có thông báo thu hồi đất
theo giả xây dựng mới.
+ Đối với công trình xây dựng trên đất lấn, chiếm trên đất hành lang an
toàn giao thông không phải nhà từ sau ngày 15/10/1993 không được xem xét
6
hỗ trợ Căn cứ Điểm c, Khoản 4 Điều 20 của Quyết định 14/2022/QĐ-UBND
ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đắk Lắk).
Ngày 31/12/2023, UBND thành phố B ban hành Quyết định s7849/QĐ-
UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
để thực hiện dự án: XDCSHT Khu dân (tái định cư) thuộc quy hoạch chi tiết
khu dân P - K, diện tích 6,55 ha, phường Tấn Lập, thành phố B (Đợt 2),
(trong đó có hộ ông Đặng Văn H - Nguyễn Thị X); Quyết định số 7862/QĐ-
UBND, ngày 31/12/2023 của UBND thành phố B về việc thu hồi đất của ông
Đặng Văn H - Nguyễn Thị X để thực hiện dự án: XDCSHT Khu dân (tái
định cư) thuộc quy hoạch chi tiết khu dân P K, diện tích 6,55 ha, phường T,
thành phố B (Đợt 2).
Như vậy, Ủy ban nhân dân thành phố B đã thực hiện đúng quy trình,
đúng Luật đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013 khi Nhà nước thu hồi đất
để xây dựng công trình: XDCSHT Khu dân cư (tái định cư) thuộc quy hoạch chi
tiết khu dân cư P - K, diện tích 6,55 ha, phường T, thành phố B (Đợt 2).
Từ những căn cứ trên, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xem xét
không chấp nhận đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị X.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Trương Văn Chính đại
diện theo pháp luật của Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố B, đồng thời ông
Trương Văn Chính ông Quang Hân là người bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp cho UBND thành phố B cùng quan điểm với ông Lê Đại Thắng.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà X Luật sư Lê Văn Khanh
trình bày: Ngày 18/3/1994 ông Đặng Văn H (chồng bà X) nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đối với thửa đất 60, tờ bản đồ 16, diện tích 500m
2
của ông Y
H Niê bằng giấy viết tay. Đến năm 2010, Hội liên hiệp phụ ntỉnh Đăk Lắk
đồng tài trợ là Công ty AJNOMOTO VN- Báo thanh niên tặng cho vchồng
X căn nhà mái ấm tình thương, xây dựng trên một phần thửa đất này, năm 2015,
gia đình X xây dựng căn nhà thứ hai làm nơi kinh doanh dịch vụ bi da nằm
kế bên căn nhà mái ấm tình thương. Ngày 25/11/2020 vợ chồng X được Sở
Tài nguyên môi trường cấp các GCNQSDĐ số: CV 748820 đối với thửa đất số
613, tờ bản đồ s16, diện tích 91,6m
2
đất tại đô thị; CV 748821 đối với thửa
đất số 615, tờ bản đồ số 16, diện tích 43,5m
2
đất ở tại đô thị; CV 748822 đối với
thửa đất số 612, tờ bản đsố 16, diện tích 81,1m
2
đất tại đô thị; CV 748823
đối với thửa đất số 614, tbản đồ số 16, diện tích 76,5m
2
đất tại đô thị. Bốn
thửa đất này được tách ra từ thửa đất số 60, tờ bản đồ số 16, diện tích 500m
2
(đã
trừ đi diện tích đất quy hoạch đất giao thông). Qúa trình sử dụng đất ổn định
không tranh chấp, không bị xử phạt vi phạm hành chính. Ngày 31/12/2023,
UBND TP.B ban hành Quyết định 7862/QĐ-UBND về việc thu hồi 55,1m
2
đất
của ông Đặng Văn H - Bà Nguyễn Thị X để thực hiện dự án: XDCSHT Khu dân
(tái định cư) thuộc quy hoạch chi tiết khu dân P K, diện tích 6,55 ha,
phường T, thành phố B (Đợt 2).Cùng ngày UBND thành phố B ban hành Quyết
định số 7849/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, X
không đồng ý vviệc không bồi thường khi Nhà nước thu hồi diện tích 55,1m
2
7
đất của gia đình X không đồng ý với mức bồi thường 94.611.822 đồng đối
với nhà trên đất theo Quyết định số 7849/QĐ-UBND, ngày 31/12/2023 của
UBND thành phố B vì các lý do sau:
Theo khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai 2013 quy định: “Đối với đất nông
nghiệp đã sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ
gia đình, nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không Giấy chứng
nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này
thì được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện ch được
bồi thường không vượt quả hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129
của Luật này.”. Diệnch đất trên từ ngày 18/3/1994 đến trước ngày 25/11/2020
do gia đình bà X sử dụng với mục đích đất nông nghiệp, chưa được cấp
GCNQSD đất và không thuộc các trường hợp theo quy định tại Điều 82 Luật
Đất đai 2013. Như vậy, gia đình bà X phải được bồi thường về đất.
Về nhà: Căn nhà số 1 nhà cấp 4, gác lửng, nhà hai mái. Diện tích
căn nhà buộc phải tháo dỡ khi nhà nước thu hồi đất là 12,54m
2
, gần hết diện tích
phòng khách, phá hủy gần hết kết cấu tường, mái trước và thẩm mỹ của một căn
nhà, làm giảm giá trị không đảm bảo độ an toàn về kết cấu thẩm mỹ của
một căn nhà. Theo Bảng 3, Tiểu mục 5.9 Mục 5 TCVN *****: 2023 Nhà
riêng lẻ, yêu cầu chung để thiết kế quy định diện tích tổi thiểu của phòng tiếp
khách trong nhà ở độc lập là 13m
2
. Thực tế, diện tích phòng tiếp khách nhà số
1 của gia đình X khoảng 20m
2
, bị thu hồi 12,54m
2
, còn lại 7,46m
2
không đủ
diện tích tối thiểu. Như vậy mất một phần chức năng sử dụng của căn nhà,
phá hủy kết cấu liên kết dằm, mái nhà, không đảm bảo yêu cầu về kiến trúc.
Căn cứ khoản 1 Điều 89 Luật Đất đai 2013 về bồi thường thiệt hại về nhà,
công trình xây dựng trên đất khi Nhà nước thu hồi đất quy định: "Đối với nhà ở,
công trình phục vụ sinh hoạt gắn liền với đất của hộ gia đình, nhân, người
Việt N định nước ngoài khi Nhà nước thu hồi đất phải tháo dtoàn bộ
hoặc một phần phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy
định của pháp luật thì chủ sở hữu nhà ở, công trình đó được bồi thường bằng
giá trị xây dựng mới của nhà ở, công trình tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương.
Trường hợp phần còn lại của nhà ở, công trình vẫn bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật
theo quy định của pháp luật thì bồi thường theo thiệt hại thực tế.”
Từ quy định trên, có cơ sở buộc Uỷ ban nhân dân thành phố B bồi thường
bằng giá trị xây dựng mới 01 căn nhà.
Đối với căn nhà số 2 yêu cầu bồi thường theo Bảng tính phương án 431
với số tiền 68.352.133 đồng.
[2] Tại Bản án hành chính thẩm số 114/2024/HC-ST ngày 30 tháng 7
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 116;
điểm b khoản 1 Điều 143; Điều 144; điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194; Điều
206 Luật tố tụng hành chính;
Căn cứ Luật tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;
8
Căn cứ Điu 75, 82 Luật Đất đai 2013; Căn cứ Nghị định 43/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị
định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất.
Căn cứ khoản 1 Điều 32 Ngh quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Đình chỉ yêu cu khi kin của ông Đặng Phương N.
2. Bác toàn b yêu cu khi kin ca Nguyn Th X v việc đề ngh
Tòa án hy mt phn Quyết định s 7849/QĐ- UBND ngày 31/12/2023 ca
UBND thành ph B v vic phê duyệt phương án bồi thường, h trợ, tái định
đối vi phn bồi thường v đất và tài sản trên đt ca X, buc UBND thành
ph B phi ban hành li quyết đnh phê duyệt phương án bồi thường trong đó
bồi thường v đất tài sản trên đất cho gia đình X theo mc bồi thường đối
vi 55,1m
2
đất b thu hồi theo đơn giá 2.200.000 đồng/m
2
thành tin
121.220.000 đng; mc bồi thường đối với căn nhà s 1 s tin 500.000.000
đồng; mc bồi thường đối với căn nhà số 2 s tiền 68.352.133 đng vt
kiến trúc vi s tiền 36.043.254 đồng.
Ngoài ra Bản án thẩm còn tuyên về án phí, chi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ, định giá tài sản quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[3] Kháng cáo:
Ngày 12-8-2024 Nguyễn Thị X kháng cáo bản án sơ thẩm; nêu do
kháng cáo Toà án sơ thẩm không ghi nhận thời điểm sử dụng đất của người khởi
kiện không áp dụng khoản 2 Điều 77 Luật đất đai. Yêu cầu Tán cấp phúc
thẩm huỷ phần nhận định và quyết định của bản án thẩm, huỷ một phần
Quyết định 7849/QĐ-UBND ngày 31-12-2023 của UBND TP B.
[4] Tại phiên toà phúc thẩm:
Người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo, trình bày ý kiến là Quyết định
7849/QĐ-UBND không phê duyệt bồi thường về đất và tài sản trên đất diện tích
55,1m
2
đã thu hồi của X gây thiệt hại cho X; do diện tích đất này X
sử dụng từ 18-3-1994 đến nay với mục đích đất nông nghiệp, chưa được cấp
Giấy chứng nhận QSD nhưng không thuộc trường hợp theo quy định Điều 82
Luật đất đai, nên phải được bồi thường. Đề nghị xem xét bổ sung phê duyệt bồi
thường về đất theo đơn giá 2.200.000 đồng/1m2; bồi thường giá trị căn nhà số 1
500.000.000 đồng, bồi thường căn nhà số 2 số tiền hơn 68 triệu đồng vật
kiến trúc trên đất là 36 triệu đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến: đây
phiên a phúc thẩm được mlần thhai, Thẩm phán, Tký a án
những người tham gia ttụng đã thực hiện đúng quy định của Luật Tố tụng
9
hành chính. Về nội dung đnghị Hội đồng t xử phúc thẩm Bác đơn kháng
cáo, giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ vụ án kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về yêu cầu khởi kiện:
Nguyễn Thị X khởi kiện ngày 05/02/2024, đề nghị Tòa án tuyên hủy
một phần Quyết định số 7849/QĐ-UBND ngày 31/12/2023 của UBND thành
phố B về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định khi nhà nước
thu hồi đất để thực hiện dự án: Xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư (tái định cư)
thuộc quy hoạch chi tiết khu dân P K, tại phường T, thành phố B (Đợt 2)
đối với trường hợp Nguyễn Thị X. Buộc UBND thành phố B phải ban hành
lại quyết định phê duyệt phương án bồi thường trong đó bồi thường về đất và tài
sản trên đất cho gia đình bà X theo mức bồi thường đối với 55,1m
2
đất bị thu hồi
theo đơn giá 2.200.000 đồng/m
2
thành tiền là 121.220.000 đồng; mức bi
thường đối với căn nhà số 1 số tiền 500.000.000 đồng; mức bồi thường đối
với căn nhà số 2 là số tiền 68.352.133 đồng và vật kiến trúc với số tiền
36.043.254 đồng.
[2] Xem xét về nguồn gốc diện tích đất thu hồi 55,1m
2
:
Tại Biên bản xác minh ngày 28/12/2023 tại UBND phường T thể hiện
trong tổng số 500,3 m
2
đất do gia đình X quản lý, sử dụng thì đã được cấp
GCNQSDĐ đối với 4 thửa 612, 613, 614, 615 với tổng diện tích 292,7m
2
đất
tại đô thị. Phần diện tích còn lại 207,6m
2
đất thuộc quy hoạch đường giao
thông, không được cấp giấy CNQSDĐ.
Nguồn gốc đất của gia đình X do Ban định canh, định Buôn P
phường T cấp cho ông Y D Êban làm kinh tế vườn (không giấy tờ). Sau đó
ông Y D Êban chết đlại cho con ông Y H Niê KĐăm (không giấy tờ).
Ngày 18/3/1994 ông Y H Niê KĐăm chuyển nhượng 500m
2
đất cho ông Đặng
Văn H (bằng giấy viết tay). Đến ngày 25/11/2020 ông Đặng Văn H bà
Nguyễn Thị X được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp GCNQSD
đất số CV 748822 ngày 25/11/2020 tại thửa đất số 612, tờ bản đồ số 16 với diện
tích là 81,1m
2
đất ở tại đô thị; GCNQSD đất số CV 748820 ngày 25/11/2020 tại
thửa đất số 613, tờ bản đồ số 16 với diện tích là 91,6m
2
đất tại đô thị,
GCNQSD đất số CV 748823 ngày 25/11/2020 tại thửa đất số 614, tờ bản đồ số
16 với diện tích 76,5m
2
đất tại đô thị và GCNQSD đất sCV 748821 ngày
25/11/2020 tại thửa đất số 615, tờ bản đồ số 16 với diện tích là 43,5m
2
đất tại
đô thị. Tổng diện tích được cấp của 04 thửa đất 292,7m
2
. Phần diện tích còn
lại 207,6m
2
đất thuộc quy hoạch đường giao thông không được cấp giấy
CNQSD đất; diện tích 55,1m
2
thu hồi nằm trong diện tích 207,6m
2
đất thuộc quy
hoạch đường giao thông này. Như vậy, diện tích 55,1m
2
đất thu hồi không phải
đất nông nghiệp.
10
Người kháng cáo cho rằng phần diện tích đất bị thu hồi của X 55,1m
2
không Giấy chứng nhận, không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhưng là
đất nông nghiệp do gia đình X trực tiếp sản xuất nông nghiệp trước ngày 01
tháng 7 năm 2004 thì phải được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử
dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai năm 2013.
Tại biên bản kiểm đất đai tài sản bị thiệt hại ngày 01/10/2020 thể
hiện các tài sản trên toàn bộ diện tích đất bị thu hồi của bà X bao gồm hai nhà ở,
tường rào, trụ cổng, hàng rào, mái che, sân si măng… ngoài ra không tài sản
nào khác thể hiện gia đình X đang sử dụng, sản xuất đất nông nghiệp trên
diện tích bthu hồi nên không đủ điều kiện đđược bồi thường, htrợ theo quy
định tại khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai năm 2013 khoản 2 Điều 20 của Quyết
định 14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đắk Lắk . Do đó,
UBND thành phố căn cứ quy định tại khoản 4, Điều 82 Luật Đất đai năm 2013
không bồi thường, hỗ trợ về đất cho gia đình X là căn cứ, đúng quy định.
Yêu cầu khởi kiện của bà X là không cơ sở.
[3] Xem xét về nhà và vật kiến trúc trên đất bị thu hồi:
Tại Quyết định số 7849/QĐ- UBND ngày 31/12/2023 của UBND thành
phố B vviệc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định thể hiện 02
nhà vật kiến trúc trên đất của bà X được xây dng năm 1998, phục vụ sinh
hoạt, không bị xử lý ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật của quan thẩm
quyền, không bị xử phạt vi phạm hành chính.
Người kháng cáo cho rằng do diện tích căn nhà số 1 của X buộc phải
phá dỡ khi nhà nước thu hồi đất 12,54m
2
, gần hết diện tích phòng khách, phá
hủy gần hết kết cấu tường, mái trước và thẩm mỹ của một căn nhà nên bà X phải
được bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều 89 Luật Đất đai 2013 và không
đồng ý với mức bồi thường đối với căn nhà số 2. Tuy nhiên, hai căn nX
xây dựng trên đất hành lang an toàn giao thông nên khi thu hồi đất chỉ được hỗ
trợ, không đủ điều kiện để bồi thường theo quy định. X xây dựng nhà trước
ngày 01/7/2004 nên được hỗ trợ bằng 80% theo quy định tại khoản 4, Điều 20
Quyết định 14/2022/QĐ- UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đắk Lắk. Do
đó, UBND thành phố B xem xét hỗ trợ hai căn nxây trên đất cho X với
mức 80 % là cơ sở.
[4] Đối với vật kiến trúc trên đất bị thu hồi của X được xây dựng trên
đất hành lang an toàn giao thông không phải nhà từ sau ngày 15/10/1993 nên
UBND thành phố B không xem xét hỗ trợ theo điểm c, Khoản 4 Điều 20 của
Quyết định 14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đắk Lắk
căn cứ.
[5] Từ các nhận định trên, Bản án thẩm bác yêu cầu khởi kiện của
Nguyễn Thị X căn cứ, đúng pháp luật. Người kháng cáo không cung cấp
được các chứng cứ, tài liệu mới làm thay đổi nội dung vụ án, nên không
11
sở chấp nhận kháng cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên quyết định của
bản án sơ thẩm.
[6] Các nội dung khác còn lại của Bản án hành chính sơ thẩm không
kháng cáo, kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo thì Hội đồng xét xử phúc
thẩm không xem xét.
Bà Nguyễn ThX phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 241, Điều 242 Luật Tố tụng hành chính; Bác
kháng cáo của bà Nguyễn Thị X giữ nguyên quyết định của Bn án nh
cnh thẩm số 114/2024/HC-ST ngày 30 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân
dân tỉnh Đăk Lăk .
2. Nguyn Th X phi chu 300.000 đồng án phí hành chính phúc
thm, được khu tr s tin 300.000đồng tm ứng án phí đã nộp theo biên lai
thu s AA/2023/0014029, ngày 20/8/2024 ti Cc Thi hành án dân s tỉnh Đắk
Lk.
Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut t ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao- Vụ III;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- Cục THADS tỉnh Đắk Lắk;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, P.HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Nguyễn Tấn Long
Tải về
Bản án số 51/2025/HC-PT Bản án số 51/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 51/2025/HC-PT Bản án số 51/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất