Bản án số 08/2025/DS-ST ngày 14/01/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 08/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 08/2025/DS-ST ngày 14/01/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Số hiệu: 08/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Lê Minh L kiện ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị C đòi lại tiền cọc và tiền thanh toán toán trước.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Bản án số: 08/2025/DS-PT
Ngày 14-01-2025
V/v Tranh chấp hợp đồng đặt cọc và
đòi lại tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Minh Vỹ
Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Thương
Ông Trịnh Hoàng Anh
- Thư phiên tòa:Nguyễn Thị - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Rịa - Vũng Tàu.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa - Vũng Tàu tham gia
phiên tòa: Ông Vũ Duyên Trường - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 07 14 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Rịa - Vũng Tàu, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 192/2024/TLPT-
DS ngày 03 tháng 10 năm 2024 về Tranh chấp hợp đồng đặt cọc và đòi lại tài
sản”.
Do Bản án dân thẩm số 79/2024/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 332/2024/QĐ-PT ngày 18 tháng 11
năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 317/2024/QĐ-PT ngày 13 tháng 12 năm
2024, Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng số 06/2025/QĐ-TA ngày 07
tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Minh L, sinh năm 1975.
Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Đồng Nai (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn L1, sinh năm1952.
Nguyễn Thị C, sinh năm 1960.
Địa chỉ: Ấp B T, xã B, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:
Ông Nguyễn Sơn T và bà Đoàn Thị Huỳnh N.
Cùng địa chỉ: Phòng 1901, tầng A, tòa nS, C T, phường B, Quận A, Thành
phố Hồ Chí Minh, theo Giấy ủy quyền ngày 12-12-2024 (có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa v liên quan:
Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1992.
Địa chỉ: Ấp B T, xã B, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Ngọc D:
2
Công ty L2 & Các cộng sự.
Địa chỉ: P 1901, tầng A, tòa nhà S, C T, phường B, Quận A, Thành phố Hồ
Chí Minh, theo Giấy ủy quyền ngày 12-12-2024, theo Giấy ủy quyền ngày 17-7-
2024.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Sơn T (có mặt).
Công ty L2 & Các cộng sự ủy quyền lại cho:
1. Vương Thị T1.
2. Lê Thị Cẩm V.
3. Nguyễn Ngọc Thanh N1.
4. Nguyễn Thị Mỹ D1.
5. Đoàn Thị Huỳnh N.
Cùng địa chỉ: P, tầng A Tòa nhà S, C T, phường B, Quận A, thành phố Hồ
Chí Minh, theo Giấy ủy quyền ngày 18-11-2024 (Ông T, bà N1, bà N có mặt; bà
V, bà D1, bà T1 vắng mặt).
- Người kháng cáo:
Ông Nguyễn Văn L1 và bà Nguyễn Thị C - Bị đơn.
Nguyễn Thị Ngọc D - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Lê Minh L, trình bày:
Vào ngày 18-8-2023, ông L và vợ chồng ông L1, bà C lập hợp đồng đặt cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 305,5m
2
thuộc thửa 356, tờ bản đồ
115, B, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, với giá chuyển nhượng là
1.500.000.000 đồng, các bên thỏa thuận đặt cọc trước 100.000.000 đồng, chậm
nhất đến ngày 03-9-2023, các bên sẽ ra công chứng hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Sau đó, bên mua sthanh toán số tiền 1.400.000.000 đồng còn
lại cho ông L1, bà C.
Thực hiện hợp đồng trên, ông L đã thanh toán tiền cọc 100.000.000 đồng
cho ông L1, bà C.
Do ngày 03-9-2023 là ngày nghỉ lễ nên hai bên thống nhất dời lại ngày công
chứng đến 13-9-2023. Đến ngày này, ông L đi quá tốc độ nên bị Công an huyện
C, tỉnh Đồng Nai giữ xe. Ông L xin ông L1, bà C không đến phòng công chứng
vào ngày 13-9-2023, hai n không hẹn tiếp ngày nào. Sau đó, ông L1 gọi cho
ông L nói tranh thủ xuống công chứng, nhưng do ông L bận lịch đi Đà Nẵng nên
ông L không xuống được. Vào ngày 14-9-2023, ông L1 gọi điện thoại cho ông L
nói rằng ông L1 cần mấy trăm triệu để về Bến Tre lo công việc, sau đó ông L liên
lạc với D là con của ông L1, bà C báo ông L không đi công chứng được, nếu
nhà D cần tiền thì ông L xin chuyển tiền trước rồi đi công chứng sau. D
soạn tin tin nhắn gửi cho ông L trước với nội dung: D đại diện cho ông L1,
C có bán cho ông L diện tích đất số thửa, có nhận 400.000.000 đồng của ông
Minh L”. Sau khi ông L nhận tin nhắn này từ bà D, ông L mới chuyển khoản
400.000.000 đồng cho bà D. Việc ông L chuyển cho bà D 400.000.000 đồng này
ông L không hỏi ý kiến của ông L1, C, qua điện thoại ông L biết D con
của ông L1, bà C. Ông L xác nhận số tiền 400.000.000 đồng này là bà D tạm ứng
3
tiền cọc đất thửa 356, tờ bản đồ 115. Như vậy, tổng số tiền ông L đã đưa cho ông
L1, bà C là 500.000.000 đồng.
Cũng trong ngày ngày 14-9-2023, bà D đã hẹn lại ngày công chứng là ngày
29-9-2023, nhưng ông L không trả lời cho D là đồng ý ngày này.
Đến ngày 28-9-2023, ông L từ Thành phố Hồ Chí Minh đi đến H với mục
đích là để đi công chứng chuyển nhượng đất với ông L1, bà C. Nhưng khi đến địa
phận xã H thì ông L nhận được điện thoại báo ba ông L bị tai biến nên ông L đã
thông báo cho ông L1, C biết, ông L1 và bà C bảo ông L lo cho cụ trước, khi
nào cụ khỏe thì liên hệ ông, để công chứng. Việc này hai bên chỉ nói bằng
miệng qua điện thoại chứ không tài liệu chứng cứ gì chứng minh. Ngày 02-10-
2023 và ngày 03-10-2023, ông L liên hệ ông L1, bà C liên tục không được. Ông
L liên hệ qua bà D thì bà D bảo ông L đến trực tiếp nhà ông L1, bà C.
Ngày 04-10-2023, ông L đến nhà ông L1, bà C, nhưng chỉ gặp C. C
yêu cầu ông L mất cọc 100.000.000 đồng lý do trễ do công chứng và cộng thêm
20.000.000 đổng tiền lương trả cho con bà C nghỉ việc về trông nhà để C, ông
L1 đi công chứng. Việc đòi hỏi này của bà C không hợp nên ông L không đồng
ý.
Những ngày sau đó, ông L liên tục gọi điện cho ông L1, bà C để yêu cầu hủy
hợp đồng và yêu cầu trả lại số tiền 500.000.000 đồng nhưng ông, bà không nghe
máy. Ông L liên hệ bà D để nhờ bà D chuyển lời nhưng bà D cho rằng bà không
liên quan. Đến nay, vợ chồng ông L1, bà C vẫn không cùng ông L ra công chứng
và cũng không trả lại 500.000.000 đồng cho ông L.
vậy, ông L khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 356, tờ bản đồ số 115, xã B, huyện X, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu ngày 18-8-2023, giữa ông L và vợ chồng ông L1, bà C.
do ông L giao dịch với D ông L1, bà C không biết nhắn tin qua zalo
và ông L1, C yêu cầu ông L chuyển tiền qua tài khoản của D. Bà D chưa được
ông L1, bà C ủy quyền.
Ông L yêu cầu D phải trả cho ông L số tiền 400.000.000 đồng ông L
chuyển tiền cho D còn bà D chuyển cho ông L1, bà C là chuyện của D. Ông
L chỉ giao dịch với D nên ông L chỉ yêu cầu D trả cho ông L số tiền
400.000.000 đồng. Ông L không biết chồng bà D là ai, địa chỉ ở đâu, cũng không
yêu cầu chồng D phải trả số tiền bà D đã nhận.
Việc ông L trình bày ông L bị Cảnh sát giao thông xphạt, cũng nviệc ba
của ông L bị bệnh phải nhập viện nhưng ông L không có biên lai nộp phạt cũng
như hồ bệnh án để nộp cho Tòa án. Vi bằng D nộp cho Tòa án ông L xác
nhận chính là cuộc trò chuyện qua tin nhắn giữa ông L và bà D.
Nay ông L yêu cầu Tòa án:
- Tuyên Hủy hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 356, tờ bản đồ số 115, diện tích 305,5m², tọa lạc tại B, huyện X,
tỉnh Rịa - Vũng Tàu ngày 18-8-2023 giữa nguyên đơn và vợ chồng ông L1, bà
C.
4
- Buộc vợ chồng ông L1, C và D trả cho ông L số tiền 500.000.000
đồng, cụ thể yêu cầu ông L1, bà C trả số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng, bà D trả
số tiền 400.000.000 đồng tiền tạm ứng lần 2 ngày 14-9-2023.
Bị đơn ông Nguyễn Văn L1 và bà Nguyễn Thị C trình bày:
Vào ngày 18-8-2023, ông bà lập hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất diện tích 305,5m
2
thuộc thửa 356, tờ bản đồ 115, xã B, huyện X, tỉnh
Rịa - Vũng Tàu với ông Minh L. Giá chuyển nhượng 1.500.000.000 đồng,
đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông bà. Các
bên thỏa thuận đặt cọc trước 100.000.000 đồng, chậm nhất đến ngày 03-9-2023,
các bên sẽ ra công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, sau đó bên
mua sẽ thanh toán số tiền 1.400.000.000 đồng còn lại cho ông L1, bà C.
Ông đã nhận tiền cọc 100.000.000 đồng trực tiếp từ ông L vào ngày 18-
8-2023. Đến ngày 03-9-2023 vào ngày lễ nên hai bên thống nhất dời lại vào
ngày 28-8-2023. Đến ngày hẹn ông L báo bệnh nên không đến, hai bên tiếp tục
hẹn đến ngày 13-9-2023. Đến ngày này vợ chồng ông bà ra Văn phòng C1 để ký
hợp đồng chuyển nhượng nhưng ông L gọi điện báo ông bị cảnh sát giao thông
bắt xe. Việc này ông bà chỉ nghe ông L nói chông L không gửi hình cho ông bà
xem như ông L khai.
Ngày 14-9-2023, ông L1 có điện thoại cho ông L, yêu cầu ông L sắp xếp đi
công chứng trong ngày 14-9-2023 thì ông L nói ông L chưa giải quyết xong vấn
đề bị phạt xe, không hẹn ngày công chứng, chỉ nói khi nào giải quyết công việc
của ông L xong rồi tính. Cũng trong ngày 14-9-2023, ông L chủ động đưa thêm
400.000.000 đồng tiền đặt cọc đất lần 02 cho con ông bà tên Nguyễn Thị Ngọc D.
Cùng ngày, bà D đã chuyển cho ông bà 300.000.000 đồng qua tài khoản của ông
Nguyễn Văn L1, còn 100.000.000 đồng thì D chuyển cho ông bằng tiền mặt
(ông sẽ cung cấp chứng cứ chuyển tiền cho Tòa án sau). Ông xác nhận đã
nhận 400.000.000 đồng tiền đặt cọc đất lần 2 từ ông L qua người chuyển trung
gian D. Ông xác nhận đã nhận 500.000.000 đồng tiền đặt cọc đất thửa
356, tờ bản đồ 115 xã B từ ông L.
Ngày 14-9-2023, ông nhờ D hẹn ông L đến ngày 29-9-2023 ra công
chứng, ông L đồng ý. Sau đó, ông L hẹn lại là 08h ngày 28-9-2023 đi công chng.
Đến hẹn, ông L điện thoại báo cho ông ba của ông L bị đột quỵ, ông L đã
quay trở về (lúc ông L báo cho ông còn khoảng 05km nữa đến phòng công
chứng). Sau đó, ông L1 gọi điện nói cho ông L ngày 02-10-2023 đến công
chứng nhưng ông L nói không biết ngày nào. Từ đó, các bên không hứa hẹn hoặc
gia hạn thêm. Ngày 17-10-2023, ông bà có gửi biên bản chấm dứt hợp đồng cho
ông L, ông L nhận được nhưng cho rằng giấy này không giá trị. Từ đó, sự việc
kéo dài cho đến nay. Trong việc mua bán đất với ông L, ông bà không ủy quyền
cho D đứng ra giao dịch với ông L, nhưng ông L biết D con của ông
nên tự ý đứng ra giao dịch với D. Thửa đất 356 trên hiện tại ông đang
quản lý sử dụng, chưa chuyển nhượng cho ai.
Nay, ông L yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc thì ông L1, bà C đồng ý vì đã hết
thời gian trong hợp đồng. Còn việc ông L yêu cầu ông phải trả 100.000.000
5
đồng thì ông bà không đồng ý; ông bà cũng không đồng ý với việc ông L yêu cầu
bà D trả 400.000.000 đồng. Vì ông bà xác nhận đã nhận 400.000.000 đồng này từ
bà D, nhưng do ông L thực hiện sai hợp đồng nên ông L phải mất cọc.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Ngọc D, trình bày:
Bà D là con của ông L1, bà C. Sự việc đặt cọc giữa hai bên bà D không trực
tiếp chứng kiến. Nhưng ngày 14-9-2023, theo yêu cầu của ông L, D nhận
400.000.000 đồng từ ông L để đặt cọc tiền đất cho ông L1, bà C. Cũng trong ngày
này, D đã chuyển cho ông L1, C qua tài khoản của ông L1 số tiền
300.000.000 đồng, còn 100.000.000 đồng thì D đưa tiền mặt cho ông L1,
C.
Nay, ông L yêu cầu trả cho ông L 400.000.000 đồng đã nhận thì
không đồng ý. số tiền này tiền ông L chuyển tiền đất cho ông L1 và C,
D chỉ người trung gian chuyển tiền, nên D không trách nhiệm trả lại
cho ông L. Việc D nhận tiền cũng như giao dịch với ông L, bà D không được
ông L1, bà C ủy quyền bằng văn bản mà chỉ đồng ý bằng miệng.
Tại Bản án dân thẩm số 79/2024/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đã tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Minh L đối với ông
Nguyễn Văn L1 và bà Nguyễn Thị C về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
1. Ghi nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự: Hủy Hợp đồng đặt cọc tiền
chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đấtngày 18 tháng 8
năm 2023 được ký kết giữa ông Lê Minh L với ông Nguyễn Văn L1, Nguyễn
Thị C.
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Minh L về việc yêu cầu ông Nguyễn
Văn L1, bà Nguyễn Thị C trả lại cho ông Minh L số tiền đặt cọc 100.000.000
đồng.
3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Minh L vviệc buộc bà Nguyễn
Thị Ngọc D phải trả lại cho ông Lê Minh L số tiền đã nhận là 400.000.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, án phí và
quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 22 tháng 7 năm 2024, bị đơn ông Nguyễn Văn L1, Nguyễn Thị C
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Ngọc D đơn kháng
cáo toàn bộ bản án thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết lại toàn
bộ bản án.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Bị đơn ông L1, C người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan D giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
6
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án
không bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ.
- Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa - Vũng Tàu về
việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn L1, bà Nguyễn Thị
C người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Ngọc D nộp trong
thời hạn luật định. Những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng trình tự, thủ
tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Những người tham gia tố tụng đã thc
hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng o
của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên quyết định của
bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, trên cơ sở
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thị Ngọc D nộp trong thời
hạn luật định, nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] D vắng mặt nhưng người đại diện tham gia phiên tòa, nên Hội
đồng xét xử căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, xử vắng mặtD.
[2] Xét yêu cu kháng cáo ca b đơn và người quyn lợi, nghĩa vụ liên
quan bà D:
[2.1] Hợp đồng đặt cc ngày 18-8-2023 được lập thành văn bn, có ch
của bên đặt cc ông L, bên nhn cc ông L1, bà C và người làm chng
Nguyn Th M H. Các bên đều xác nhn t nguyn ký hợp đồng này, ni dung
hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên đây là hợp đồng hp pháp,
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia giao kết.
Tuy nhiên, quá trình gii quyết v án cấp thẩm, c hai bên đương sự
đều thng nht hy hợp đồng đặt cc này nên cấp sơ thẩm tuyên hy hợp đồng
đặt cọc trên là có căn cứ.
[2.2] V s tiền đặt cc:
[2.2.1] Theo hợp đồng đặt cc ngày 18-8-2023 (Bl 57), các bên tha thun
s tiền đặt cc ln 1 ngày 18-8-2023 là 100.000.000 đồng. Trong vòng 15 ngày
k t ngày 18-8-2023 đến ngày 03-9-2023, hai bên s ra phòng công chng
hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất, sau khi hợp đồng chuyn
nhưng, bên B (ông L) phi thanh toán s tin cho bên A là 1.400.000.000 đng.
Như vậy, căn cứ theo hợp đồng đt cc trên thì s tiền đt cc hai bên tha thun
là 100.000.000 đồng.
[2.2.2] Tuy nhiên, theo li khai xác nhn ca c hai bên đương sự và chng
cư là Vi bằng do bà D cung cp (Bl 42-68), đến ngày 03-9-2023 là ngày ngh l
2-9 nên hai bên đã thỏa thun di ngày hợp đng chuyển nhượng thửa đất trên
7
sang ngày 28-8-2023. Đến ngày này, ông L báo bnh nên xin di sang ngày 13-
9-2023, ông L1, C đồng ý. Đến ngày 13-9-2023, ông L ly lý do b Công an
giao thông gi xe vi phm tốc độ nên không đến phòng công chứng được. Ông
L1, bà C đồng ý cho ông L không ký hợp đồng vào ngày 13-9-2023 nhưng chưa
tha thun ngày tiếp theo. Ngày 14-9-2023, ông L1 C gọi điện yêu cu ông
L xung hợp đồng chuyển nhượng thì ông L ly do bận đi Đà Nẵng nên
không xuống được. Cũng từ ngày 28-8-2023, ông L D con gái ông L1,
C có trao đi qua tin nhắn điện thoại liên quan đến vic ký hợp đồng chuyn
nhưng thửa đất trên. Trong ngày 14-9-2023, khiD thông báo ông L1, C
đang cần tin gii quyết việc gia đình nên ông L đã chủ động đề ngh vi bà D là
ông L s chuyển trước cho bà D 400.000.000 đồng ri s công chng sau, bà D
đồng ý. Trước khi chuyn tin cho bà D, ông L yêu cu bà D phi nhn tin xác
nhn vi ông L D con ca ông L1, C, nhn cc ln 2 s tin
400.000.000 đồng lần 1 100.000.000 đồng, tng cộng là 500.000.000 đng.
Sau đó, D đã nhn tin cho ông L vi ni dung: Tôi Nguyn Th Ngc D
CCCD 077192003786 là con rut ca ông Nguyễn Văn L1 và bà Nguyn Th C,
ch đất s tha 356, t bản đồ 115, B, huyn X Tôi đại din cha m nhn
s tin thanh toán lần 2: 400.000.000 đồng…”. Sau khi nhn tin nhn trên, ông
L đã chuyển khon vào tài khon ca D 400.000.000 đồng vi ni dung
chuyn khoản là “Minh L cc tiền đất Bàu Lâm”.
[2.2.3] Như vậy, qua các tin nhắn trao đổi qua li gia hai bên cho thy: Ông
L ch động đề ngh chuyển trước cho D 400.000.000 đồng, nhưng khi chuyển
khon li ghi ni dung chuyn khoản là cc tiền đất”. Còn D khi nhn tin
xác nhn vi ông L thì nhn nội dung là đi din cha m nhn s tin thanh toán
ln 2” là 400.000.000 đng. Nay, ông L thì khẳng định s tiền 400.000.000 đng
là tin tr trước còn bà D và ông L1, bà C thì cho rằng đây là tiền đặt cc ln 2.
Như vậy, khi chuyn khon s tiền 400.000.000 đồng trên, gia các bên không
thng nht rõ với nhau đây là tiền đt cc ln 2 hay tin tr trước. Nay, các bên
li li khai khác nhau v s tiền này. Do đó, căn c Điều 37 Nghị định số
21/2021/NĐ-CP ngày 19-3-2021 của Chính phủ quy định: “Trường hợp một bên
trong hợp đồng giao cho bên kia một khoản tiền các bên không xác định rõ
là tiền đặt cọc hoặc tiền trả trước tstiền này được coi là tiền trả trước”, Hội
đồng xét xử thống nhất xác định số tiền 400.000.000 đồng này là tiền trả trước.
[2.3] Về việc xác định bà D nhận số tiền 400.000.000 là đại diện nhận thay
cho ông L1, bà C hay nhận cho cá nhân bà D?
Thời điểm D ông L nhắn tin trao đổi vviệc chuyển thêm số tiền
400.000.000 đồng vào ngày 14-9-2023, các đương sự đều thừa nhận ông L1, bà
C không văn bản ủy quyền cho D nhận số tiền trên. Tuy nhiên, trong nội
dung tin nhắn gửi cho D, chính ông L là người yêu cầu D xác nhận bà D là
người đại diện cho cha mẹ mình nhận số tiền này D đã nhắn tin xác nhận
nội dung này với ông L trước khi ông L chuyển tiền (Bl 60). Quá trình giải quyết
vụ án, ông L1 và bà C đều thừa nhận ông bà đồng ý cho bà D nhận thay số tiền
trên. Sau khi nhận tiền, bà D cũng đã chuyển toàn bộ số tiền này cho ông L1, bà
C qua chuyển khoản tiền mặt (Bl 170-171). Giữa ông L D hoàn toàn
8
không có giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất với nhau nên việc ông L
chuyển số tiền trên cho nhân D là không căn cứ. vậy, Hội đồng xét
xử đủ sở xác định D người đại diện cho ông L1, C nhận số tiền
400.000.000 đồng tiền trả trước nêu trên, không phải nhận cho cá nhân bà D.
[2.4] Về yêu cầu ông L1, bà C trả lại 100.000.000 đồng tiền đặt cọc:
Hợp đồng đặt cọc ngày 18-8-2023 được ký kết giữa ông Minh L ông
Nguyễn Văn L1, bà Nguyễn Thị C. Trong quá trình thực hiện hợp đồng này, các
bên đều thống nhất gia hạn thời gian ký hợp đồng chuyển nhượng nhiều lần. Ban
đầu, theo hợp đồng đặt cọc là ngày 03-9-2023 nhưng do ngày này rơi vào ngày lễ
nên hai bên thống nhất dời lại ngày 28-8-2023, sau đó lại sang ngày 13-9-2023
ngày 28-9-2023. Tất cả các lần dời ngày này đều do ông L không đến phòng công
chứng, đưa ra nhiều lý do khác nhau để xin dời ngày và được ông L1, bà C đồng
ý. Nhưng đến ngày 28-9-2023 thời hạn cuối cùng bên bị đơn đồng ý gia
hạn, ông L lại đưa ra do cha ông L bị bệnh tai biến nên ông phải quay về
chăm sóc cho cha và không đến phòng công chứng được, nhưng ông cũng không
hẹn ngày công chứng tiếp theo với bđơn. Từ thời điểm này, phía bị đơn không
đồng ý gia hạn thời gian công chứng nữa nên ngày 30-9-2023, D đã nhắn tin
báo cho ông L biết về việc vi phạm thời hạn và yêu cầu chấm dứt hợp đồng. Quá
trình giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, ông L cũng thừa nhận ông
người vi phạm thời hạn ký hợp đồng nên ông chấp nhận mất số tiền đặt cọc
100.000.000 đồng. Do đó, bản án thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông L về việc yêu cầu ông L1, bà C trả lại số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng là có
căn cứ, ông L cũng không kháng cáo phần này nên giữ nguyên như án sơ thẩm.
[2.5] Về yêu cầu bà D trả lại số tiền 400.000.000 đồng bà D nhận ngày 14-
9-2023:
Như trên đã phân tích, đây số tiền trả trước do D đại diện nhận thay cho
ông L1, bà C, không phải D nhận cho bản thân mình. Ông L1 và bà C mới
là người thực sự nhận và thụ hưởng số tiền trên. Nghĩa vụ trả lại số tiền này (nếu
có phát sinh) phải thuộc về ông L1, bà C chứ không thuộc về người nhận thay
bà D. Do vậy, việc ông L yêu cầu D trả lại số tiền này là không có căn cứ. Cấp
sơ thẩm chấp nhận yêu cầu này của ông L là không đúng quy định của pháp luật.
Do vậy, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận kháng cáo của bà D bị đơn, sửa
bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu này của ông L.
[2.6] Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, ông L chỉ yêu cầu D trả số
tiền 400.000.000 đồng trên không yêu cầu ông L1 C phải trả số tiền này.
Xét, đây quyền tự định đoạt của đương sự nên trong phạm vi vụ án này, Hội
đồng xét xử không có thẩm quyền giải quyết việc ông L1, bà C phải trả lại số
tiền trên cho ông L hay không. Trường hợp ông L muốn đòi lại số tiền này từ ông
L1, bà C thì có quyền khởi kiện vụ án khác theo quy định pháp luật.
[2.7] Từ những căn cứ phân tích như trên, Hội đồng xét xử thống nhất
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn D, sửa một phần bản án thẩm
như trên.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có g
9
ngạch trên số tiền yêu cầukhông được chấp nhận, được khấu trừ số tiền tạm
ứng án phí đã nộp. Bị đơn và D không phải chịu án phí sơ thẩm.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Kháng cáo được chấp nhận nên bị đơn
D không phải chịu án phí phúc thẩm, được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn L1, Nguyễn Thị C và
Nguyễn Thị Ngọc D, sửa một phần bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều
273, 296 của Bộ luật Tố tụng dân s; Điều 117, Điều 119, Điều 138, Điều 140,
Điều 166, Điều 328, Điều 422, Điều 423, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự
năm 2015; Điều 26, Điều 27, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Minh L đối với ông
Nguyễn Văn L1 và Nguyễn Thị C về việc Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”: Ghi
nhận sthỏa thuận giữa các đương svề việc hủy Hợp đồng đặt cọc tiền chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” ngày 18 tháng 8 năm 2023
được ký kết giữa ông Lê Minh L với ông Nguyễn Văn L1, bà Nguyễn Thị C.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Minh L về việc yêu cầu
ông Nguyễn Văn L1, bà Nguyễn Thị C trả lại cho ông Lê Minh L số tiền đặt cọc
100.000.000 (một trăm triệu) đồng.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Minh L về việc yêu cầu
Nguyễn Thị Ngọc D phải trả lại cho ông Minh L số tiền đã nhận ngay 14-
9-2023 là 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng.
4. Ông Lê Minh L được quyền khởi kiện vụ án khác để yêu cầu ông Nguyễn
Văn L1, bà Nguyễn Thị C hoàn trả số tiền 400.000.000 đồng do Nguyễn Thị
Ngọc D đại diện nhận từ ông Minh L ngày 14-9-2023 và đã giao lại cho ông
L1, bà C.
5. Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Minh L phải nộp số tiền 24.000.000 (hai mươi bốn triệu) đồng án
phí dân sự thẩm giá ngạch, được trừ vào số tiền 12.000.000 (mười hai triệu)
đồng tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu tiền số 0005489 ngày 18-10-2023
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện X, tỉnh Rịa Vũng Tàu. Ông L còn
phải nộp tiếp số tiền 12.000.000 (mười hai triệu) đồng.
6. Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Nguyễn Văn L1, Nguyễn Thị C bà Nguyễn Thị Ngọc D không
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
10
Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn L1 Nguyễn Thị C số tiền 300.000 (ba
trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp, theo biên lai thu tiền số
0000944 ngày 22 tháng 7 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện X, tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.
Hoàn trả cho Nguyễn Thị Ngọc D số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng
tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu tiền số 0000945 ngày 22 tháng 7 năm
2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện X, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
7. Bản án dân sự phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (14-
01-2025).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh BR-VT;
- TAND H. X, tỉnh BR-VT;
- VKSND H. X, tỉnh BR-VT;
- Chi cục THADS H. X, tỉnh BR-VT;
- Các đương sự;
- Lưu: Tòa Dân sự, Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Cao Minh Vỹ
Tải về
Bản án số 08/2025/DS-ST Bản án số 08/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 08/2025/DS-ST Bản án số 08/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất