Bản án số 498/2024/DS-PT ngày 13/09/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 498/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 498/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 498/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 498/2024/DS-PT ngày 13/09/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 498/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 13/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của N đơn bà Phan Thị T, bà Phan Thị H, bà Phan Thị S, anh Phan Quốc C, chị Phan Thị Anh N; bị đơn bà Đỗ Thị C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T. - Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 75/2024/DS-ST ngày 17 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẾN TRE Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 498/2024/DS-PT
Ngày: 13/9/2024
V/v “Tranh chấp về thừa kế tài sản,
yêu cầu hủy văn bản phân chia di sản
thừa kế, yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Minh Đạt
Các Thẩm phn: Ông Bùi Quang Sơn
Ông Tôn Văn Thông
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Yến Mai - Thẩm tra viên chính Tòa án
nhân dân tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tnh Bn Tre tham gia phiên tòa: Bà
Trần Thị Kim Ngân - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét
xử phc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 260/2024/TLPT-DS ngày 12 tháng 8
năm 2024 về việc: “Tranh chấp về thừa kế tài sản, yêu cầu hủy văn bản phân
chia di sản thừa kế, yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 75/2024/DS-ST ngày 17 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3450/2024/QĐ-PT
ngày 29 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Bà Phan Thị T, sinh năm 1953;
Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
1.2. Bà Phan Thị H, sinh năm 1957;
Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
1.3. Bà Phan Thị S, sinh năm 1961;
Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
1.4. Anh Phan Quốc C, sinh năm 1979;
2
Địa chỉ: Ấp A, xã H, huyện T, tỉnh Bến Tre.
1.5. Chị Phan Thị Anh N, sinh năm 1980;
Địa chỉ: Số A đường B, phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người đại diện theo ủy quyền của cc N đơn: Anh Nguyễn Bá K, sinh
năm 1983. Địa chỉ: Phòng A, lầu B, M, phường N, quận 0, Thành phố Hồ Chí
Minh.
2. Bị đơn:
2.1. Bà Đỗ Thị C, sinh năm 1963;
2.2. Anh Phan Đức L, sinh năm 1993;
2.3. Anh Phan Anh T, sinh năm 1999;
Cùng địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
- Người bảo vệ quyền và L ích hợp php của bà C: Ông Trần Nhật Long
H - Luật sư Văn phòng Luật sư Huy N thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bến Tre.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Anh Phan Bá N, sinh năm 1987;
Địa chỉ: Số 99A ấp C, xã Đ, huyện T, tỉnh Bến Tre.
- Người đại diện theo ủy quyền của anh Phan Bá N: Anh Phạm Quốc V,
sinh năm 1988. Địa chỉ: Ấp H, xã K, huyện N, tỉnh Bến Tre.
3.2. Bà Đỗ Thị Thu C, sinh năm 1960;
Địa chỉ: Ấp An Thuận, xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
- Người đại diện theo ủy quyền của bà Đỗ Thị Thu C: Anh Nguyễn Đỗ
Quốc K, sinh năm 1983. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
3.3. Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre.
- Người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện T: Ông Châu
Thanh T - Chức vụ: Trưởng phòng Phòng Tài Nguyên và Môi trường huyện T.
3.4. Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
- Người đại diện theo php luật: Ông Nguyễn Quốc H - Chức vụ: Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
* Người kháng cáo: Bà Phan Thị T, bà Phan Thị H, bà Phan Thị S, anh
Phan Quốc C, chị Phan Thị Anh N là nguyên đơn; Bà Đỗ Thị C, anh Phan Đức
L, anh Phan Anh T là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm:
* Trong đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, biên bản hoà giải, cc văn
bản có trong hồ sơ vụ n và tại phiên tòa, người đại diện theo uỷ quyền của cc
đồng nguyên đơn là anh Nguyễn B K trình bày:
3
Ông Phan Văn T (sinh năm 1919, chết năm 1992) và bà Bùi Thị T(sinh
năm 1923, chết năm 2014) có 05 người con gồm: Phan Thị T, Phan Thị H, Phan
Thị S, Phan Văn H (chết năm 1980, có 02 người con là Phan Quốc C và Phan
Thị Anh N), Phan Văn D (chết năm 2014 có vợ là Đỗ Thị C và 03 người con là
Phan Bá N, Phan Đức L và Phan Anh T).
Lúc còn sống ông T và bà T có tạo lập được khối tài sản gồm:
- Thửa đất số 26, tờ bản đồ số 34 diện tích 7.753,7m
2
, loại đất LUA.
- Thửa đất 15, tờ bản đồ số 35 diện tích 396,9m
2
, loại đất LUA.
- Thửa đất số 12, tờ bản đồ số 5 diện tích 10.836,9m
2
, loại đất ONT+CLN.
- Thửa đất số 32, tờ bản đồ số 5 diện tích 1.523,9m
2
, loại đất CLN.
- Thửa đất số 40, tờ bản đồ số 5 diện tích 1.029,9m
2
, loại đất CLN.
- Thửa đất số 25, tờ bản đồ số 5 diện tích 900,9m
2
, loại đất CLN.
Các thửa đất cùng tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Ông T qua đời không để lại di chc để định đoạt phần di sản nêu trên. Sau
đó ông Phan Văn D tự ý kê khai và làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với các thửa đất nêu trên nhưng không có sự đồng ý của hàng thừa
kế thứ nhất của ông T. Các thửa đất nêu trên đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho hộ ông Phan Văn D và bà Đỗ Thị C vào năm 2011. Gia
đình bà C ở trên đất từ năm 1993 đến nay. Khi ông D và bà C được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì phía N đơn không được biết, đến khi bà T mất
là năm 2014 thì gia đình M được biết. Khoảng năm 1997, Phan Quốc C có tranh
chấp và yêu cầu chia đất nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Do đó, các đồng nguyên đơn yêu cầu những người thừa kế của ông Phan
Văn D gồm: bà Đỗ Thị C, anh Phan Bá N, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T
chia thừa kế theo pháp luật phần di sản do ông Phan Văn T và bà Bùi Thị T để
lại là các thửa đất nêu trên thành 05 kỷ phần bằng nhau.
Vào ngày 06/7/2020, bà Đỗ Thị C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T có
lập văn bản phân chia tài sản thừa kế, theo văn bản này thì phía bị đơn đã phân
chia các thửa đất nêu trên cho bà Đỗ Thị C đứng tên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Ngày 04/8/2020, bà Đỗ Thị C lập hợp đồng tặng cho thửa đất số 26, tờ
bản đồ số 34 diện tích 7.753,7m
2
cho bà Đỗ Thị Thu C và bà Thu C đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp Tòa án chia thừa kế theo yêu cầu của các đồng nguyên đơn
thì đối với các thửa đất số 12, thửa đất số 32, thửa đất số 40, thửa đất số 25 các
đồng N đơn không yêu cầu nhận đất, các đồng nguyên đơn yêu cầu nhận giá trị
đất theo giá của Hội đồng định giá.
4
Đối với thửa đất số 26, tờ bản đồ số 34 và thửa đất 15, tờ bản đồ số 35 thì
các đồng nguyên đơn yêu cầu nhận đất theo kết quả đo đạc. Nguyên đơn đồng ý
bị đơn nhận thửa 15, diện tích 396,9m
2
; thửa 26a, diện tích 1.284m
2
và thửa 26g,
diện tích 70,4m
2
theo kết quả đo đạc thực tế, tổng diện tích 1.751,3m
2
. Bà T yêu
cầu nhận thửa 26b diện tích 1.899,3m
2
, bà H yêu cầu nhận thửa 26c, diện tích
2.036,7m
2
, bà S yêu cầu nhận thửa 26d diện tích 1.444,8m
2
, chị N và anh C yêu
cầu nhận thửa 26e diện tích 795,0m
2
và thửa 26f, diện tích 222,7m
2
.
Yêu cầu hủy Văn bản phân chia tài sản thừa kế ngày 06/7/2020 của bà Đỗ
Thị C, ông Phan Đức L, ông Phan Anh T, có chứng thực tại UBND xã T chứng
thực số 340, quyển số I/2020 – SCT/HĐGD ngày 07/7/2020. Căn cứ là văn bản
được xác lập sau khi Tòa án thụ lý vụ án nên đất đang tranh chấp thì không đủ
điều kiện để các bị đơn phân chia thừa kế. Bị đơn thừa nhận đất là của ông T, bà
T nhưng bị đơn phân chia mà không có ý kiến của những hàng thừa kế còn lại là
không đng.
Yêu cầu hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Đỗ Thị C và
bà Đỗ Thị Thu C được Ủy ban nhân dân xã T chứng thực ngày 04/8/2020. Căn
cứ là hợp đồng được xác lập sau khi Tòa án thụ lý vụ án nên đất đang tranh chấp
thì không thuộc đối Tợng tặng cho quyền sử dụng đất.
Đồng thời, các đồng nguyên đơn rt yêu cầu đối với yêu cầu hủy tất cả
các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho hộ
ông Phan Văn D và bà Đỗ Thị C. Trường hợp Toà án chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn thì đề nghị Toà án kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
* Tại bản tự khai, biên bản hòa giải, cc văn bản có trong hồ sơ vụ n và
tại phiên tòa, bị đơn là bà Đỗ Thị C trình bày:
Ông Phan Văn T và bà Bùi Thị Tlà cha mẹ chồng của bà có 06 người con
gồm bà Phan Thị T, bà Phan Thị H, bà Phan Thị S, ông Phan Văn H (đã chết),
ông Phan Văn D (đã chết). Ngoài ra ông T, bà T còn một người con nữa là Phan
Văn M, ông M chết năm ông 21 tuổi, ông không có vợ con. Ông Phan Văn H có
con là Phan Quốc C và Phan Thị Anh N. Bà là vợ của ông Phan Văn D. Bà
chung sống và kết hôn với ông D từ năm 1993 và có hai người con chung là
Phan Đức L và Phan Anh T, riêng Phan Bá N thì bà không thừa nhận là con của
ông D.
Về nguồn gốc đất đang tranh chấp thì bà được biết là của cha mẹ chồng
bà là ông T, bà T. Ông T, bà T đã cho ông D trước khi bà về chung sống với ông
D. Hàng năm, ông D là người đóng thuế sử dụng đất cho Nhà nước. Trước đây,
ngoài việc ông T, bà T cho đất ông D thì ông T, bà T cũng cho đất 03 người con
5
gái gồm bà T, bà H, bà S. Bà T được cho hơn 01 mẫu ruộng vườn, phần ruộng
bà T đã bán, chỉ còn phần đất vườn; bà H được cho hơn 01 mẫu ruộng vườn,
phần ruộng bà H cũng đã bán, chỉ còn lại phần đất vườn; bà Phan Thị S cũng
được cho phần đất vườn và đất ruộng; ông H cũng được cho đất ruộng, sau khi
ông H chết thì vợ ông H bỏ về P sống và đất của ông H được đưa vào Tập đoàn.
Ông T, bà T cũng cho ông M một phần đất nhưng do ông M đã chết nên phần
của ông M là ông D nhận để thờ cng ông M. Vào năm nào thì bà không nhớ, vợ
chồng bà có mua lại của bà Phan Thị S mấy công đất vì trên đất có mồ mã của
ông bà. Phần đất bà mua lại của bà S là phần đất khác, không nằm trong các
thửa đất đang tranh chấp.
Năm 1994, ông D kê khai và làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Phan Văn D có tổng diện tích là 14.330m
2
là các thửa đất
trong vườn. Năm 1998, ông D được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
hộ ông Phan Văn D có tổng diện tích là 7.960m
2
là hai thửa đất ruộng. Đến năm
2011, bà và ông D đề nghị cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đồng loạt
thành 06 thửa đất nêu trên. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đng
theo quy định pháp luật. Bà và ông D cũng canh tác đất từ năm 1993 đến nay
không ai tranh chấp. Bà T cũng sống chung với gia đình bà đến khi bà T chết.
Đến tháng 7/2020, bà và hai người con là anh L và anh T đã lập Văn bản
phân chia di sản thừa kế của ông D. Bà được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện thủ tục theo quy định pháp luật và đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với 06 thửa đất trên. Sau đó bà đã lập hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất thửa đất số 26, tờ bản đồ số 34 cho bà Đỗ Thị Thu C (là chị ruột của
bà), hiện bà Thu C đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Lý do bà
thực hiện việc tặng cho đất cho bà Thu C là vì trước đây bà có mượn vàng và T
của bà Thu C nhiều lần (về định lượng vàng và T mượn của bà Thu C thì bà
không xác định) nên bà tặng cho thửa đất số 26, tờ bản đồ số 34 cho bà C hình
thức là để trả số nợ vàng và T đã mượn, nên đối với yêu cầu huỷ văn bản phân
chia di sản và yêu cầu huỷ hợp đồng tặng cho giữa bà và bà Thu C của các đồng
nguyên đơn thì bà không đồng ý.
Nay theo yêu cầu chia thừa kế của nguyên đơn thì gia đình bà không đồng
ý vì gia đình bà sử dụng đất ổn định từ năm 1993 đến nay không ai tranh chấp,
sau khi bà T chết năm 2014 thì lại phát sinh tranh chấp.
* Tại cc biên bản hoà giải và tại phiên toà, bị đơn là anh Phan Đức L
trình bày:
Anh là con của ông Phan Văn D và bà Đỗ Thị C. Anh thống nhất với lời
trình bày của mẹ anh là bà C. Cha mẹ anh chỉ có hai người con chung là anh và
6
Phan Anh T. Riêng đối với anh Phan Bá N thì anh không thừa nhận là con của
ông D. Trường hợp anh N muốn xác định chính xác là con của ông D thì anh N
phải thực hiện thủ tục giám định ADN.
Các nguyên đơn cho rằng các phần đất tranh chấp là di sản của ông T và
bà T thì còn các phần đất khác mà ông T, bà T cho các đồng nguyên đơn thì N
đơn không trình bày, không đề cập đến. Các đồng nguyên đơn cho rằng ông T,
bà T chưa phân chia đất và yêu cầu chia thửa đất của gia đình anh nhưng thực tế
nguồn gốc đất của các đồng nguyên đơn hiện đang sử dụng cũng của ông T, bà
T chia cho các đồng nguyên đơn và cũng có phần đất các nguyên đơn cũng đã
bán cho người khác. Nay theo yêu cầu của các đồng nguyên đơn thì anh không
đồng ý vì trước đây ông T, bà T đã chia đất cho các con rồi, các thửa đất tranh
chấp là phần của ông D được hưởng, không phải là di sản chưa chia. Đối với yêu
cầu của anh N thì anh N không phải là con của ông D nên anh N cũng không có
quyền yêu cầu chia di sản của ông D.
* Tại cc biên bản hoà giải, bị đơn là anh Phan Anh T trình bày:
Anh thống nhất với lời trình bày của mẹ anh là bà Đỗ Thị C về quan hệ
huyết thống, nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất, cũng như không đồng ý với
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn và yêu cầu độc lập của anh
Phan Bá N.
* Tại đơn yêu cầu độc lập, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Phan Bá N trình bày:
Anh thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn về quan hệ huyết thống.
Anh là con ruột của ông Phan Văn D với bà Nguyễn Thị Út B (vợ trước của ông
D). Theo anh được biết thì ông nội anh là ông Phan Văn T có hơn 01 mẫu đất và
căn nhà tại xã N. Nhà đất này ông T cho cha của anh. Sau khi cha và mẹ anh ly
hôn thì năm 1990 cha anh bán nhà đất kể trên cho bà Bảy của anh là bà Phan Thị
Thiệt lấy năm cây vàng 24K. Ngoài ra, ông T còn có hơn 08 công đất ở ấp P, xã
T. Lc họp mặt gia đình để chia tài sản cho các con thì ông T có nói là phần đất
này để ông bà dưỡng già, khi nào ông, bà chết thì để các con tự chia. Năm 1977,
bác Phan Văn H cưới vợ, khoảng nửa năm sau thì ông nội anh có cho ông H gần
một mẫu đất tại ấp B, xã T và cất cho ông H một căn nhà trên đất. Năm 1980
ông H mất, vợ của ông H gửi nhà đất cho ông bà nội anh trông coi để đi làm ăn
xa. Năm 1990, bà Phan Thị T có bán lại cho ông nội anh 05 công đất vườn giáp
ranh với đất và nhà của ông H. Cha anh sau khi bán nhà ở N thì đến ở cùng ông
bà anh tại căn nhà của ông H. Năm 1992, ông nội anh mất thì cha anh lấy vợ sau
là bà C. Sau khi bà nội anh chết, cha anh là ông D cũng chết thì bà C quản lý
hơn một mẫu đất này. Khoảng năm 1997, anh có nộp đơn tranh chấp tại địa
7
phương nhưng chưa được giải quyết. Theo anh thì nguồn gốc đất đang tranh
chấp là của ông bà nội anh là ông Phan Văn T và bà Bùi Thị T nên anh có ý kiến
là chia thừa kế di sản của ông T, bà T thành 05 kỷ phần, cho các cô anh là bà T,
bà H, bà S; hàng thừa kế của ông Phan Văn H gồm: Phan Quốc C và Phan Thị
Anh N, hàng thừa kế của ông Phan Văn D gồm: Đỗ Thị C, Phan Bá N, Phan
Đức L và Phan Anh T. Trường hợp, xác định các thửa đất tranh chấp là di sản
của cha anh là ông D thì anh là hàng thừa kế thứ nhất của ông D nên anh yêu
cầu được nhận di sản theo quy định pháp luật.
Theo kết quả đo đạc, đối với thửa 12 thì nếu xác định di sản của ông T thì
anh yêu cầu nhận thửa 12b diện tích 881,6m
2
, trường hợp xác định di sản của
ông D thì anh N yêu cầu nhận thửa 12b và thửa 12c diện tích 889,8m
2
, tổng diện
tích 1.771,4m
2
. Đối với thửa 26 thì nếu xác định di sản của ông T thì anh N yêu
cầu nhận thửa 26f diện tích 222,7m
2
, trường hợp xác định di sản của ông D thì
anh N yêu cầu nhận thửa 26f và 26e, diện tích 795m
2
, tổng diện tích 1.017,7m
2
.
Đối với yêu cầu hủy Văn bản phân chia tài sản thừa kế ngày 06/7/2020
của bà Đỗ Thị C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T, có chứng thực tại Ủy ban
nhân dân xã T chứng thực số 340, quyển số I/2020-SCT/HĐGD ngày 07/7/2020
thì anh N thống nhất theo ý kiến của N đơn, lý do thứ 1 là đối với văn bản phân
chia này bỏ sót hàng thừa kế con của ông Phan Văn D là anh Phan Bá N, thứ 2
là văn bản phân chia này không có thủ tục niêm yết theo quy định pháp luật.
* Tại cc biên bản hoà giải và tại phiên toà người đại diện theo uỷ quyền
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị Thu C là anh Nguyễn Đỗ
Quốc Khanh trình bày:
Trước đây, bà Đỗ Thị C có mượn vàng và T của mẹ anh là Đỗ Thị Thu C
nhiều lần, mục đích là để xoay sở kinh tế gia đình. Đến khi bà Thu C có nhu cầu
lấy lại thì bà C không có khả năng nên bà C đã thực hiện thủ tục tặng cho thửa
đất số 26, tờ bản đồ số 34 cho bà Thu C là để trả vàng và T đã mượn. Bà Thu C
đã được Sở Tài Nguyên và Môi trường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với thửa đất này vào ngày 19/8/2020 và hiện bà Thu C đang quản lý, sử
dụng đất. Nay theo yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà
Thu C và bà Đỗ Thị C thì bà Thu C không đồng ý. Việc bà Thu C được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là đng quy định của pháp luật. Thời điểm lập
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên thì không có ai
ngăn cản hay đất bị ngăn chặn thì cơ quan có thẩm quyền mới thực hiện được
thủ tục để bà Thu C đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất đã do bà
Thu C quản lý, sử dụng nên việc các nguyên đơn yêu cầu chia di sản là không
phù hợp.
8
* Đại diện Ủy ban nhân dân huyện T trình bày:
Năm 1994, đo đạc không ảnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
các hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn xã T, ông Phan Văn D được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 12/12/1994 gồm các thửa: Thửa 1144,
tờ bản đồ số 01, diện tích 300m
2
, loại đất T; Thửa đất số 1145, tờ bản đồ số 01,
diện tích 6.500m
2
, loại đất ĐM; Thửa 1155, tờ bản đồ số 01, diện tích 1.300m
2
,
loại đất LNK; Thửa 1146, tờ bản đồ số 01, diện tích 300m
2
, loại đất ĐM; Thửa
1149, tờ bản đồ số 01, diện tích 1.500m
2
, loại đất ĐM; Thửa 1152, tờ bản đồ số
01, diện tích 1.430m
2
, loại đất LNK; Thửa 1153, tờ bản đồ số 01, diện tích
600m
2
, loại đất LNK và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
09/10/1998 gồm các thửa: Thửa 201, tờ bản đồ số 03, diện tích 510m
2
, loại đất
CDK; thửa 202, tờ bản đồ số 03, diện tích 7.450m
2
, loại đất 2L. Về trình tự, thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đng theo quy định của pháp luật.
Năm 2011, ông Phan Văn D và bà Đỗ Thị C làm thủ tục cấp đổi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo tọa độ các thửa đất trên và được Ủy ban
nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 21/6/2011 thành
các thửa:
- Thửa đất số 26, tờ bản đồ số 34 diện tích 7.753,7m
2
, loại đất LUA.
- Thửa đất 15, tờ bản đồ số 35 diện tích 396,9m
2
, loại đất LUA.
- Thửa đất số 12, tờ bản đồ số 5 diện tích 10.836,9m
2
, loại đất ONT+CLN.
- Thửa đất số 32, tờ bản đồ số 5 diện tích 1.523,9m
2
, loại đất CLN.
- Thửa đất số 40, tờ bản đồ số 5 diện tích 1.029,9m
2
, loại đất CLN.
- Thửa đất số 25, tờ bản đồ số 5 diện tích 900,9m
2
, loại đất CLN.
Về trình tự, thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đng
theo quy định của pháp luật.
* Đại diện Ủy ban nhân dân xã T trình bày:
Vào ngày 06/7/2020, bà Đỗ Thị C có đến Uỷ ban nhân dân xã T yêu cầu
thực hiện Văn bản phân chia di sản thừa kế do chồng là ông Phan Văn D chết để
lại tài sản là quyền sử dụng đất. Qua xem xét hồ sơ và cam kết của bà Đỗ Thị C
đã kê khai đầy đủ người thừa kế cho nên Ủy ban nhân dân xã T tiến hành chứng
thực Văn bản phân chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật tại Thông T số
01/2020/TT- BTP ngày 03/3/2020 “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Nghị định 23/2025/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp
bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng
thực hợp đồng, giao dịch”. Sau khi Uỷ ban nhân dân xã thực hiện chứng thực
văn bản phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật thì giao cho đương
sự.
9
Do hòa giải không thành nên Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre đã
đưa vụ án ra xét xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 75/2024/DS-ST ngày 17 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện T, tnh Bến Tre đã tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị T, bà Phan Thị
H, bà Phan Thị S, anh Phan Quốc C, chị Phan Thị Anh N và yêu cầu độc lập của
anh Phan Bá N về việc yêu cầu chia di sản thừa kế.
1.1. Chia di sản thừa kế do ông Phan Văn T, bà Bùi Thị T để lại theo quy
định pháp luật đối với 02 thửa đất: thửa đất số 26, tờ bản đồ số 34, diện tích
7.753,7m
2
, loại đất LUA; thửa đất số 15, tờ bản đồ số 35, diện tích 396,9m
2
, loại
đất LUA, cùng tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre, thành 05 kỷ phần. Bà T,
bà H, bà S mỗi người nhận 01 phần, chị N và anh C nhận 01 phần, bà C, anh N,
anh L và anh T nhận 01 phần, cụ thể:
- Chia thừa kế cho bà Phan Thị T được quyền sử dụng phần đất theo đo
đạc thực tế thửa 26b, diện tích 1.899,3m
2
, tờ bản đồ số 34, mục đích sử dụng
đất: LUC, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu toàn bộ
hoa màu trên đất.
- Chia thừa kế cho bà Phan Thị H được quyền sử dụng phần đất theo đo
đạc thực tế thửa 26c, diện tích 2.036,7m
2
, tờ bản đồ số 34, mục đích sử dụng
đất: LUC, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu toàn bộ
hoa màu trên đất.
- Chia thừa kế cho bà Phan Thị S được quyền sử dụng phần đất theo đo
đạc thực tế thửa 26d, diện tích 1.444,8m
2
, tờ bản đồ số 34, mục đích sử dụng
đất: LUC, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu toàn bộ
hoa màu trên đất.
- Chia thừa kế cho chị Phan Thị Anh N và anh Phan Quốc C được quyền
sử dụng phần đất theo đo đạc thực tế thửa 26e và 26f, tổng diện tích 1.017,7m
2
,
tờ bản đồ số 34, mục đích sử dụng đất: LUC, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến
Tre và được quyền sở hữu toàn bộ hoa màu trên đất.
- Chia thừa kế cho bà Đỗ Thị C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T được
quyền sử dụng phần đất theo đo đạc thực tế thửa 26a, diện tích 1.284m
2
, tờ bản
đồ số 34, mục đích sử dụng đất: LUC, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và
được quyền sở hữu toàn bộ hoa màu trên đất.
- Chia thừa kế cho anh Phan Bá N được quyền sử dụng phần đất diện tích
theo đo đạc thực tế thửa 15, tờ bản đồ 35 và thửa 26g, tờ bản đồ số 34, tổng diện
tích (396,9m
2
+ 70,4m
2
) = 467,3m
2
, mục đích sử dụng đất: LUC, tọa lạc tại xã
T, huyện T, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu toàn bộ hoa màu trên đất.
10
(Có hồ sơ đo đạc kèm theo bản n).
- Buộc bà Đỗ Thị Thu C phải giao cho bà Phan Thị T phần đất diện tích
1.899,3m
2
, thửa 26b; giao cho bà Phan Thị H phần đất diện tích 2.036,7m
2
, thửa
26c; giao cho bà Phan Thị S phần đất diện tích 1.444,8m
2
, thửa 26d; giao cho
anh C và chị N phần đất diện tích 1.017,7m
2
thửa 26e và 26f; giao cho bà C, anh
L, anh T phần đất diện tích 1.284m
2
thửa 26a; giao cho anh N phần đất diện tích
70,4m
2
thuộc thửa 26g, tờ bản đồ 34, cùng tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến
Tre.
- Buộc bà Đỗ Thị C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T giao cho anh Phan
Bá N thửa đất số 15, tờ bản đồ 35, diện tích 396,9m
2
tọa lạc tại xã T, huyện T,
tỉnh Bến Tre.
- Buộc bà C, anh L, anh T, anh N có nghĩa vụ liên đới trả cho các đồng N
đơn giá trị chênh lệch kỷ phần thừa kế là 412.760.000 đồng.
- Buộc anh N có nghĩa vụ trả cho bà C, anh L, anh T giá trị chênh lệch
phần thừa kế là 100.300.000 đồng.
- Buộc bà Phan Thị T phải trả cho bà C, anh L, anh T giá trị cây trồng là
2.200.000 đồng.
- Buộc bà Phan Thị H phải trả cho bà C, anh L, anh T giá trị cây trồng là
2.750.000 đồng.
- Buộc bà Phan Thị S phải trả cho bà C, anh L, anh T giá trị cây trồng là
5.500.000 đồng.
- Buộc chị Phan Thị Anh N và anh Phan Quốc C phải trả cho bà C, anh
L, anh T giá trị cây trồng là 1.650.000 đồng.
- Buộc anh Phan Bá N phải trả cho bà C, anh L, anh T giá trị cây trồng là
3.300.000 đồng.
1.2. Chia di sản thừa kế do ông Phan Văn D để lại theo quy định pháp
luật đối với ½ diện tích của 04 thửa đất: thửa đất số 12, tờ bản đồ số 5, diện tích
10.836,9m
2
, loại đất ONT + CLN; thửa đất số 32, tờ bản đồ số 5, diện tích
1.523,9m
2
, loại đất CLN; thửa đất số 40, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.029,9m
2
,
loại đất CLN; thửa đất số 25, tờ bản đồ số 5, diện tích 900,9m
2
, loại đất CLN;
cùng tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Cụ thể:
- Bà C, anh T, anh L được quyền sử dụng phần đất theo đo đạc thực tế
thửa 12a, tờ bản đồ số 5, diện tích 9.064,4m
2
mục đích sử dụng đất: ONT +
CLN; thửa 32, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.523,9m
2
, mục đích sử dụng đất: CLN;
thửa 40, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.029,9m
2
, mục đích sử dụng đất: CLN; thửa
11
25, tờ bản đồ số 5, diện tích 900,9m
2
, mục đích sử dụng đất: CLN, cùng tọa lạc
tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu toàn bộ hoa màu trên đất.
- Chia thừa kế cho anh N được quyền sử dụng phần đất diện tích theo đo
đạc thực tế thửa 12b và 12c, tờ bản đồ số 5, tổng diện tích 1.691,4m
2
, mục đích
sử dụng đất: CLN, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu
toàn bộ hoa màu trên đất. Buộc bà C, anh L, anh T giao cho anh N các thửa đất
này.
(Có hồ sơ đo đạc kèm theo bản n).
Buộc anh Phan Bá N trả cho bà C, anh L, anh T giá trị cây trồng là
66.341.000 đồng.
2. Ghi nhận việc anh N đồng ý dùng phần lối đi theo hiện trạng cho các hộ
phía trong sử dụng.
3. Gia đình bà C gồm bà C, anh L, anh T tiếp tục sử dụng căn nhà và các
công trình kiến trc có trong thửa đất 12a, tờ bản đồ số 5, diện tích 9064,4m
2
.
4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị T, Phan
Thị H, Phan Thị S, anh Phan Quốc C, chị Phan Thị Thanh N về việc yêu cầu
chia di sản thừa kế đối với 04 thửa đất: thửa đất số 12, tờ bản đồ số 5; thửa đất
số 32, tờ bản đồ số 5; thửa đất số 40, tờ bản đồ số 5; thửa đất số 25, tờ bản đồ số
5.
5. Đình chỉ yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ
ông Phan Văn D và bà Đỗ Thị C.
6. Hủy văn bản phân chia tài sản thừa kế ngày 06/7/2020 của bà Đỗ Thị
C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T, có chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã T số
340, quyển số I/2020-SCT/HĐGD ngày 07/7/2020.
7. Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Đỗ Thị C với bà Đỗ
Thị Thu C do Ủy ban nhân dân xã T chứng thực số 400, quyển số 1/2020-SCT-
HĐ,GĐ ngày 04/8/2020.
8. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện thủ tục điều
chỉnh, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các bên đương sự phù hợp
với kết quả giải quyết vụ án, khi đương sự có yêu cầu.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền yêu cầu thi
hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 25/6/2024, bị đơn bà Đỗ Thị C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T
kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo
hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của N đơn; ngày 01/7/2024,
N đơn bà Phan Thị T, bà Phan Thị H, bà Phan Thị S, anh Phan Quốc C, chị Phan
12
Thị Anh N kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm
theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của N đơn.
Tại phiên tòa phc thẩm:
* Người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn anh Nguyễn B K
trình bày:
Các nguyên đơn không đồng ý việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận
chia thừa kế đối với 04 thửa đất là thửa đất số 12, 32, 40, 25, tờ bản đồ số 05,
cùng tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của các N đơn, sửa bản án sơ thẩm.
* Bị đơn bà Đỗ Thị C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T trình bày:
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của N đơn đối với 02
thửa đất là thửa đất số 15, tờ bản đồ số 35 và thửa 26, tờ bản đồ số 34, cùng tọa
lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre nên các bị đơn không đồng ý, đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị đơn, sửa bản án sơ thẩm.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà C là ông Trần Nhật
Long Huy trình bày:
Nguồn gốc đất các bên đã thống nhất, trước khi ông T mất thì bà T đã
phân chia đất hết cho các con, sau đó những người con đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và không ai tranh chấp. Khi bà C về làm vợ ông D thì
ông D đã được cho đất, lc đó bà T và các con cũng không ai ý kiến về việc ông
D được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến khi bà T mất thì M có tranh
chấp, việc ông T đăng ký mục kê chỉ là kê khai ban đầu nên căn cứ án lệ thì
không còn là di sản. Ngoài giấy khai sinh thì anh N không có chứng cứ gì chứng
minh là con của ông D. Bà C cũng có yêu cầu giám định ADN nhưng bị từ chối,
nếu chỉ căn cứ giấy khai sinh thì chưa chắc chắn anh N là con ông D, đề nghị
Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
* Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan anh Phan Bá N là anh Phạm Quốc Vương trình bày:
Khai sinh là sự kiện hộ tịch, được cơ quan nhà nước cấp để xác định quan
hệ nhân thân nên căn cứ giấy khai sinh để xác định anh N là con ông D là hoàn
toàn hợp pháp, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
* Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Đỗ Thị Thu C là anh Nguyễn Đỗ Quốc Khanh trình bày:
Bà Thu C không đồng ý việc hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
giữa bà C với bà Thu C và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Thu C
đối với thửa đất số 26, tờ bản đồ số 34, diện tích 7.753,7m
2
.
* Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
13
Về tố tụng: Hội đồng xét xử phúc thẩm và đương sự đã thực hiện đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của N đơn bà Phan Thị T,
bà Phan Thị H, bà Phan Thị S, anh Phan Quốc C, chị Phan Thị Anh N; bị đơn bà
Đỗ Thị C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm
số 75/2024/DS-ST ngày 17/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, xét kháng cáo của nguyên đơn bà Phan
Thị T, bà Phan Thị H, bà Phan Thị S, anh Phan Quốc C, chị Phan Thị Anh N; bị
đơn bà Đỗ Thị C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T và đề nghị của Kiểm sát
viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về hàng thừa kế của ông Phan Văn T, bà Bùi Thị T: Các đương sự
thống nhất ông T chết ngày 08/3/1992, bà T chết ngày 14/02/2014. Ông T, bà T
có 05 người con là: Phan Thị T, Phan Thị H, Phan Thị S, Phan Văn H (chết năm
1980), Phan Văn D (chết ngày 14/6/2014). Ngoài những người con này thì bị
đơn bà C trình bày ông T, bà T còn có 01 người con là ông Phan Văn M, chết
năm 21 tuổi, không có vợ con nhưng bà C không cung cấp được chứng cứ có giá
trị pháp lý để chứng minh, trong khi phía N đơn không thừa nhận việc này, đồng
thời bà C cũng có trình bày ông M chết trước ông T, bà T và cũng không có vợ
con nên trường hợp ông M được xác định là con của ông T, bà T thì cũng không
được hưởng di sản theo quy định pháp luật.
[2] Về xác định di sản của ông T, bà T:
[2.1] Các bên đương sự trình bày thống nhất về nguồn gốc các thửa đất
12, 32, 40, 25, cùng tờ bản đồ số 05 (thửa cũ là thửa 1144, 1145, 1155, 1146,
1149, 1152, 1153, cùng tờ bản đồ số 01) và các thửa 15, tờ bản đồ 35 và thửa
26, tờ bản đồ 34 (thửa cũ là thửa 201, 202, cùng tờ bản đồ số 03), cùng tọa lạc
tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre là của ông T, bà T, tuy nhiên, việc xác định các
thửa đất nêu trên có còn là di sản của ông T, bà T hay không thì các bên không
thống nhất, cụ thể các nguyên đơn cho rằng di sản thừa kế ông T, bà T chết để
lại gồm toàn bộ các thửa đất nêu trên, còn phía bị đơn thì cho rằng mặc dù các
thửa đất trên có nguồn gốc của ông T nhưng không còn là di sản thừa kế vì ông
T, bà T đã cho ông Phan Văn D trước khi bà C về chung sống với ông D.
[2.2] Xét thấy, theo Công văn số 02/UBND-TP ngày 03/01/2024 của Ủy
ban nhân dân xã T thì thửa đất số 201, tờ bản đồ số 03 (nay là thửa đất số 15, tờ
bản đồ số 35) và thửa đất số 202, tờ bản đồ số 03 (nay là thửa đất số 26, tờ bản
14
đồ số 34) do ông T đứng tên sổ mục kê. Các thửa đất còn lại là các thửa 1144,
1145, 1155, 1146, 1149, 1152, 1153, cùng tờ bản đồ số 01 (nay là thửa đất 12,
32, 40, 25, tờ bản đồ số 05) thì do ông D kê khai đứng tên sổ mục kê. Ngày
12/12/1994, Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông Phan Văn D tổng diện tích 14.330m
2
và ông D, bà C được cấp đổi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo đo đạc tọa độ vào ngày 21/6/2011 gồm 04
thửa là thửa số 12, 32, 40, 25, tờ bản đồ số 05. Đối với thửa 201, 202, cùng tờ
bản đồ số 03, diện tích 7.960m
2
thì ngày 09/10/1998, Ủy ban nhân dân huyện T
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông D và hộ ông D, bà C được
cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đo đạc tọa độ vào ngày
21/6/2011 gồm 02 thửa là thửa đất số 15, tờ bản đồ số 35 và thửa đất số 26, tờ
bản đồ số 34. Sau khi ông D chết, ngày 06/7/2020 bà C, anh L và anh T lập văn
bản phân chia tài sản thừa kế, thống nhất để bà Đỗ Thị C đứng tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất 06 thửa đất nêu trên. Ngày 27/7/2020, bà Đỗ Thị C
được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Ngày 04/8/2020, bà Đỗ Thị C lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất thửa đất số 26, tờ bản đồ số 34, diện tích 7.753,7m
2
cho bà Đỗ Thị Thu C
(Thu C). Bà Thu C được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 19/8/2020.
Như vậy, thửa đất số 1144, 1145, 1146, 1149, một phần thửa 1152, 1153,
1155, tờ bản đồ số 01 (thửa M số 12, 32, 40, 25, tờ bản đồ số 05), tọa lạc tại xã
T, huyện T, tỉnh Bến Tre mặc dù các thửa đất này có nguồn gốc của ông T, bà T
nhưng ông T, bà T không đăng ký, kê khai đối với các thửa đất này. Quá trình sử
dụng đất, ông D là người đứng ra kê khai, đăng ký và được cơ quan có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 04 thửa đất trên. Thời
điểm ông D đăng ký, kê khai sổ mục kê thì ông T còn sống và khi ông D làm thủ
tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà T và những đồng
thừa kế khác của ông T cũng không có ý kiến hay tranh chấp gì với ông D. Các
N đơn căn cứ vào biên bản ngày 21/4/1997 của Ủy ban nhân dân xã T về việc
giải quyết tranh chấp giữa anh Phan Quốc C với bà T để cho rằng tại biên bản
này ông D (tên gọi khác là Đậu) có ý kiến là việc cho đất anh C là do bà T quyết
định chứng tỏ ông D xác định đất là của cha mẹ ông D nên toàn bộ các thửa đất
trên là di sản của ông T, bà T, tuy nhiên biên bản này không thể hiện được diện
tích đất 5.000m
2
mà anh C tranh chấp với bà T là các thửa đất mà các N đơn
đang tranh chấp, đồng thời việc hoà giải giữa anh C và bà T không thành, cho
đến khi bà T chết thì bà T cũng không có định đoạt gì khác đối với đất tranh
chấp. Do đó, các thửa đất số 1144, 1145, 1146, 1149, một phần thửa 1152, 1153,
15
1155, tờ bản đồ số 01 (thửa M số 12, 32, 40, 25, tờ bản đồ số 05) được xác định
không còn là di sản của ông T, bà T mà là tài sản chung của vợ chồng ông D, bà
C. Việc nguyên đơn kháng cáo cho rằng thửa đất số 1144, 1145, 1146, 1149,
một phần thửa 1152, 1153, 1155, tờ bản đồ số 01 (thửa M số 12, 32, 40, 25, tờ
bản đồ số 05) là di sản của ông T, bà T là không có căn cứ.
[2.3] Đối với thửa 26, tờ bản đồ số 34 và thửa 15, tờ bản đồ số 35, tọa lạc
tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre thì ông T là người đăng ký vào sổ mục kê. Các
bên đương sự cũng trình bày thống nhất nguồn gốc đất là của ông T, bà T. Ông
T, bà T chết không để lại di chc đối với 02 thửa đất này. Do đó, việc ông D
thực hiện thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 02 thửa đất này,
không có ý kiến của bà T và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông T
là không đng quy định pháp luật. Vì vậy, có cơ sở xác định thửa đất số 26, tờ
bản đồ số 34 và thửa đất số 15, tờ bản đồ số 35 là di sản thừa kế của ông T, bà T
chết để lại, do đó bà C không phải là chủ sử dụng hợp pháp đối với 02 thửa đất
này, đồng thời việc bà C lập thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất
số 26, tờ bản đồ số 34 cho bà Đỗ Thị Thu C (chị bà C) trong thời gian Tòa án
giải quyết tranh chấp là không đng quy định. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên
hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa 26, tờ bản đồ số 34 giữa bà C với
bà Thu C và chia thừa kế theo pháp luật đối với thửa 26, tờ bản đồ số 34 và thửa
15, tờ bản đồ số 35 thành 05 kỷ phần, theo đó bà T, bà H, bà S mỗi người nhận
một phần, chị N và anh C nhận 01 phần, bà C, anh N, anh L và anh T nhận 01
phần, cụ thể bà T được quyền sử dụng phần đất theo đo đạc thực tế thửa 26b,
diện tích 1.899,3m
2
, tờ bản đồ số 34; bà H được quyền sử dụng phần đất theo đo
đạc thực tế thửa 26c, diện tích 2.036,7m
2
, tờ bản đồ số 34; bà S được quyền sử
dụng phần đất theo đo đạc thực tế thửa 26d, diện tích 1.444,8m
2
, tờ bản đồ số
34; chị N và anh C được quyền sử dụng phần đất theo đo đạc thực tế thửa 26e và
26f, tổng diện tích 1.017,7m
2
, tờ bản đồ số 34; bà C, anh T, anh L, anh N là hàng
thừa kế của ông D nhận phần đất theo đo đạc thực tế gồm thửa 15, thửa 26a và
thửa 26g, tổng diện tích 1.751,3m
2
, đồng thời các N đơn phải trả giá trị cây
trồng trên đất mà mỗi người được nhận cho bà C, anh L, anh T là phù hợp. Các
bị đơn bà C, anh T, anh L kháng cáo không đồng ý chia thừa kế đối với thửa 26,
tờ bản đồ số 34 và thửa 15, tờ bản đồ số 35 là không có căn cứ.
[3] Về chia thừa kế di sản của ông D:
Các bị đơn bà C, anh T, anh L kháng cáo không đồng ý việc chia thừa kế
di sản của ông D cho anh N vì cho rằng anh N không phải là con ruột của ông D.
Xét thấy, căn cứ giấy khai sinh của anh N thể hiện họ tên cha là Phan Văn D nên
có cơ sở xác định anh N cũng là một trong những người thuộc hàng thừa kế thứ
nhất của ông D, bị đơn không thừa nhận anh N là con ruột của ông D nhưng
16
không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Vì vậy, có cơ sở xác định anh N
cũng là một trong những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông D. Anh N
có yêu cầu độc lập là chia thừa kế đối với phần di sản của ông D nên Tòa án cấp
sơ thẩm xem xét tuyên cho anh N được hưởng một phần di sản của ông D, cụ
thể anh N được quyền sử dụng phần đất diện tích theo đo đạc thực tế thửa 12b
và 12c, tờ bản đồ số 5, tổng diện tích 1.771,4m
2
, mục đích sử dụng đất: CLN, tọa
lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và anh N phải trả cho bà C, anh L, anh T giá trị
cây trồng là 66.341.000; đối với thửa 15, tờ bản đồ 35 và thửa 26g, tờ bản đồ số
34, tổng diện tích 467,3m
2
mặc dù không đủ diện tích tối thiểu tách thửa theo
quy định nhưng do đây là di sản thừa kế và anh N cũng có nhu cầu sử dụng đất
nên Tòa án cấp sơ thẩm sau khi xem xét công sức tôn tạo, giữ gìn đất của bà C
đã tuyên cho anh N được quyền sử dụng các phần đất nêu trên là phù hợp và anh
N cũng không có kháng cáo gì liên quan kỷ phần mà Tòa cấp sơ thẩm tuyên cho
anh được nhận. Bà C, anh T, anh L kháng cáo nhưng không cung cấp được
chứng cứ chứng minh nên không được chấp nhận.
[4] Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích của bị đơn không phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các N đơn bà
Phan Thị T, bà Phan Thị H, bà Phan Thị S, anh Phan Quốc C, chị Phan Thị Anh
N, các bị đơn bà Đỗ Thị C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm. Tuy nhiên, bà T, bà H, bà S, bà C là người cao tuổi nên được
miễn án phí. Anh C, chị N, anh L, anh T phải chịu án phí phc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tuyên xử:
- Không chấp nhận kháng cáo của N đơn bà Phan Thị T, bà Phan Thị H,
bà Phan Thị S, anh Phan Quốc C, chị Phan Thị Anh N; bị đơn bà Đỗ Thị C, anh
Phan Đức L, anh Phan Anh T.
- Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 75/2024/DS-ST ngày 17 tháng 6
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre. Cụ thể:
Căn cứ vào các điều 188, 203 Luật Đất đai năm 2013, Điều 688 Bộ luật
Dân sự năm 2005, các điều 609, 610, 611, 612, 613, 623, 649, 650, 651, 652,
660 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 147, khoản 1 Điều 228, điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự;
17
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị T, bà Phan Thị
H, bà Phan Thị S, anh Phan Quốc C, chị Phan Thị Anh N và yêu cầu độc lập của
anh Phan Bá N về việc yêu cầu chia di sản thừa kế.
1.1. Chia di sản thừa kế do ông Phan Văn T, bà Bùi Thị Tđể lại theo quy
định pháp luật đối với 02 thửa đất: thửa đất số 26, tờ bản đồ số 34, diện tích
7.682,5m
2
, loại đất LUA; thửa đất số 15, tờ bản đồ số 35, diện tích 396,9m
2
, loại
đất LUA, cùng tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre, thành 05 kỷ phần. Bà T,
bà H, bà S mỗi người nhận 01 phần, chị N và anh C nhận 01 phần, bà C, anh N,
anh L và anh T nhận 01 phần, cụ thể:
- Chia thừa kế cho bà Phan Thị T được quyền sử dụng phần đất theo đo
đạc thực tế thửa 26b, diện tích 1.899,3m
2
, tờ bản đồ số 34, mục đích sử dụng
đất: LUC, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu toàn bộ
hoa màu trên đất.
- Chia thừa kế cho bà Phan Thị H được quyền sử dụng phần đất theo đo
đạc thực tế thửa 26c, diện tích 2.036,7m
2
, tờ bản đồ số 34, mục đích sử dụng
đất: LUC, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu toàn bộ
hoa màu trên đất.
- Chia thừa kế cho bà Phan Thị S được quyền sử dụng phần đất theo đo
đạc thực tế thửa 26d, diện tích 1.444,8m
2
, tờ bản đồ số 34, mục đích sử dụng
đất: LUC, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu toàn bộ
hoa màu trên đất.
- Chia thừa kế cho chị Phan Thị Anh N và anh Phan Quốc C được quyền
sử dụng phần đất theo đo đạc thực tế thửa 26e và 26f, tổng diện tích 1.017,7m
2
,
tờ bản đồ số 34, mục đích sử dụng đất: LUC, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến
Tre và được quyền sở hữu toàn bộ hoa màu trên đất.
- Chia thừa kế cho bà Đỗ Thị C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T được
quyền sử dụng phần đất theo đo đạc thực tế thửa 26a, diện tích 1.284m
2
, tờ bản
đồ số 34, mục đích sử dụng đất: LUC, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và
được quyền sở hữu toàn bộ hoa màu trên đất.
- Chia thừa kế cho anh Phan Bá N được quyền sử dụng phần đất diện tích
theo đo đạc thực tế thửa 15, tờ bản đồ 35 và thửa 26g, tờ bản đồ số 34, tổng diện
tích (396,9m
2
+ 70,4m
2
) = 467,3m
2
, mục đích sử dụng đất: LUC, tọa lạc tại xã
T, huyện T, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu toàn bộ hoa màu trên đất.
18
(Có hồ sơ đo đạc kèm theo bản n).
- Buộc bà Đỗ Thị Thu C phải giao cho bà Phan Thị T phần đất diện tích
1.899,3m
2
, thửa 26b; giao cho bà Phan Thị H phần đất diện tích 2.036,7m
2
, thửa
26c; giao cho bà Phan Thị S phần đất diện tích 1.444,8m
2
, thửa 26d; giao cho
anh C và chị N phần đất diện tích 1.017,7m
2
thửa 26e và 26f; giao cho bà C, anh
L, anh T phần đất diện tích 1.284m
2
thửa 26a; giao cho anh N phần đất diện tích
70,4m
2
thuộc thửa 26g, tờ bản đồ 34, cùng tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến
Tre.
- Buộc bà Đỗ Thị C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T giao cho anh
Phan Bá N thửa đất số 15, tờ bản đồ 35, diện tích 396,9m
2
, tọa lạc tại xã T,
huyện T, tỉnh Bến Tre.
- Buộc bà C, anh L, anh T, anh N có nghĩa vụ liên đới trả cho các đồng N
đơn giá trị chênh lệch kỷ phần thừa kế là 412.760.000đ (Bốn trăm mười hai triệu
bảy trăm S mươi nghìn đồng).
- Buộc anh N có nghĩa vụ trả cho bà C, anh L, anh T giá trị chênh lệch
phần thừa kế là 100.300.000đ (Một trăm triệu ba trăm nghìn đồng).
- Buộc bà Phan Thị T phải trả cho bà C, anh L, anh T giá trị cây trồng là
2.200.000đ (Hai triệu hai trăm nghìn đồng).
- Buộc bà Phan Thị H phải trả cho bà C, anh L, anh T giá trị cây trồng là
2.750.000đ (Hai triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
- Buộc bà Phan Thị S phải trả cho bà C, anh L, anh T giá trị cây trồng là
5.500.000đ (Năm triệu năm trăm nghìn đồng).
- Buộc chị Phan Thị Anh N và anh Phan Quốc C phải trả cho bà C, anh
L, anh T giá trị cây trồng là 1.650.000đ (Một triệu S trăm năm mươi nghìn
đồng).
- Buộc anh Phan Bá N phải trả cho bà C, anh L, anh T giá trị cây trồng là
3.300.000đ (Ba triệu ba trăm nghìn đồng).
1.2. Chia di sản thừa kế do ông Phan Văn D để lại theo quy định pháp
luật đối với ½ diện tích của 04 thửa đất: thửa đất số 12, tờ bản đồ số 5, diện tích
10.835,8m
2
, loại đất ONT + CLN; thửa đất số 32, tờ bản đồ số 5, diện tích
1.523,8m
2
, loại đất CLN; thửa đất số 40, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.029,9m
2
,
loại đất CLN; thửa đất số 25, tờ bản đồ số 5, diện tích 900,9m
2
, loại đất CLN;
cùng tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Cụ thể:
- Bà C, anh T, anh L được quyền sử dụng phần đất theo đo đạc thực tế
thửa 12a, tờ bản đồ số 5, diện tích 9.064,4m
2
mục đích sử dụng đất: ONT +
CLN; thửa 32, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.523,8m
2
, mục đích sử dụng đất: CLN;
19
thửa 40, tờ bản đồ số 5, diện tích 1.029,9m
2
, mục đích sử dụng đất: CLN; thửa
25, tờ bản đồ số 5, diện tích 900,9m
2
, mục đích sử dụng đất: CLN, cùng tọa lạc
tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu toàn bộ hoa màu trên đất.
- Chia thừa kế cho anh N được quyền sử dụng phần đất diện tích theo đo
đạc thực tế thửa 12b và 12c, tờ bản đồ số 5, tổng diện tích 1.771,4m
2
, mục đích
sử dụng đất: CLN, tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre và được quyền sở hữu
toàn bộ hoa màu trên đất. Buộc bà C, anh L, anh T giao cho anh N các thửa đất
này.
(Có hồ sơ đo đạc kèm theo bản n).
Buộc anh Phan Bá N trả cho bà C, anh L, anh T giá trị cây trồng là
66.341.000đ (Sáu mươi sáu triệu ba trăm bốn mươi mốt nghìn đồng).
2. Ghi nhận việc anh N đồng ý dùng phần lối đi theo hiện trạng cho các hộ
phía trong sử dụng.
3. Gia đình bà C gồm bà C, anh L, anh T tiếp tục sử dụng căn nhà và các
công trình kiến trc có trong thửa đất 12a, tờ bản đồ số 5, diện tích 9.064,4m
2
,
tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị T, Phan
Thị H, Phan Thị S, anh Phan Quốc C, chị Phan Thị Thanh N về việc yêu cầu
chia di sản thừa kế đối với 04 thửa đất: thửa đất số 12, tờ bản đồ số 5; thửa đất
số 32, tờ bản đồ số 5; thửa đất số 40, tờ bản đồ số 5; thửa đất số 25, tờ bản đồ số
5, cùng tọa lạc tại xã T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
5. Đình chỉ yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ
ông Phan Văn D và bà Đỗ Thị C.
6. Hủy văn bản phân chia tài sản thừa kế ngày 06/7/2020 của bà Đỗ Thị
C, anh Phan Đức L, anh Phan Anh T, có chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã T số
340, quyển số I/2020-SCT/HĐGD ngày 07/7/2020.
7. Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Đỗ Thị C với bà Đỗ
Thị Thu C do Ủy ban nhân dân xã T chứng thực số 400, quyển số 1/2020-SCT-
HĐ,GĐ ngày 04/8/2020.
8. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện thủ tục điều
chỉnh, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các bên đương sự phù hợp
với kết quả giải quyết vụ án, khi đương sự có yêu cầu.
9. Về chi phí tố tụng khác: Các đồng nguyên đơn tự nguyện chịu chi phí
tố tụng tổng cộng 25.282.000đ (Hai mươi lăm triệu hai trăm tám mươi hai nghìn
đồng) đã nộp đủ nên ghi nhận.
10. Về án phí dân sự:
10.1. Về án phí dân sự sơ thẩm:
20
- Bà Phan Thị T, bà Phan Thị H, bà Phan Thị S, bà Đỗ Thị C, bà Đỗ Thị
Thu C là người cao tuổi nên được miễn nộp T án phí.
- Bà Phan Thị S được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
12.000.000đ (Mười hai triệu đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà
án số 0000435 ngày 24/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh
Bến Tre.
- Anh C và chị N phải liên đới chịu án phí số tiền tổng cộng là
53.481.750đ (Năm mươi ba triệu bốn trăm tám mươi mốt nghìn bảy trăm năm
mươi đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 12.000.000đ
(Mười hai triệu đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0000436
ngày 24/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Bến Tre; anh C và
chị N còn phải nộp 41.481.750đ (Bốn mươi mốt triệu bốn trăm tám mươi mốt
nghìn bảy trăm năm mươi đồng).
- Anh L và anh T phải liên đới chịu án phí số tiền tổng cộng là
58.835.200đ (Năm mươi tám triệu tám trăm ba mươi lăm nghìn hai trăm đồng)
và 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí không có giá ngạch, tổng cộng là
59.035.200đ (Năm mươi chín triệu không trăm ba mươi lăm nghìn hai trăm
đồng) và còn phải nộp đủ số T này.
- Anh N phải chịu án phí số tiền tổng cộng là 45.718.770đ (Bốn mươi lăm
triệu bảy trăm mười tám nghìn bảy trăm bảy mươi đồng) nhưng được trừ vào số
tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.000.000đ (Năm triệu đồng) theo biên lai thu tạm
ứng án phí, lệ phí Toà án số 0004690 ngày 18/02/2022 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện T, tỉnh Bến Tre; anh N còn phải nộp 40.718.770đ (Bốn mươi triệu
bảy trăm mười tám nghìn bảy trăm bảy mươi đồng).
- Hoàn lại cho các đồng nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ
thẩm đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0006740
ngày 29/12/2020 và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số
0002650 ngày 15/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Bến
Tre.
10.2. Về án phí dân sự phc thẩm:
- Bà Phan Thị T, bà Phan Thị H, bà Phan Thị S, bà Đỗ Thị C được miễn
án phí.
- Anh Phan Quốc C, chị Phan Thị Anh N phải chịu mỗi người là 300.000đ
(Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí theo biên
lai thu số 0001600, số 0001601, cùng ngày 05/7/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện T, tỉnh Bến Tre.
21
- Anh Phan Đức L, anh Phan Anh T phải chịu mỗi người là 300.000đ (Ba
trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí theo biên lai
thu số 0005245, số 0005246 cùng ngày 25/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện T, tỉnh Bến Tre.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan
thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản T phải trả
cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản T lãi của số T còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Bến Tre (1b); THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện T (1b);
- Chi cục THADS huyện T (1b);
- Phòng KTNV và THA; VP (3b);
- Các đương sự (8b);
- Lưu hồ sơ (1b).
Lê Minh Đạt
Tải về
Bản án số 498/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 498/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm