Bản án số 35/2025/DS-PT ngày 19/03/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 35/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 35/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 35/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 35/2025/DS-PT ngày 19/03/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Phúc |
Số hiệu: | 35/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp yêu cầu thực hiện văn bản phân chia di sản thừa kế |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 35/2025/HNGĐ-PT
Ngày 19 - 3 - 2025
“Tranh chấp yêu cầu thực hiện văn
bản phân chia di sản thừa kế”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Duy Sơn
Bà Bùi Thị Đoan Trang
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Nhung, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc: Ông Phùng Ngọc Tuấn
- Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 19 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 128/2024/TLPT-DS ngày 06 tháng 11 năm
2024 về việc “Tranh chấp yêu cầu thực hiện Văn bản thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế” giữa:
Do Bản án Dân sự sơ thẩm số: 17/2024/DS- ST ngày 05 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 12/2025/QĐ - PT
ngày 06 tháng 01 năm 2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1971; Địa chỉ: TDP L, thị trấn Tam Sơn,
huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
Bị đơn: Anh Lê Văn M, sinh năm 1978; Địa chỉ: TDP L, thị trấn Tam Sơn,
huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của anh M: Anh Chu Hải Đ, sinh năm 1991;
địa chỉ: Số 89, đường T, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc,
có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:
2
+ Bà Đỗ Thị Khánh H, sinh năm 1993 – Luật sư Công ty Luật TNHH Hùng
Phúc, Đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Số 89, đường T, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Cụ Nguyễn Thị H, sinh năm 1934;
Địa chỉ: TDP L, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
2. Bà Lê Thị T, sinh năm 1961;
Địa chỉ: Khu A, xã Kim Đức, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
3. Bà Lê Thị P, sinh năm 1962;
Địa chỉ: TDP S, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
4. Ông Lê Văn G, sinh năm 1963;
Địa chỉ: TDP Lạc Kiều, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
5. Ông Lê Văn H1, sinh năm 1966;
Địa chỉ: TDP L, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
6. Ông Lê Văn M, sinh năm 1973;
Địa chỉ: TDP L, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
7. Anh Lê Kim C, sinh năm 1971;
Địa chỉ: TDP L, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
8. Chị Hà Thị Đ, sinh năm 1981;
Địa chỉ: TDP , thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
9. Ông Đỗ Hữu C, sinh năm 1957 – Công chứng viên, nguyên Trưởng Văn
phòng công chứng huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
Địa chỉ: TDP Hữu P, xã Bắc Bình, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc
(Tại phiên tòa tất cả những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt,
bà Phố có mặt.)
Người kháng cáo: Bà Lê Thị H – nguyên đơn
Anh Lê Văn M – bị đơn.
Kháng nghị : Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện đề ngày 29 tháng 4 năm 2022 quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị H trình bày: Bố mẹ bà là cụ Lê Văn H,
sinh năm 1933 (chết năm 2001) và cụ Nguyễn Thị H, sinh năm 1934. Bố mẹ bà
sinh được 08 người con gồm: bà T, bà P, ông G, ông H (tức H), ông C, ông M, ông
M và bà (Lê Thị H). Bố mẹ bà khi còn sống có tạo lập được tài sản là diện tích đất
3
là khoảng 1.632m
2
tại thửa số 66, tờ bản đồ 11, địa chỉ: tổ dân L, thị trấn Tam Sơn,
huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc, giấy chứng nhận quyền sử dụng cấp cho “Hộ ông
Lê Văn H” (năm 2010 đã cho em trai bà là Lê Kim C 320m
2
đất vườn). Ông C đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông C. Diện tích đất đã cho
ông C, bà không đề nghị) nên hiện nay trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
chỉ còn khoảng 1.312m
2
. Khi cụ H chết không phân định lại đất hay có di chúc nên
thửa đất vẫn giữ nguyên là hộ ông Lê Văn Hoàn. Năm 2013 do anh M chơi cờ bạc,
thua và nợ nần nhiều tiền nên đã phải cầm cố Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên “Hộ ông Lê Văn Hoàn” với số tiền nợ hơn 200.000.000 đồng. Do anh M
không có khả năng trả nợ, bị xã hội đen đe dọa nên mẹ bà, cụ Nguyễn Thị H đã
nhờ bà đứng ra trả nợ thay cho ông M thì sẽ cho bà phần diện tích 200m
2
(trong đó
có 100m
2
đất thổ cư và 100m
2
đất trồng cây lâu năm) của tổng diện tích của thửa
đất 1312m
2
. Sau khi bà đi vay mượn để trả nợ thay cho anh M và rút được Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất về thì đến ngày 17/9/2013, mẹ bà cùng 07 anh chị
em (trừ ông H1, khi đó đi làm ăn xa không về kịp) đã ra Văn phòng công chứng
lập văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế với nội dung cụ Nguyễn Thị H cho
bà Lê Thị H phần diện tích 200m
2
(trong đó có 100m
2
đất ở và 100m
2
đất trồng cây
lâu năm), các bên đã làm thủ tục công chứng, chính quyền địa phương thị trấn Tam
Sơn đã trích đo trên thực địa nhưng văn bản không được thực hiện vì thiếu chữ ký
của anh trai bà là ông H1. Vài ngày sau, ông H1 về thì mới ký vào Văn bản thoả
thuận phân chia trên. Sau khi có đầy đủ chữ ký của các thành viên gia đình, bà đã
chuyển toàn hồ sơ cho cán bộ Văn phòng đăng ký đất đai để làm thủ tục nhưng
không làm được thủ tục chuyển nhượng được do ông H1 có đơn đến phòng Tài
nguyên môi trường huyện Sông Lô không đồng ý thực hiện văn bản thỏa thuận
trên. Đến năm 2014, cụ H và các anh chị em đồng ý tách phần diện tích 200m
2
cho
bà nhưng anh Lê Văn M không đồng ý nên không làm được thủ tục tách đất cho
bà.
Vì vậy, đến nay Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên “Hộ ông Lê
Văn H” vẫn do bà giữ còn toàn bộ diện tích đất này đang do anh M quản lý, sử
dụng trên đất anh M có xây dựng nhà và công trình phụ. Nay bà yêu cầu buộc anh
Lê Văn M thực hiện Văn bản thỏa thuận đề ngày 17/9/2013 theo nguyện vọng của
cụ H và các anh chị em trả lại cho bà diện đất của cụ H cho bà 200m
2
, (trong đó có
100m
2
đất thổ cư và 100m
2
đất trồng cây lâu năm).
4
Đối với yêu cầu phản tố của anh M về việc yêu cầu công nhận giao dịch tặng
cho quyền sử dụng đất diện tích 720m
2
theo giấy chuyển nhượng đất làm nhà ở
năm 2009, bà không chấp nhận toàn bộ nội dung yều cầu của anh M.
Bị đơn anh Lê Văn M trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh
trình bày: Anh thừa nhận nội dung về thành phần gia đình, nguồn gốc thửa đất,
phần chia tách đất cho anh C sử dụng (đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho anh C) và diện tích thửa đất còn lại theo như Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đứng tên “Hộ ông Lê Văn H” là 1312m
2
như bà Lê Thị H trình bày là
đúng. Sau khi bố anh chết năm 2001 không để lại di chúc. Đến ngày 12/5/2009,
mẹ anh là cụ Nguyễn Thị H cùng 7 anh chị em ruột của anh đã lập biên bản họp
gia đình về việc phân chia đất thổ cư với nội dung cắt cho anh 720m
2
, có mô tả
chiều cạnh nhưng chỉ có một số anh em có mặt còn lại vắng mặt người khác ký
thay ghi họ tên của thửa đất đứng tên “Hộ ông: Lê Văn H”, nên anh đã xây công
trình, trồng cây gồm: 01 nhà cấp 4, xây gạch, lợp ngói diện tích khoảng 70m
2
, xây
hết khoảng 200.000.000 đồng; 01 nhà bếp, xây gạch, lợp ngói, diện tích khoảng
50m
2
; 01 công trình phụ (nhà vệ sinh), diện tích khoảng 20m
2
, xây gạch, đổ mái bê
tông; hệ thống chuồng trại để chăn nuôi, diện tích khoảng hơn 10m
2
, xây gạch xi,
lợp blo xi măng; 01 giếng khoan, làm hết 7.000.000 đồng; 01 sân lát gạch đỏ, diện
tích 60m
2
, làm hết 7.000.000 đồng; 01 miếu thờ tổ tiên; 01 hệ thống tường bao
quanh, dài 40 – 50m, xây gạch xi, cao khoảng 1,3 - 1,4m, xây hết 7.000.000 đồng;
01 cổng, gồm có 02 trụ xây bằng gạch đỏ; 01 lối đi vào từ cổng khoảng 30m
2
, làm
cùng thời điểm làm cổng; khoảng 10 cây mít, vanh từ 40 - 60cm (cây to); 5-6 cây
xoài, tán 4-5m (cây to); 6-7 cây bưởi, gồm cả cây to, cây nhỏ, cây to tán khoảng 4-
5m; 3-4 cây xoan, vanh khoảng 60cm; chuối khoảng 10 gốc. Toàn bộ các tài sản
gồm công trình và cây cối như anh trình bày là do vợ chồng anh tạo lập, con anh
và các anh em ruột của anh và mẹ anh không có đóng góp gì.
Đối với việc bà H trình bày năm 2013, mẹ anh và các anh chị em, trong đó
có cả anh thống nhất cắt chia cho bà H 200m
2
đất, gồm 100m
2
đất ở và 100m
2
đất
trồng cây lâu năm trong phần diện tích đất cấp cho “Hộ ông: Lê Văn H”, đã làm
Văn bản thỏa thuận đề ngày 17/9/2013 phân chia di sản thừa kế, có làm thủ tục
công chứng, chính quyền địa phương và huyện Sông Lô đã trích đo trên thực địa
nhưng văn bản không được thực hiện vì thiếu chữ ký của anh trai anh là ông Lê
Văn H (H1). Sau đó ông H đã ký nhưng do hợp đồng lập đã lâu nên Văn phòng
đăng ký đất đai huyện Sông Lô không đồng ý làm thủ tục tách đất và cấp giấy
chứng nhận QSDĐ mà yêu cầu về làm lại hợp đồng thỏa thuận lúc này thì anh
5
không ký lại nên không làm thủ tục tách đất cho bà H được. Việc bà H trình bày
nội dung như trên là không đúng, mẹ anh và các anh chị em trong gia đình chỉ
thống nhất cho bà H 100m
2
đất vườn, không có đất ở. Chữ ký trong Văn bản đề
ngày 17/9/2013 có chữ ký của anh là do tin tưởng là chị mình nên tại thời điểm đó
anh đã ký mà không đọc văn bản nên anh không biết là văn bản ghi 200m
2
, trong
đó có 100m
2
thổ cư và 100m
2
đất trồng cây lâu năm, dù trước đó bà H chỉ nói với
anh là cho bà H thêm 100m
2
đất trồng cây lâu năm (trước đây bố mẹ anh đã cho bà
H 192m
2
cũng được cắt ra từ phần diện tích đất của Hộ ông Lê Văn H. Bà H đã bán
cho ông Huy ở tổ dân phố L, thị trấn Tam Sơn).
Nay bà H yêu cầu buộc anh thực hiện Văn bản thỏa thuận đề ngày 17/9/2013
theo nguyện vọng của cụ H và các anh chị em trả lại cho bà diện tích đất 200m
2
,
(trong đó có 100m
2
đất thổ cư và 100m
2
đất trồng cây lâu năm). Anh không đồng ý
vì toàn bộ diện tích đất hiện nay anh đang sử dụng là của anh đã được cụ H và các
anh chị em ruột thống nhất cho anh từ năm 2009, anh đã đóng thuế và các nghĩa vụ
khác theo quy định của pháp luật và không có tranh chấp giáp ranh với các hộ liền
kề. Ngoài phần 720m
2
đất của anh được cụ H cho, diện tích theo đo đạc thực tế ngày
11/01/2023 là 861,4m
2
hiện nay vợ chồng anh đang sử dụng.
Trong quá trình giải quyết vụ án anh có yêu cầu phản tố, anh yêu cầu Tòa
án công nhận Văn bản cam kết chuyển nhượng đất làm nhà (đất ở) mà cụ Nguyễn
Thị H đã lập năm 2009 với nội dung cho anh 720m
2
đất gồm 200m
2
đất thổ cư và
520m
2
đất trồng cây lâu năm, có chiều dài 36m, chiều rộng 20m. Văn bản được
ông Nguyễn Văn T, tổ trưởng tổ dân phố và bà Nguyễn Thị T, cán bộ địa chính thị
trấn, ông Cao Văn C tổ phó tổ dân phố L chứng kiến và xác nhận và được Chủ tịch
ủy ban nhân dân thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô ký đóng dấu xác nhận.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Chu Hải Đ thuộc
Công ty Luật TNHH Hùng Phúc - Đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Phúc trình bày: Về nội
dung, quan điểm giải quyết vụ án, ông Đ đồng ý với ý kiến của anh M vừa trình
bày và không ai bổ sung nội dung gì thêm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cụ Nguyễn Thị H tại phiên tòa vắng
mặt nhưng trong quá trình giải quyết vụ án cụ trình bày: Cụ và chồng cụ là Lê Văn
Hoàn, sinh năm 1933 (chết năm 2001) sinh được 08 người con gồm: Lê Thị T, Lê
Thị P, Lê Văn G, Lê Văn H, Lê Thị H, Lê Kim C, Lê Văn M, Lê Văn M. Vợ chồng
cụ có tạo lập được tài sản là diện tích đất khoảng 1.632m
2
tại thửa số 66, tờ bản đồ
11, địa chỉ: tổ dân phố L, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên “Hộ ông Lê Văn H” (năm 2010 cụ đã cắt
6
cho con trai là Lê Kim C 320m
2
đất vườn). Anh C đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đứng tên anh C. Đây là đất của anh C, cụ không có ý kiến gì.
Đối với tài sản của vợ chồng cụ là diện tích đất hiện nay vợ chồng anh M đang
quản lý, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn đứng tên “Hộ ông: Lê Văn H”.
Năm 2013 do anh M chơi cờ bạc, thua và nợ nần nhiều tiền nên đã phải cầm cố
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên “Hộ ông Lê Văn H”. Do anh M
không có khả năng trả nợ, bị xã hội đen đe dọa nên cụ đã nói với bà H trả nợ cho
anh M, lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về thì cụ sẽ cắt một phần diện tích
đất là 200m
2
, trong đó có 100m
2
đất thổ cư và 100m
2
đất trồng cây lâu năm cho bà
H. Vì vậy mới hình thành sự việc ngày 17/9/2013, cụ và các con có lập văn bản
thỏa thuận cụ cắt một phần đất trong số diện tích đất của cụ cho bà H 200m
2
đất,
gồm 100m
2
đất ở và 100m
2
đất trồng cây lâu năm trong phần diện tích đất cấp cho
“Hộ ông: Lê Văn H”. Tuy nhiên quá trình giải quyết, hoà giải sau này và tại cấp
phúc thẩm, cụ H cho rằng không có nội dung sự việc trên, không có việc anh H
đem bìa đỏ đi cắm, hay cụ nhờ bà H đi chuộc về và bà không đồng ý cho bà H diện
tích đất 200m
2
, trước đây cụ đã cho bà H, bà H bán đi rồi.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Ph và bà Lê Thị T
tại phiên tòa vắng mặt nhưng trong quá trình giải quyết vụ án các bà trình bày:
Theo các bà được biết năm 2013, có nội dung sự việc, cụ H cùng các anh chị em
trong gia đình đều thống nhất cắt chia cho bà H 200m
2
, gồm 100m
2
đất ở và 100m
2
đất trồng cây lâu năm, đã làm Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, đã làm
thủ tục công chứng, chính quyền địa phương và huyện Sông Lô đã trích đo trên
thực địa nhưng văn bản không được thực hiện vì thiếu chữ ký của em trai các bà là
ông H (hàng thừa kế thứ nhất của bố các bà). Sau đó ông H ra ký nhưng do hợp
đồng lập đã lâu nên Văn phòng đăng ký đất đai huyện Sông Lô không đồng ý cho
ký và yêu cầu về làm lại hợp đồng, đến lúc này thì em trai các bà là Lê Văn M
không ký lại nên không làm thủ tục tách đất cho bà H được. Bà H đã nhiều lần yêu
cầu anh M thực hiện trả đất cho bà H nhưng anh M không thực hiện. Lý do của
việc cho bà H đất là do bà H bỏ tiền ra chuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên bố các bà mà trước đó anh M do chơi bời, nợ nần mang đi cầm cố và
không trả được nợ và lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về nên mẹ các bà cụ
H van xin bà H bỏ tiền để chuộc GCNQSD đất về cứu gia đình. Lấy được giấy về
sẽ cắt cho bà H 200m
2
như trên. Nay các bà yêu cầu Tòa án công nhận thỏa thuận
trên của cụ H để cắt trả cho bà H 200m
2
đất. Nếu không được, các bà đề nghị chia
7
thừa kế toàn bộ diện tích đất của bố các bà để lại, chia theo pháp luật. Nếu được
chia các bà cho bà H phần bà được hưởng bằng đất.
Đối với yêu cầu phản tố của anh Lê Văn M yêu cầu công nhận biên bản họp
gia đình và cam kết chuyển nhượng đất làm nhà, các bà xác nhận các bà không biết
nội dung văn bản đề ngày 12/5/2009 và các bà không được tham gia, không biết
và không phải chữ ký của các bà. Do vậy các bà không chấp nhận toàn bộ nội dung
yêu cầu phản tố của anh M về việc công nhận biên bản trên.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn G tại phiên tòa vắng mặt
nhưng trong quá trình giải quyết vụ án ông trình bày: Ông đề nghị Tòa án giải
quyết theo nội dung đơn khởi kiện của bà H trả cho bà H 200m
2
đất gồm 100m
2
đất ở và 100m
2
đất trồng cây lâu năm theo Văn bản ngày 17/9/2013.
Đối với yêu cầu phản tố của anh M đề nghị công nhận biên bản họp gia đình
và cam kết chuyển nhượng đất làm nhà, ông xác nhận là mẹ ông cụ H có ký văn
bản đó nhưng mục đích ký là để anh M hoàn thiện thủ tục để đủ điều kiện được
Nhà nước hỗ trợ tiền làm nhà “Đại đoàn kết” cho hộ nghèo. Do vậy mục đích không
phải mẹ con ông cho anh M diện tích 720m
2
đất. Ông đề nghị giải quyết theo quy
định của pháp luật
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn H1 tại phiên tòa vắng
mặt nhưng trong quá trình giải quyết vụ án ông trình bày: Bố, mẹ ông khi còn
sống có tạo lập được tài sản là diện tích đất là khoảng hơn Nay bà H yêu cầu anh
M thực hiện văn bản chia di sản thừa kế đề ngày 17/9/2013 trả cho bà H diện tích
đất 200m
2
, gồm 100m
2
đất ở và 100m
2
đất trồng cây lâu năm cho bà H, ông đề
nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của bà H chia di sản thừa kế vì diện tích
đất anh M đang sử dụng, anh M đã được bố, mẹ ông cho và được sự đồng ý của
các anh em trong nhà, anh M đã sử dụng lâu dài nên là của anh M. Đối với việc
bà H cầm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên “Hộ ông: Lê Văn H”, là
do anh M chơi bời nợ nần không trả được nên bà H trả hộ anh M đây là việc riêng
của anh M và bà H không liên quan đến tài sản của bố, mẹ ông.
Đối với yêu cầu phản tố của anh Lê Văn M yêu cầu công nhận biên bản họp
gia đình và cam kết chuyển nhượng đất làm nhà ngày 12/5/2009, ông xác nhận mẹ
ông cụ H có ký văn bản cho anh M diện tích 720m
2
. Ông và một số người có mặt
có ký biên bản họp gia đình. Nay ông đề nghị công nhận biên bản cụ H cho anh M
đất làm nhà.
Tại phiên tòa ông Lê Văn M vắng mặt nhưng trong quá trình giải quyết vụ án
trình ông bày như sau: Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H, ông đề nghị
8
giải quyết trả cho bà H 200m
2
đất gồm 100m
2
đất ở và 100m
2
đất trồng cây lâu năm
theo Văn bản thoả thuận phân chia mà mẹ và các anh chị em của ông đã ký ngày
17/9/2013. Nếu chia di sản thừa kế của bố ông theo pháp luật ông đề nghị được lấy
bằng hiện vật là đất. Ông xin chịu toàn bộ án phí, chi phí tố tụng trên kỷ phần mà
ông được hưởng.
Đối với yêu cầu phản tố của anh Lê Văn M yêu cầu công nhận biên bản họp
gia đình và cam kết chuyển nhượng đất làm nhà, ông xác nhận ông không biết nội
dung văn bản đề ngày 12/5/2009 và không phải chữ ký của ông. Do vậy ông không
chấp nhận toàn bộ nội dung yêu cầu phản tố của anh M về việc công nhận biên bản
trên.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Kim C tại phiên tòa vắng mặt
nhưng trong quá trình giải quyết vụ án ông trình bày: Ông thừa nhận về nội dung
bà H trình bày sự việc xảy ra năm 2013 là đúng. Khi đó, do anh M chơi bời, nợ
tiền không trả được nên phải cầm cố giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên
“Hộ ông: Lê Văn H”, bà H đứng ra trả thay nên bà H cầm giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất từ đó. Đồng thời, ngày 17/9/2013, cụ H và các anh em trong gia đình
ông đã làm Văn bản thỏa thuận cụ H là mẹ đẻ ông cắt cho bà H 200m
2
, gồm 100m
2
đất ở và 100m
2
đất trồng cây lâu năm, đã làm Văn bản thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế, đã làm thủ tục công chứng, chính quyền địa phương và huyện Sông Lô đã
trích đo trên thực địa nhưng văn bản không được thực hiện vì thiếu chữ ký của em
trai ông là ông Hột. Sau đó ông H ra ký nhưng do hợp đồng lập đã lâu nên Văn
phòng đăng ký đất đai huyện Sông Lô không đồng ý cho ký và yêu cầu về làm lại
hợp đồng, đến lúc này thì ông là Lê Văn M không đồng ý ký nên không làm thủ
tục tách đất cho bà H được. Bà H và anh em đã nhiều lần yêu cầu anh M thực hiện
văn bản chia di sản thừa kế trả cho bà H diện tích đất mà cụ H đã cho bà H nhưng
anh M không thực hiện. Ông đề nghị Tòa án giải quyết theo nội dung Văn bản thỏa
thuận này.
Đối với yêu cầu phản tố của anh Lê Văn M yêu cầu công nhận biên bản họp
gia đình cam kết chuyển nhượng đất làm nhà, ông xác nhận là mẹ ông có ký văn
bản đó nhưng mục đích ký là để anh M hoàn thiện thủ tục để đủ điều kiện được
Nhà nước hỗ trợ tiền làm nhà Đại đoàn kết cho hộ nghèo. Do vậy mục đích không
phải để cắt đất cho anh M làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu chia di sản
thừa kế của bố ông theo pháp luật ông đề nghị được lấy bằng hiện vật là đất.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hà Thị Đ trình bày như sau: Chị
kết hôn với anh M năm 2002, chị ở trên diện tích đất đứng tên “Hộ ông: Lê Văn
9
H” từ đó đến nay. Quá trình sinh sống, chị và anh M đã làm nhà, công trình, trồng
cây trên đất như biên bản thẩm định và đóng thuế, nghĩa vụ tài chính cho Nhà nước
đầy đủ. Nay bà H yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng chị trả cho bà H 200m
2
gồm
100m
2
đất ở và 100m
2
đất trồng cây lâu năm, chị hoàn toàn không đồng ý, chị đề
nghị tòa án giải quyết theo quan điểm của chồng chị.
Nguyền có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Hữu C quá trình giải quyết
vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm trình bày: Ông là công chứng viên – nguyên Trưởng
văn phòng công chứng Sông Lô, trụ sở tại Tổ dân phố L, thị trấn Tam Sơn, huyện
Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 17/9/2013 ông có thực hiện việc công chứng Văn
bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 967.09.2013/VBPCDSTK, quyển số:
01/SCC-HĐGD-CCSL. Việc công chứng thực hiện tại Văn phòng công chứng
Sông Lô, trụ sở khi đó ở thôn H, xã Nhạo Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
Khi thực hiện việc công chứng đã thực hiện theo đúng quy định của Luật công
chứng. Khi công chứng có những người đến có mặt tại Văn phòng công chứng, lập
văn bản, ký tên, điểm chỉ vào văn bản trước sự chứng kiến của công chứng viên
với nội dung cụ Nguyễn Thị H, ông Lê Văn M, ông Lê Văn M, bà Lê Thị P, ông
Lê Bá G, Lê Kim C, bà Lê Thị T thỏa thuận chia di sản thừa kế diện tích đất đứng
tên “Hộ ông Lê Văn H”, tại thửa số 66, tờ bản đồ số 11, với tổng diện tích có, còn
trong giấy chứng nhận là 1.312m
2
. Trong đó có 200m
2
đất ở và 1.112m
2
đất trồng
cây lâu năm. Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, cho bà Lê Thị H 100m
2
đất ở và
100m
2
đất trồng cây lâu năm. Sau khi ký công chứng, điểm chỉ và làm các thủ tục
xong một thời gian thì Văn phòng phát hiện trong hàng thừa kế của cụ Hoàn còn
thiếu ông Lê Văn H1 (tức Hột) nên Văn phòng Công chứng Sông Lô đã tiến hành
xác minh tại UBND thị trấn Tam Sơn ngày 14/8/2014, xác định ông H1 là con của
cụ H và cụ H nên Văn bản đó thiếu ông Lê Văn H1 trong Văn bản phân chia di sản
là đúng. Do vậy Văn phòng công chứng đã làm văn bản thu hồi Văn bản phân chia
di sản thừa kế ngày 17/9/2013 và yêu cầu gia đình đến làm văn bản hủy Văn bản
thỏa thuận nhưng những người đã ký vào Văn bản phân chia di sản thừa kế không
đồng ý ký hủy, không đến văn phòng công chứng. Do đó Văn bản phân chia di sản
thừa kế ngày 17/9/2013 không đủ điều kiện nên không có hiệu lực. Sau đó Văn
phòng hướng dẫn bà H ra Tòa án để thực hiện việc khởi kiện theo quy định cuả pháp
luật.
Nay bà H nộp Văn bản phân chia di sản thừa kế đề ngày 17/9/2013 làm căn
cứ khởi kiện. Sau khi xem Văn bản, ông xác nhận văn bản trên là đúng văn bản đã
được ông công chứng nhưng sau đó đã bị thu hồi nhưng không thu hồi được và ông
10
xác nhận khi ký, điểm chỉ tại Văn phòng công chứng Sông Lô thì không có mặt ông
Lê Văn H1 ký, điểm chỉ vào Văn bản vì ông H1 không có tên trong thành phần ký
văn bản vì khi đó ông H1 không có mặt. Do vậy chữ ký, chữ viết Lê Văn H1 ký thời
điểm nào, do ai ký ông không biết. Sau khi ra Thông báo thu hồi Văn bản phân chia
di sản thừa kế ngày 17/9/2013 Văn phòng công chứng đã gửi Thông báo thu hồi cho
những người thừa kế đã ký tên trong Văn bản phân chia di sản thừa kế ngày
17/9/2013 nhưng những người này không nhận thông báo và không ký Văn bản hủy
nên không hủy được và chỉ làm thủ tục thu hồi. Quá trình giải quyết vụ án ông đã
nhận được quyết định của Tòa án nhân dân huyện Sông Lô yêu cầu ông giao nộp
Thông báo thu hồi Văn bản phân chia di sản thừa kế ngày 17/9/2013 nhưng ông chưa
giao nộp được vì sau khi Văn phòng công chứng Sông Lô không hoạt động, theo chỉ
đạo của Sở tư pháp thì các tài liệu của Văn phòng công chứng Sông Lô được chuyển
đến lưu trữ tại Phòng công chứng số 1 tỉnh Vĩnh Phúc.
Quá trình giải quyết, Tòa án sơ thẩm đã xác minh tại UBND thị trấn Tam Sơn,
địa phương cung cấp như sau: Theo sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
năm 2001 thể hiện Giấy chứng nhận QSD đất số R638446 vào số cấp giấy chứng
nhận QSDĐ số 00369 QSDD-76.QĐ.UB.H chủ sử dụng đất “Hộ ông: Lê Văn
Hoàn”, số thửa 66 thửa, tờ bản đồ số 11, diện tích 1.312m
2
(200 m
2
đất ở 1.112m
2
đất vườn địa chỉ, tổ dân phố L, thị trấn Tam Sơn.
Theo bản đồ đo vẽ 299 gồm 03 thửa của ba hộ có tổng diện tích là 2.060m
2
(hộ ông Hoàn 1.632m
2
, hộ ông Lê Văn H1 360m
2
, hộ bà Lê Thị H 192m
2
).
Theo sổ mục kê quyển tờ bản đồ số 11, số thửa 66 diện tích là 1632m
2
(200
m
2
đất ở 1.112m
2
đất trồng cây lâu năm).
Theo đo đạc thực tế ngày 11/01/2023 của Công ty cổ phần và tư vấn đo đạc
Tam Dương diện tích đất trên là 861,4m
2
.
Ngoài ra địa phương cung cấp, vào khoảng năm 2013 cụ H và các con gồm:
Ông M, ông M, bà P, bà T, ông G, ông C có Văn bản thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế với nội dung cắt đất cho bà H 200m
2
từ diện tích tại thửa 66, tờ bản đồ số
11, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên “Hộ ông Lê Văn H”. Sau khi ký
Văn bản thỏa thuận, bà Lê Thị H đã ra Phòng địa chính thị trấn Tam Sơn, huyện
Sông Lô để làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho diện tích đất
này. Cán bộ địa chính thị trấn đã thẩm định đo vẽ trên thực địa và hoàn thiện thủ
tục để chuyển đến Văn phòng Đăng ký đất đai chi nhánh Sông Lô để cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H nhưng sau đó gia đình xảy ra mâu thuẫn
nên việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H không thực hiện
11
được. Đối với việc anh Lê Văn M trình bày năm 2009 anh đã được cụ Nguyễn Thị
H chuyển nhương cho anh 720m
2
đất có xác nhận của chính quyền địa phương là
lý do làm thủ tục chuyển nhượng để anh M có đủ điều kiện được Nhà nước hỗ trợ
tiền làm nhà Đại đoàn kết ngoài ra không làm thủ tục gì khác từ khi đó đến nay
chưa làm mọi thủ tục hồ sơ liên quan đến việc chuyển nhượng đối với diện tích
720m
2
đất tại thửa 66, tờ bản đồ số 11.
Ủy ban nhân dân thị trấn Tam Sơn không
có lưu Thông báo thu hồi Văn bản phân chia di sản thừa kế ngày 17/9/2013 của
văn phòng công chứng Sông Lô.
Tòa án nhân dân huyện Sông Lô tiến hành xác minh tại Phòng công chứng
số 1 tỉnh Vĩnh Phúc đã cung cấp là theo các quyết định của Sở tư pháp tỉnh Vĩnh
Phúc và Thông báo số 179/STP về việc giao Phòng công chứng số 1 tỉnh Vĩnh
Phúc tiếp nhận và lưu trữ hồ sơ công chứng của Phòng công chứng Sông Lô. Đối
với hồ sơ công chứng Văn bản phân chia di sản thừa kế ngày 17/9/2013 không có
lưu tại Phòng công chứng số 1 tỉnh Vĩnh Phúc vì khi bàn giao hồ sơ, Phòng công
chứng Sông Lô không bàn giao hồ sơ trên. Do vậy Thông báo thu hồi Văn bản
phân chia di sản thừa kế ngày 17/9/2013 cũng không có.
Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Sông Lô không có lưu Thông báo thu
hồi Văn bản phân chia di sản thừa kế ngày 17/9/2013
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2024/DS- ST ngày 05 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều
158, Điều 165, Điều 166, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều
108, 109, 122, 127, 134, 168 và Điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005; Các Điều 117,
122, 124, 422 Bộ luật dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Lê Thị H về việc yêu cầu
ông Lê Văn M thực hiện văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế đề ngày
17/9/2013 và trả cho bà diện tích đất 200m
2
(trong đó diện tích 100m
2
đất ở và
100m
2
đất vườn) tại tổ dân phố L, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh
Phúc. (có sơ đồ chi tiết kèm theo).
Không chấp nhân yêu cầu phản tố của anh Lê Văn M yêu cầu công nhận
biên bản họp gia đình và cam kết chuyển nhượng đất làm nhà (đất ở) năm 2009.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo của
các đương sự.

12
Ngày 18/9/2024, nguyên đơn bà Lê Thị H kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm
sửa Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà.
Ngày 19/9/2024, bị đơn anh Lê Văn M kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm sửa
Bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu phản tố của anh.
Ngày 07/10//2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
kháng nghị theo hướng sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 17/2023/DS-ST
ngày 05 tháng 9 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện
và nội dung kháng cáo. Bị đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Kiểm sát viên đại
diện cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc rút kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ
án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, Thẩm
phán và các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
trong quá trình giải quyết. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã
thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm.
- Về việc giải quyết vụ án:
+ Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bà nguyên đơn và bị đơn.
+ Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 17/2024/DS- ST ngày 05 tháng 9
năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã
rút nên Hội đồng xét xử không xem xét
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn, thấy rằng:
Xét về nguồn gốc diện tích đất 861,4m
2
theo đo đạc thực tế ngày 11/01/2023
tại thửa số 66, tờ bản đồ số 11 tại tổ dân phố L, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô,
tỉnh Vĩnh Phúc mang tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên “Hộ
ông: Lê Văn H” có diện tích 1.312 m
2
. Quá trình giải quyết vụ án tất cả các đương
sự đều thừa nhận diện tích đất đang tranh chấp là tài sản chung của cụ Lê Văn H
và cụ Nguyễn Thị H. Cụ Hoàn đã chết năm 2001 nên việc định đoạt thửa đất phải
được sự đồng ý của cụ H và các đồng thừa kế.
13
Ngày 17/9/2013 cụ H và 7 người con (vắng mặt ông Lê Văn H1 ) ra Văn
phòng công chứng lập Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế với nội dung
cho bà H 200m
2
đất (gồm 100m
2
đất ở và 100m
2
đất trồng cây lâu năm). Sau đó
Phòng công chứng Sông Lô phát hiện thiếu thành phần là ông H1 nên Phòng công
chứng Sông Lô đã ra Thông báo thu hồi Văn bản phân chia di sản ngày 17/9/2023.
Xét về bản chất giao dịch này là tặng cho quyền sử dụng đất và có hiệu lực khi bà
H đã đăng ký sang tên nhưng đến nay người tặng cho là cụ H, anh M, anh H1 thay
đổi ý kiến không đồng ý cho bà H và Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
do thiếu thành phần đã bị thu hồi nên không đủ căn cứ để xem xét mặc dù đến thời
điểm này bà T, bà P, ông C, ông Giáp, ông M là hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hoàn
vẫn đề nghị thực hiện Văn bản phân chia di sản đề ngày 17/9/2023 để cho bà H
200m
2
đất. Nếu văn bản không bị thu hồi thì có thể được xem xét về việc Văn bản
vô hiệu theo phần đối với phần của cụ H, anh M và anh H1 nhưng có hiệu lực đối
với kỷ phần của bà , bà P ông C, ông G, ông M để chia cho bà H phần diện tích bà
H, bà T, bà P, ông C, ông G, ông M được hưởng thừa kế theo pháp luật của cụ H
và đồng ý cho bà H. Nhưng do Văn bản đã bị thu hồi nên yêu cầu khởi kiện của bà
H về việc yêu cầu thực hiện Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế và đòi
diện tích đất cụ H cho là không có căn cứ nên không được chấp nhận. Do vậy về
di sản của cụ H để lại những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ H nếu có
đơn đề nghị giải quyết bằng vụ án khác. Vì vậy, cấp sơ thẩm không chấp nhận đơn
khởi kiện của bà H là có căn cứ. Do đó kháng cáo của nguyên đơn không được
chấp nhận.
Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bà H chỉ đề nghị Tòa án giải quyết yêu
cầu thực hiện văn bản phân chia thừa kế. Đối với số tiền 200.000.000 đồng bà H
trình bày đã trả nợ thay cho anh M, nhưng anh M không thừa nhận và tại phiên tòa
bà H cũng không đề nghị giải quyết trong vụ án này. Do vậy nếu bà H có đơn yêu
cầu thì giải quyết bằng vụ án khác.
Xét kháng cáo của anh M, đề nghị chấp nhận yêu cầu phản tố của anh M về
việc công nhận Văn bản cam kết chuyển nhượng đất làm nhà (đất ở) vì anh cho
rằng mẹ anh là cụ H và các anh em đã cho anh 720m
2
đất tại thửa 66, tờ bản đồ số
11.
Anh Lê Văn M cho rằng ngày 12/5/2009, cụ H đã tổ chức họp gia đình để
phân chia đất thổ cư và được lập Biên bản họp gia đình về việc phân chia đất thổ
cư, biên bản họp gia đình đã phân chia cho anh M được quyền sử dụng 720m
2
đất
(trong đó có 200 m
2
đất ở + 520 m
2
đất vườn), thửa đất có chiều dài 36 m, chiều
14
rộng 20 m
2
. Biên bản họp gia đình có chữ ký của cụ H và các anh chị em của anh
Mạc có mặt tại cuộc họp, còn các anh chị em của anh M không có mặt tại cuộc họp
thì đã được các anh chị em khác có mặt ký thay. Ngoài ra, anh M còn cho rằng
cùng ngày 12/5/2009, cụ H đã có văn bản cam kết chuyển nhượng đất làm nhà (đất
ở) cho anh M 720 m
2
đất, thửa đất có chiều dài là 36 m, chiều rộng là 20 m. Như
vậy, bản thân anh M cũng thừa nhận Biên bản năm 2009 không đầy đủ thành phần,
có nhiều người ký thay.
Các bà Lê Thị P, bà Lê Thị T, ông Lê Văn G, ông Lê Văn M, ông Lê Văn C
đều khẳng định không biết nội dung văn bản đề ngày 12/5/2009 và các ông bà
không được tham gia, không biết và không phải chữ ký của các ông, bà nên các
ông bà không chấp nhận toàn bộ nội dung yêu cầu phản tố của anh M về việc công
nhận biên bản ngày 12/5/2009 có hiệu lực pháp luật. Tòa án xác minh tại địa
phương và ông Lê Văn G, ông Lê Kim C đều xác nhận cụ H có ký vào văn bản
ngày 12/5/2009 nhưng mục đích ký là để anh M hoàn thiện thủ tục để đủ điều kiện
được Nhà nước hỗ trợ tiền làm nhà “Đại đoàn kết” cho hộ nghèo chứ không phải
mục đích chuyển nhượng cho anh M để sở hữu diện tích đất tại thửa 66, tờ bản đồ
số 11, địa chỉ tổ dân phố L, thị trấn Tam Sơn. Do vậy, mục đích không phải cụ H
cho anh M diện tích đất 720 m
2.
Mặt khác, nếu cụ H cho anh M thì cũng vượt quá
phần tài sản thuộc quyền sở hữu của cụ H (Tổng diện tích còn lại là 861,4m
2
nhưng
cụ H đã cho 720m
2
), cụ H không có quyền quyết định cho anh M cả phần tài sản
(đất) của cụ Hoàn mà không có sự đồng ý của các con của cụ H và cụ H. Việc cụ
H cho đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đồng thừa kế khác. Tính đến thời
điểm ngày 17/9/2023 anh M vẫn chưa thực hiện được việc đăng ký biến động, chưa
được cấp giấy chứng nhận QSD đất đối với diên tích đất 720 m
2
. Căn cứ vào sự
thừa nhận của anh M cũng như các anh, chị em của anh M như trên có thể khẳng
định không có cuộc họp gia đình ngày 12/5/2009, nội dung cuộc họp không phản
ánh đúng ý trí, nguyện vọng của những người có quyền định đoạt tài sản nên văn
bản ngày 12/5/2009 không có hiệu lực pháp luật.
Do vậy cấp sơ thẩm không chấp nhận đối với yêu cầu phản tố của anh M
công nhận giao dịch tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ H và anh M ngày
12/5/2009 là phù hợp và có căn cứ nên kháng cáo của anh M không được Hội đồng
xét xử không chấp nhận.
Từ những phân tích và nhận định trên Hội đồng xét xử nhận thấy không chấp
nhận kháng cáo của bà H và kháng nghị của VKS và của ông M. Cần giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
15
Đối với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là bà Lê
Thị P, ông Lê Văn M, ông Lê Văn C, bà Lê Thị T, ông Lê Văn G nếu có yêu cầu
chia di sản chia thừa kế của cụ Lê Văn H thì khởi kiện giải quyết bằng vụ án khác.
[5]. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Do Hội đồng
xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H nên bà Lê Thị H phải chịu toàn
bộ.
[6]. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa là có căn cứ,
nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7]. Về án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm: Bà H và anh Lê Văn M phải
chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều
158, Điều 165, Điều 166, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều
108, 109, 122, 127, 134, 168 và Điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005; Các Điều 117,
122, 124, 422 Bộ luật dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
1/ Xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Lê Thị H về việc yêu cầu
ông Lê Văn M thực hiện văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế đề ngày
17/9/2013 và trả cho bà diện tích đất 200m
2
(trong đó diện tích 100m
2
đất ở và
100m
2
đất vườn) tại tổ dân phố L, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh
Phúc. (có sơ đồ chi tiết kèm theo).
Không chấp nhân yêu cầu phản tố của anh Lê Văn M yêu cầu công nhận
biên bản họp gia đình và cam kết chuyển nhượng đất làm nhà (đất ở) năm 2009.
2/ Về chi phí tố tụng: Bà Lê Thị H phải chịu 6.700.000đ (sáu triệu bảy trăm
nghìn đồng) tiền xem xét thẩm định và định giá tài sản. Bà H đã nộp đủ chi phí tố
tụng.
3/ Về án phí: Bà Lê Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng). Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp
5.000.000đồng (Năm triệu đồng) theo biên lai số 0002418 ngày 05/5/2022 tại Chi
cục thi hành án dân sự huyện Sông Lô. Trả lại bà H số tiền tạm ứng án phí là
4.700.000 đồng (Bốn triệu bảy trăm nghìn đồng).
Về án phí yêu cầu phản tố: Anh M phải chịu án phí là 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh M đã nộp là
16
300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số số 0002526 ngày 07/9/2022
của Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Lô. Anh M đã nộp đủ.
Án phí phúc thẩm: Bà Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng). Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001005 ngày 24/9/2024 tại Chi cục thi hành án
dân sự huyện Sông Lô.
Anh M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ vào số
tiền tạm ứng án phí. Anh M đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên
lai số 0001003 ngày 19/9/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Lô
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- TAND huyện Sông Lô;
- VKSND huyện Sông Lô;
- Chi cục THADS huyện Sông Lô
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 07/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm