Bản án số 346/2025/DS-PT ngày 05/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 346/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 346/2025/DS-PT ngày 05/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tiền Giang
Số hiệu: 346/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Giữ nguyên bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 346/2025/DS-PT
Ngày: 05 - 6 - 2025
V/v tranh chấp “Hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, hủy nội dung chỉnh
biến động và công nhận quyền
sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Lưu Thị Thu Thủy
Các Thẩm phán: Ông Võ Thanh Bình
Lâm Ngọc Tuyền
- Thư phiên tòa: Ông Minh Thắm Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Cẩm Thúy - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 679/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng 12
năm 2024 về việc tranh chấp “Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
hủy nội dung chỉnh lý biến động và công nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm s164/2024/DS-ST ngày 17 tháng 7 năm 2023
của Toà án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 710/2024/QĐ-PT ngày
26 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Anh Nguyễn Thanh B, sinh năm 1980.
Hộ khẩu thường trú: A N, Phường B, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chỗ ở hiện nay: 1416 Huỳnh Thị D, ấp T, xã L, huyện C, tỉnh Long An.
1.2. Chị Phan Thị Thùy D1, sinh năm 1983.
Địa chỉ: B đường Đ phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chỗ ở hiện nay: 1416 Huỳnh Thị D, ấp T, xã L, huyện C, tỉnh Long An.
2
- Người đại diện theo ủy quyền của chị D1: Anh Nguyễn Thanh B, sinh
năm 1980. (theo Văn bản uỷ quyền ngày 02/4/2021).
Địa chỉ: A N, Phường B, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chỗ ở hiện nay: 1416 Huỳnh Thị D, ấp T, xã L, huyện C, tỉnh Long An.
2. Bị đơn:
2.1. Anh Trịnh Thái B1, sinh năm 1985.
Địa chỉ: A đường Q, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. Bà Ngô Thị H, sinh năm 1988.
Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Văn phòng C2.
Đại diện theo pháp luật: Bà Đoàn Thị Ngọc B2 Trưởng Văn phòng.
Địa chỉ: Khu phố H, thị trấn T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
4. Người làm chứng:
4.1. Ông Bùi Văn C, sinh năm 1968.
Địa chỉ: Ấp H, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
4.2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1967.
Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
4.3. Bà Trần Thị T1, sinh năm 1972.
Địa chỉ: Số A, Quốc lộ A, Khu phố A, phường T, quận B, Thành phố Hồ
Chí Minh.
5. Người kháng cáo: Nguyên đơn - Anh Nguyễn Thanh B.
(Có mặt anh B, anh B1 và chT1. Những người còn lại vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo Bản án sơ thẩm;
- Nguyên đơn, anh Nguyễn Thanh B đồng thời đại diện ủy quyền của chị
Phan Thị Thùy D1 trình bày:
Ngày 21/6/2018, vợ chồng anh thỏa thuận chuyển nhượng của Ngô
Thị H thửa đất số 635, tờ bản đồ 50, diện tích 431,9m
2
, đất trồng cây lâu năm tại
ấp C, T, huyện G, tỉnh Tiền Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CH03470 ngày 31/12/2014 của Ủy ban nhân dân huyện G cấp cho N
Thị H. Giá thỏa thuận 103.656.000 đồng anh đặt cọc số tiền 3.000.000
đồng.
Ngày 28/01/2019, hai bên tiến hành ký hợp đồng chuyển nhượng tại Phòng
C3, nhưng vợ chồng anh để cho anh Trịnh Thái B1 đứng tên trong hợp đồng
vợ chồng anh vay của anh B1 720 triệu, lãi suất 5%/tháng để thanh toán tiền
mua đất của nhiều người trong đó có bà Ngô Thị H và đóng tiền thuế lên thổ cư.
3
Vợ chồng anh đã thanh toán cho Ngô Thị H số tiền 103.656.000 đồng
nhiều lần vào các ngày 21/6/2018 đặt cọc 3.000.000 đồng; ngày 15/01/2019 trả
50.000.000 đồng; ngày 28/01/2019 trả 50.000.000 đồng ngày 07/4/2019 trả
656.000 đồng.
Sau đó, anh Trịnh Thái B1 làm giấy bán lại cho anh các thửa đất anh đã
mua với stiền 1.152.000.000.000 đồng gồm tiền vốn và tiền lãi của 12 tháng
với mức lãi suất 5%/tháng, nhưng vợ chồng anh không đồng ý nên không
tên.
Trước khi vay tiền (trước ngày 15/01/2019) thì vợ chồng anh không biết
anh Trịnh Thái B1, nhưng qua s giới thiệu của ông Nguyễn Văn N nên vợ
chồng anh vay tiền của anh B1. Sau khi vay được 01 tháng thì vợ chồng anh
thương lượng trả tiền cho anh B1 nhưng anh B1 không đồng ý yêu cầu anh
trả 06 tháng tiền lãi của số tiền 720 triệu là 216.000.000 đồng, nhưng anh không
đồng ý nộp đơn khởi kiện tại Tòa án. Ngày 27/9/2019 vợ anh Phan Thị
Thùy D1 qua thương lượng với anh B1 thì xảy ra xát, nguyên nhân do
anh B1 đòi tiền lãi 01 năm cộng tiền vốn 1.152.000.000 đồng, Công an
phường T, quận B đã mời làm việc. Đến tháng 4 năm 2020, thì anh B1 đòi anh
trả tiền gốc, lãi là 03 tỷ đồng nhưng anh không đồng ý.
Sau khi đặt cọc mua đất, thì anh bỏ stiền 28.000.000 đồng để đền
cho ông Nguyễn Văn T do ông T đang thuê đất của H và 05 người khác để
nuôi dê, tiền chuồng cây so đũa trên đất. Khi làm hợp đồng chuyển
nhượng công chứng thì chỉ ghi giá chuyển nhượng trong 06 hợp đồng là
20.000.000 đồng. Anh là người trực tiếp quản lý, sử dụng 06 thửa đất tranh chấp
từ tháng 6/2018 cho đến nay. Anh đã trồng một số cây ăn trái nhưng anh B1 cho
người xuống nhổ bỏ vào tháng 8/2020.
Nay, anh và chị Phan Thị Thùy D1 yêu cầu:
+ Hủy hợp đồng công chứng về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa chị H anh B1 đối với thửa đất số 635, diện tích 431,9m
2
loại đất trồng
cây lâu năm, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số BP 943285, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận số
CH03470 được UBND huyện G cấp ngày 31/12/2014 cho chị Ngô Thị H, cập
nhật biến động ngày 14/08/2018 theo hồ s003470.CN.001, cập nhật biến
động chuyển nhượng quyền sử dụng sang tên anh Trịnh Thái B1 ngày
25/03/2019 theo hồ số 003470.CN.002, tọa lạc tại ấp C, T, huyện G, tỉnh
Tiền Giang kí ngày 28/01/2019 tại Văn phòng C2, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
+ ng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sBP 943285, số vào sổ
cấp Giấy chứng nhận số CH03479 được UBND huyện G cấp ngày 31/12/2014,
cập nhật biến động ngày 14/08/2018 theo hồ sơ s003470.CN.001 thuộc tờ bản
đồ số 50, tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang cho anh B, chị D1.
+ Hủy cập nhật biến động chuyển quyền sdụng đất ngày 25/3/2019 cho
ông Trịnh Thái B1 theo hồ sơ số 003470.CN.002 đối với thửa đất số 635, tờ bản
4
đồ số 50, diện tích 431,9m
2
, loại đất trồng cây lâu năm, theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu ntài sản khác gắn liền với đất số BP
943285, số vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH03470 được UBND huyện G cấp
ngày 31/12/2014 cho Ngô Thị H, đất tọa lạc tại ấp C, T, huyện G, tỉnh
Tiền Giang.
- Bị đơn, anh Trịnh Thái B1 trình bày:
Năm 2019, anh B1 nhu cầu tìm mua đất khu vực huyện G để đầu tư.
Nắm bắt được thông tin về nhu cầu của anh B1, ông Nguyễn Thanh B gọi điện
thoại chào mời anh B1 mua các thửa đất khu vực T, huyện G. Ông
Nguyễn Thanh B chủ động liên hệ anh để chào mời anh mua các thửa đất là:
1/ Ngô Thị H, sinh năm 1988 chủ quyền sử dụng đất thửa 635, tờ bản
đồ 50; diện tích 431,9 m
2
; loại đất trồng cây lâu năm, thuộc Giấy chứng nhận
quyền sdụng đất quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất số BP943285
số vào sổ cấp GCN CH03470 do UBND huyện G cấp ngày 31/12/2014
những thay đổi sau khi cấp Giấy chứng nhận ngày 14/8/2018. Địa chỉ thửa đất
tại ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
2/ Ông NVăn C1, sinh năm 1955 chủ quyền sử dụng đất thửa 631, tờ
bản đồ 50; diện tích 495,7 m
2
; loại đất trồng cây lâu năm, thuộc Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất số
BP844033 số vào sổ cấp GCN CH00306 do UBND huyện G cấp ngày
01/6/2015 những thay đổi sau khi cấp Giấy chứng nhận ngày 17/8/2018. Địa
chỉ thửa đất tại ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
3/ Ngô Thị H1, sinh năm 1978 chủ sử dụng đất thửa 154, tbản đồ 50;
diện tích 960,3 m
2
; loại đất trồng cây lâu năm, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất số BP954620 số vào sổ
cấp GCN CH04309 do UBND huyện G cấp ngày 31/12/2014. Địa chỉ thửa đất
tại ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
4/ Ngô Thị H2, sinh năm 1974 chủ sử dụng đất thửa 177, tbản đồ 50;
diện tích 988,7 m
2
; loại đất trồng cây lâu năm, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất số BP943291 số vào sổ
cấp GCN CH03446 do UBND huyện G cấp ngày 31/12/2014. Địa chỉ thửa đất
tại ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
5/ Ông NVăn H3, sinh năm 1976 chủ quyền sử dụng đất thửa 637, tờ
bản đồ 50; diện tích 463,5 m
2
; loại đất trồng cây lâu năm, thuộc Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất số
BP943286 số vào sổ cấp GCN CH03461 do UBND huyện G cấp ngày
31/12/2014 những thay đổi sau khi cấp Giấy chứng nhận ngày 15/11/2017,
ngày 02/01/2018, ngày 17/8/2018. Địa chỉ thửa đất tại ấp C, T, huyện G, tỉnh
Tiền Giang.
6/ Ngô Thị Đ, sinh năm 1929 chủ quyền sử dụng đất thửa 430, tờ bản
đồ 50; diện tích 431,9 m
2
; loại đất trồng cây lâu năm, thuộc Giấy chứng nhận
quyền sdụng đất quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất số BP943292
5
số vào sổ cấp GCN CH03434 do UBND huyện G cấp ngày 31/12/2014
những thay đổi sau khi cấp Giấy chứng nhận ngày 10/01/2017, ngày 03/3/2017,
ngày 02/01/2018. Địa chỉ thửa đất tại ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
Với 06 phần đất mà anh nhận chuyển nhượng, ông B chào giá với anh
720.000.000 đồng. Anh B1 đồng ý mua và nói với ông B hẹn gặp tất cả các chủ
đất ngày 15/01/2019 ra công chứng tại Văn phòng C2.
Ngày 15/01/2019, tất cả 06 người chủ của 06 thửa đất anh B1 cùng ông
B đến Phòng công chứng thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên chỉ thực hiện được 03
hợp đồng giữa anh B1 Ngô Thị Đ, ông Ngô Văn C1, Ngô Thị H1, hồ
còn lại không đ thành phần nên không công chứng được hẹn lại ngày
28/01/2019 sẽ thực hiện.
Ngày 28/01/2019, công chứng được thêm 02 hợp đồng chuyển nhượng với
Ngô Thị H và Ngô Thị H2. Riêng hồ của Ngô Văn H3 không giấy chứng
minh hợp lệ, phải làm lại giấy chứng minh nhân dân nên ngày công chứng
ngày 25/02/2019.
Tại Phòng công chứng giao dịch hợp đồng đều anh B1 và chủ đất,
ông B. Khi thực hiện ký tên công chứng xong, anh B1 giao đủ tiền cho bên bán.
Số tiền cho từng hồ bao nhiêu thì anh không nhớ. Anh nhớ rằng tổng 06
hợp đồng chuyển nhượng này anh phải trả 720.000.000 đồng. Sau khi thực
hiện công chứng xong, anh B1 đi đăng ký đất và đã được cấp chủ quyền toàn bộ
06 thửa đất.
Anh B1 là người nhận chuyển nhượng và là người chủ quyền đối với 06
thửa đất nêu trên nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn
Thanh B Phan Thị Thùy D1. do, ông B D1 hoàn toàn không
chủ quyền cũng như không quyền lợi ích hợp pháp đối với các thửa đất
nêu trên. Anh B1 chỉ quen biết ông B người môi giới bán đất cho anh, không
có quan hệ vay tiền. Anh B1 và ông B không quen biết nhau từ trước, nên không
có việc anh B1 cho một người không quen biết vay tiền. Việc ông B cho rằng 06
hợp đồng nêu trên là hợp đồng giả cách là hoàn toàn không có cơ sở.
Nay, anh B1 yêu cầu Tòa án t xử: Không chấp nhận yêu cầu của ông
Nguyễn Thanh B và bà Phan Thị Thùy D1.
- Bị đơn, chị NThị H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố
tụng nhưng không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Văn phòng C4:
Khi chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 613, quyển
số 01/TP/CC/HĐGD, Công chứng viên của Văn phòng C2 không ghi nhận
thỏa thuận khác giữa các bên giao dịch và việc giao dịch là hoàn toàn tự nguyện,
hoàn toàn đúng quy định pháp luật.
- Người làm chứng, chị Trần Thị T1 trình bày:
Qua sự giới thiệu của ông Nguyễn Văn N (nay ông N đã chết) thì biết
đến anh Nguyễn Thanh B được biết anh B người mua bán đất đai, sau đó
6
T1 lại giới thiệu ông Nguyễn Thanh B cho anh Trịnh Thái B1 anh B1
nhu cầu mua đất đai. Sau khi xem sổ hồng của những thửa đất anh B giới
thiệu thì anh B1 biết anh B không phải là người đứng tên trên các sổ hồng đó, do
vậy anh B1 yêu cầu gặp, mua bán hợp đồng chuyển nhượng trực tiếp với
chủ đất tại Phòng Công chứng sự chứng kiến của anh B thì được anh B đồng
ý.
Toàn bộ 03 lần hợp đồng chuyển nhượng 06 thửa đất s148, 131, 154,
153, 177, 178 tại Phòng Công chứng thì đều ông Nguyễn Thanh B chứng
kiến. Sau khi hợp đồng chuyển nhượng đất được ký kết thì anh B1 đã giao đủ số
tiền mua bán đất như thỏa thuận cho các chủ đất. Việc mua bán đất giữa anh B1
và các chủ đất là hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.
- Người làm chứng, ông Bùi Văn C, ông Nguyễn Văn T và ông Nguyễn Văn
N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không có ý kiến gì
về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Bản án dân sự sơ thẩm số 164/2024/DS-ST ngày 17 tháng 7 năm 2023
của Toà án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang đã căn cứ: Điều 117, Điều 500,
Điều 501, Điều 502 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 40, Điều 41 Luật Công
chứng năm 2014; Điều 116, Điều 167, Điều 167 Luật Đất đai năm 2013;
Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thanh B
Phan Thị Thùy D1 về việc hủy hợp đồng công chứng về việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa chị H anh B1 đối với thửa đất số 635, diện tích
431,9m
2
loại đất trồng cây lâu năm, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP 943285, số vào sổ cấp
Giấy chứng nhận số CH03470 được UBND huyện G cấp ngày 31/12/2014 cho
chị Ngô Thị H, cập nhật biến động ngày 14/08/2018 theo hồ số
003470.CN.001, cập nhật biến động chuyển nhượng quyền sử dụng sang tên anh
Trịnh Thái B1 ngày 25/03/2019 theo hồ số 003470.CN.002, tọa lạc tại ấp C,
T, huyện G, tỉnh Tiền Giang ngày 28/01/2019 tại Văn phòng C2, huyện G,
tỉnh Tiền Giang.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Thanh
B chị Phan Thị Thùy D1 về việc hủy cập nhật biến động chuyển quyền sử
dụng đất ngày 25/3/2019 cho ông Trịnh Thái B1 theo hồ số 003470.CN.002
đối với thửa đất số 635, tờ bản đồ số 50, diện tích 431,9m
2
, loại đất trồng cây lâu
năm, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất số BP 943285, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận số
CH03470 được UBND huyện G cấp ngày 31/12/2014 cho bà Ngô Thị H, đất tọa
lạc tại ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Thanh
B chị Phan Thị Thùy D1 về việc công nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số BP 943285, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận số CH03470 được UBND huyện
7
G cấp ngày 31/12/2014, cập nhật biến động ngày 14/08/2018 theo hồ số
003470.CN.001 thuộc tờ bản đồ số 50, tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Tiền
Giang cho anh Nguyễn Thanh B và chị Phan Thùy D1.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo của
đương sự theo quy định.
* Ngày 27 tháng 7 năm 2023, anh Nguyễn Thanh B đơn kháng cáo
không đồng ý với quyết định của bản án thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử
lại vụ án theo đúng quy định pháp luật.
* Tại phiên tòa hôm nay:
- Nguyên đơn, anh Nguyễn Thanh B trình bày: Anh không đồng ý với
quyết định của Bản án sơ thẩm anh mới chính người nhận chuyển nhượng
thửa đất số 635 từ Ngô Thị H, hợp đồng bằng văn bản đã thanh toán
cho bà H 100% tiền chuyển nhượng, hiện anh là người đang trực tiếp quản lý, sử
dụng thửa đất 635, anh Trịnh Thái B1 chỉ người cho anh vay 720.000.000
đồng để trả tiền đất, vậy anh vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội
đồng xét xử xem xét lại vụ án theo đúng quy định pháp luật.
- Bị đơn, anh Trịnh Thái B1 không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của anh
Nguyễn Thanh B, yêu cầu Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu quan điểm cho
rằng Tòa án cấp thẩm chưa thu thập lời khai của chị H vviệc thỏa thuận
chuyển nhượng thửa đất 635 để làm sao tại hợp đồng ngày 21/6/2018 t
thỏa thuận chuyển nhượng đất cho anh B, nhưng khi ra ký hợp đồng công chứng
thì trong hợp đồng ghi chuyển nhượng đất cho anh B1; không đưa các ông,
Ngô Văn H3, Ngô Văn C1, Ngô Thị H2, Ngô Thị Đ, Ngô Thị H1 vào tham gia
tố tụng với cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; chưa làm giá
chuyển nhượng ghi trong hợp đồng của 05 thửa đất còn lại là bao nhiêu; chưa
làm rõ giấy đặt cọc do ai viết, chữ người bán phải của anh Bằng K, nếu
chữ của anh B1 thì phải làm mâu thuẫn sao ngày 28/01/2019 chị H
anh B1 mới hợp đồng chuyển nhượng, nhưng trước đó ngày 23/01/2019 lại
đặt cọc bán cho anh B 06 thửa đất với giá 1.152.000.000đồng, trong khi đó
anh B1 không cung cấp được tài liệu để chứng minh trước thời điểm ngày
28/01/2019 anh và 06 chủ đất thỏa thuận chuyển nhượng đất; chưa tiến hành
thu thập giá đất tại thời điểm chuyển nhượng, để xem xét giá trị các bên thỏa
thuận chuyển nhượng phù hợp với giá chuyển nhượng thực tế hay không.
Mặt khác, nếu sở xác định anh B1 đứng tên hợp đồng chuyển nhượng 06
thửa đất nêu trên nhằm mục đích đảm bảo số nợ anh B vay của anh B1 thì hợp
đồng bị vô hiêu việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu không thể tách
rời theo từng hợp đồng, theo anh B 06 thửa đất anh B1 đứng tên để bảo
chung cho tổng số tiền vay 720.000.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm không đưa đủ
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, chưa thu thập
chứng cứ đầy đủ vi phạm khoản 4 Điều 68, Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Toà án cấp thẩm tuyên xkhông chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
8
đơn chưa căn cứ vững chắc, cấp phúc thẩm không khắc phục được, nên đề
nghị Hội đồng xét xử huỷ bản án thẩm, chuyển hồ cho Toà án nhân dân
huyện G giải quyết lại vụ án theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên a, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội
đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của anh Nguyễn Thanh B còn trong thời
hạn quy định nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2]. Chị Ngô Thị H đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng
mặt không do. Văn phòng C2, ông Bùi Văn C, ông Nguyễn Văn T đơn
xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xvẫn tiến hành xét xử ván theo
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Về nội dung kháng cáo, xét thấy:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong hồ vụ án lời
lời trình bày của các đương sự trong qúa trình giải quyết vụ án cũng như tại
phiên toà, có đủ cơ sở xác định:
Chị Ngô Thị H chủ dụng thửa đất số 635, tờ bản đồ số 50, diện tích
431,9m
2
, loại đất trồng cây lâu năm tại địa chỉ: ấp C, T, huyện G, tỉnh Tiền
Giang, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất số BP 943285, số vào sổ cấp GCN: CH03470 do y ban
nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang cấp ngày 31/12/2014.
Ngày 28/01/2019, chị Ngô Thị H chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho anh
Trịnh Thái B1. Việc chuyển nhượng lập thành hợp đồng, được công chứng
tại Văn phòng C2, số công chứng 613, quyển số 01…TP/CC-SCC/HĐGD ngày
28/01/2019.
Ngày 25/3/2019, anh Trịnh Thái B1 được công nhận quyền sử dụng đất tại
trang 4 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất nêu trên là phù hợp với quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án, anh B cho rằng vào ngày 06/4/2019 giữa anh và
chị H kết hợp đồng đặt cọc để mua thửa đất 635 của chị H với g
103.656.000 đồng, anh đã giao đủ tiền mua đất cho chị H và làm hợp đồng
đặt cọc ngày 06/4/2019, Hợp đồng chuyển nhượng ngày 21/6/2018, Biên nhận
giao nhận tiền đặt cọc ngày 21/6/2018, Biên nhận giao nhận tiền ngày 07/4/2019
và chị H đã giao đất cho anh quản lý.
Ngoài ra, anh B còn cho rằng trên phần đất này anh trồng một scây và
một chuồng do anh mua của anh Nguyễn Văn T với giá 8.000.000 đồng t
anh Trịnh Thái B1 ớn người nhổ cây của anh, anh làm đơn tố cáo anh B1
đến Uỷ ban nhân dân Công an T. Anh B cho rằng anh B1 đứng tên trong
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng với chị H do anh B1 cho anh B
mượn 720.000.000 đồng để mua 06 phần đất tranh chấp. Để bảo đảm cho số tiền
9
vay, khi tiền trả cho anh B1 thì anh B1 sẽ trả lại 06 phần đất tranh chấp cho
anh, nhưng khi anh B1 đưa anh B giấy đặt cọc ngày 23/01/2019 mua lại 06 phần
đất tranh chấp 1.152.000.000 đồng, anh B không đồng ý tên vào cho
rằng lãi suất quá cao, không thừa nhận hợp đồng đặt cọc ngày 23/01/2019 có giá
trị pháp lý vì chỉ có một người ký tên.
Xét thấy lời trình bày của anh B không phù hợp với đơn khởi kiện, các biên
bản hòa giải các chứng cứ mà anh B đã nộp cho Tòa án. Về 04 lần trả tiền
cho chị H không đúng số tiền đã trả (BL 48, 49, 50). Anh B cho rằng anh B1
đứng tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là do anh mượn tiền
của anh B1 tổng cộng 720.000.000 đồng nhưng không giấy tờ hay Biên nhận
nào chứng minh. Đồng thời, tại phiên tòa anh B1 cũng không thừa nhận việc cho
anh B mượn tiền.
Anh B trình bày khi mua đất của chị H làm hợp đồng đặt cọc ngày
06/4/2019, nhưng tại phiên tòa anh B lại không thừa nhận hợp đồng đặt cọc này
mà cho rằng Hợp đồng này do tài xế của anh B viết ra.
Đối với hợp đồng mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất quyền sở
hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất ngày 21/6/2018 không tuân thủ đúng
hình thức và nội dung của hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Phần đất đang tranh chấp anh B cho rằng đang do anh B quản lý sử dụng và
cho M anh H3 thuê nuôi gà, nhưng qua xác minh chính quyền địa phương
ngày 24/5/2023 thì không sviệc này M, anh H3 cũng không biết ai
đang quản lý sử dụng.
Anh B cũng đơn tố cáo anh B1 về việc phá chuồng cây trồng của
anh đến Uỷ ban nhân dân Công an T, đã được Uỷ ban nhân dân Công
an xã T giải quyết như sau: “Đây là tranh chấp đất đai và anh B1 cũng đứng tên
06 phần đất tranh chấp, nên không thuộc thẩm quyền của UBND T Công
an xã T(BL 147). Ngoài ra anh B1 cũng cho thuê người làm hàng rào nhưng bị
anh B phá đi, anh cũng người cho người phá dỡ chuồng nhổ cây trồng
trên đất, chứng tỏ anh B1 cũng có xuống thăm nom phần đất tranh chấp.
Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 23/3/2022 ngày 16/5/2025
thì phần đất tranh chấp cỏ dại, một số cây tạp, anh B cho rằng mình
người quản lý sử dụng đất nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh.
Tại phiên tòa thẩm, anh Trịnh Thái B1 yêu cầu Tòa án triệu tập hai
người làm chứng hai người làm chứng ông Đỗ Văn T2, sinh năm 1970
anh Nguyễn Công M1, sinh năm 198, cùng địa chỉ: p C, xã B, huyện G, tỉnh
Tiền Giang mặt tại phiên tòa thống nhất trình bày anh B1 ớn làm hàng
rào lưới B40 được 03 ngày thì anh B xuống phá không cho xây dựng.
Người làm chứng ông Bùi Văn C thừa nhận tại biên bản lấy lời khai
ngày 06/4/2023:“Khoảng năm 2019, tôi biết việc bán đất giữa ông Nguyễn
Thanh B với hộ gia đình ông C1 giả chuyển nhượng 01 công đất (1000m
2
)
giá 240.000.000 đồng, việc đặt cọc thì tôi không nhớ. Tại ngày công chứng
kết hợp đồng chuyển nhượng, tôi thấy việc kết hợp đồng gồm những người
10
trong gia đình ông Ngô Văn C1 với một người thanh niên khác, không phải ông
Nguyễn Thanh B, người thanh niên này đã trực tiếp kết hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và trực tiếp giao tiền cho các thành viên gia đình ông
C1, tôi chứng kiến việc ký kết hợp đồng khoảng 02, 03 lần, người trực tiếp ký kết
hợp đồng với hộ gia đình ông C1 người khác, không phải ông Nguyễn Thanh
B(bút lục 86).
Biên bản lấy lời khai của chị Ngô Thị H1 và anh Lê Minh S bị đơn trong
vụ án khác cũng lời khai như sau: “Gia đình chị H1 các thành viên trong
gia đình ông Ngô Văn C1 hợp đồng đặt cọc với anh Nguyễn Thanh B để
mua phần đất của gia đình chị H1, có nhận một lần đặt cọc một lần, thời hạn 06
tháng sẽ sang bộ nhưng hết 06 tháng anh B chưa sang bộ cho gia đình chị
H1. Sau đó anh Nguyễn Thanh B gọi toàn bộ gia đình chị H1 lên Phòng công
chứng T, Công Đ1 để lấy tiền sang bộ. Khi lên đến Phòng công chứng thì
chị hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất với anh Trịnh Thái B1 và
anh B1 người trực tiếp giao đủ số tiền cho chị H1, chồng chị anh Minh
S có hỏi anh B là bán đất cho mày mà sao để người khác đứng tên, thì anh B trả
lời cứ nhận tiền đủ, phần còn lại để tôi. Ngoài ra chị H1 còn trình bày không
nhận bất kỳ số tiền nào của anh Nguyễn Thanh B, chị H1 gia đình chị cũng
không làm đơn khiếu nại gửi cho Ủy ban nhân dân T, đơn phản tổ cũng
như Bản tự khai ngày 06/7/2020, Biên bản bàn giao đất ngày 07/4/2019, Biên
bản giao nhận tiền đặt cọc ngày 21/6/2018, Biên bản giao nhận tiền ngày
07/4/2019 không phải do chị H1 gia đình chị làm, do anh Nguyễn Thanh
B nhờ vào c tờ giấy để m hồ cấp đất, chị H1 thừa nhận chị H1
gia đình có ký tên vào nhưng không có xem lại nội dung”.
Biên bản lấy lời khai anh Nguyễn Văn T ngày 06/4/2023, anh T trình bày:
“Tôi thuê đất hộ gia đình ông C1 để chăn nuôi trong thời hạn 05 năm nhưng
chỉ sử dụng 02 năm thì nghe tin ông C1 bán đất cho ông Nguyễn Thanh B nhưng
tôi không đồng ý di dời do chưa hết hạn hợp đồng. Anh Nguyễn Thanh B mới
bồi thường cho tôi 21.000.000 đồng cho thời hạn thuê còn lại và 8.000.000 đồng
tiền căn nhà để trông coi dê. Ngoài ra, việc mua bán đất giữa ông B hộ gia
đình ông C1 thì tôi không biết, tôi không có ký thêm văn bản nào khác với ông B
và ông C1”.
Tại phiên toà, người làm chứng chị Trần Thị T1 trình bày chị chứng
kiến việc anh B1 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với chị H tại
Văn phòng C2, anh B1 người giao tiền chuyển nhượng đất cho chị H sự
chứng kiến của anh B nhưng anh B không phản đối gì.
Tại Văn bản số 03/ CV-VPCC ngày 18/01/2023, Văn phòng C4 khi chứng
nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 613/quyển số
01/TP/CC/HĐGD, Công chứng viên của Văn phòng C2 không ghi nhận thỏa
thuận khác giữa các bên giao dịch việc giao dịch hoàn toàn tự nguyện,
hoàn toàn đúng quy định pháp luật.
Từ những căn cứ nêu trên, Toà án cấp sơ thẩm xử không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của anh Nguyễn Thanh B và chị Phan Thị Thùy D1 phù hợp pháp
11
luật. Anh B kháng cáo nhưng không bổ sung được chứng cứ nào mới. Do đó,
Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Thanh B,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4]. Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của anh B không được Hội đồng xét
xử chấp nhận nên anh B phải chịu 300.000 đồng án phí phúc thẩm theo quy
định.
[5]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát không sở, không phù
hợp với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử nên không được Hội đồng xét
xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308; Điều 148, khoản 2, khoản 3 Điều 296 Bộ luật
Tố tụng dân sự;
1/- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Thanh B.
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 164/2024/DS-ST ngày 17 tháng 7
năm 2024 của Toà án nhân dân huyện G tỉnh Tiền Giang.
Căn cứ Điều 117, Điều 500, Điều 501, Điều 502 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Điều 40, Điều 41 Luật Công chứng năm 2014; Điều 116, Điều 167, Điều 167
Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thanh B
Phan Thị Thùy D1 về việc hủy hợp đồng công chứng về việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa chị H anh B1 đối với thửa đất số 635, diện tích
431,9m
2
loại đất trồng cây lâu năm, theo Giấy chứng nhận quyền sdụng đất
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP 943285, số vào sổ cấp
Giấy chứng nhận số CH03470 được UBND huyện G cấp ngày 31/12/2014 cho
chị Ngô Thị H, cập nhật biến động ngày 14/08/2018 theo hồ số
003470.CN.001, cập nhật biến động chuyển nhượng quyền sử dụng sang tên anh
Trịnh Thái B1 ngày 25/03/2019 theo hồ số 003470.CN.002, tọa lạc tại ấp C,
T, huyện G, tỉnh Tiền Giang ngày 28/01/2019 tại Văn phòng C2, huyện G,
tỉnh Tiền Giang.
1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn
Thanh B và chị Phan Thị Thùy D1 về việc hủy cập nhật biến động chuyển quyền
sử dụng đất ngày 25/3/2019 cho ông Trịnh Thái B1 theo hồ số
003470.CN.002 đối với thửa đất số 635, tờ bản đồ số 50, diện tích 431,9m
2
, loại
đất trồng cây lâu năm, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất số BP 943285, số vào sổ cấp Giấy chứng
12
nhận số CH03470 được UBND huyện G cấp ngày 31/12/2014 cho bà Ngô Thị
H, đất tọa lạc tại ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
1.3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn
Thanh B chị Phan Thị Thùy D1 về việc công nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BP 943285, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận số CH03470 được
UBND huyện G cấp ngày 31/12/2014, cập nhật biến động ngày 14/08/2018 theo
hồ số 003470.CN.001 thuộc tờ bản đồ số 50, tọa lạc tại ấp C, T, huyện G,
tỉnh Tiền Giang cho anh Nguyễn Thanh B và chị Phan Thùy D1.
2/- Về án phí: Anh Nguyễn Thanh B chị Phan Thị Thùy D1 liên đới chịu
900.000 đồng án phí dân sự thẩm. Anh B chị D1 đã nộp 300.000 đồng
theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0017959 ngày 31/7/2020 300.000 đồng
theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0028524 ngày 15/02/2023 của Chi Cục Thi
hành án dân sự huyện G, tỉnh Tiền Giang, nên anh Nguyễn Thanh B chị Phan
Thị Thùy D1 còn phải nộp tiếp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng).
Anh Nguyễn Thanh B còn phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án
phí phúc thẩm, được trừ vào s tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số
0028930 ngày 23 tháng 8 năm 2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện G,
tỉnh Tiền Giang.
3/- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện G;
- CCTHADS huyện G;
- Đăng cổng thông tin điện tử;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án (Thắm).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lưu Thị Thu Thủy
Tải về
Bản án số 346/2025/DS-PT Bản án số 346/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 346/2025/DS-PT Bản án số 346/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất