Bản án số 320/2024/DS-ST ngày 25/09/2024 của TAND huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 320/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 320/2024/DS-ST ngày 25/09/2024 của TAND huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Giồng Riềng (TAND tỉnh Kiên Giang)
Số hiệu: 320/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Nguyễn Thị Kim H yêu cầu bà Lê Kim C, ông Nguyễn Văn tần trả số tiền vay gốc và lãi là 142.948.000 đồng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN GIỒNG RIỀNG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH KIÊN GIANG
---------------
Bản án số: 320/2024/DS-ST
Ngày 25/9/2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng
dân sự vay tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Chuyên.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Chí Bền
Ông Huỳnh Hoàng Nam
- Thư phiên a: Huỳnh Thị Phượng thư ký Tòa án nhân n huyện Giồng
Riềng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Giồng Riềng tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị
Diễm Thúy – Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng xét xử
thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 90/2024/TLST DS, ngày 15 tháng 3 năm
2024 về tranh chấp Hợp đồng dân sự vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử
số: 405/2024/QĐXX - ST, ngày 22 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim H, sinh năm: 1992; địa chỉ: ấp T, T, huyện
G, tỉnh Kiên Giang (có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn E sinh năm:
1968; địa chỉ: ấp A L, khu V, phường T, quận B, Thành phố Cần Thơ theo văn bản ủy
quyền ngày 14/3/2024 (có mặt).
2. Bị đơn: Kim C, sinh năm: 1957; địa chỉ: ấp T, T, huyện G, tỉnh Kiên
Giang (vắng mặt).
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn T sinh năm: 1956;
địa chỉ: ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/02/2024 tại phiên tòa người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn trình bày:
Vào ngày 16/11/2022, Thị C1 có đến hỏi chị Nguyễn Thị Kim H vay số tiền
60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng) lãi suất hai bên thỏa thuận là 3%/tháng, thời hạn
vay là 90 ngày, kể từ ngày 16/11/2022. Đến ngày 30/02/2023 bà C1 tiếp tục đến hỏi vay
thêm 70.000.000 đồng, lãi suất 3%/tháng. Thời hạn vay 60 ngày, kể từ ngày 30/2/2023
C1 sẽ thanh toán đầy đủ cả gốc, lãi một lần. Do số tiền vay lớn, chị H viết biên nhận
yêu cầu C1 tên vào biên nhận, 02 bên làm 01 một tờ chị H giữ. Đến thời hạn
cam kết trả nợ, bà C1 không trả như đã thỏa thuận mà cố tình hứa hẹn kéo dài thời gian.
Nay chị H khởi kiện yêu cầu bà C1ông T liên đới trả cho chị số tiền gốc 130.000.000
đồng (một trăm ba mươi triệu đồng), tiền lãi tính từ ngày 30/2/2023 cho đến ngày nộp
đơn khởi kiện theo lãi suất chậm trả cụ thể: 130.000.000 đồng x 0,83%/tháng x 12 tháng
= 12.948.000 đồng, ngoài ra thì không yêu cầu gì thêm.
Tại biên bản lấy lời khai của Kim C đề ngày 04/7/2024, bà C trình bày: Bà
thừa nhận có hỏi vay của chị Nguyễn Thị Kim H số tiền nhiều lần; Lần đầu vào khoảng
tháng 06/2022 vay 20.000.000 đồng, lãi ngày là 10.000 đồng/1.000.000 đồng/ngày, cứ
10 ngày lấy lãi một lần. Hai bên không làm biên nhận, không thỏa thuận thời hạn trả, khi
nào thì trả gốc, tính lãi theo ngày. Khoảng 3,4 tháng sau tiếp tục hỏi vay 20.000.000
đồng. Tổng cộng số tiền tôi vay của chị H là: 63.000.000 đồng, đóng lãi được
3.000.000 đồng. Còn lại số tiền gốc 60.000.000 đồng, chứ không phải 130.000.000
đồng như yêu cầu khởi kiện của chị H. không thừa nhận ký vào biên nhận nợ ngày
30/2/2023 với số tiền nợ của chị H 130.000.000 đồng. Bà không yêu cầu giám định chữ
ký, chữ viết trong tờ biên nhận. Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết.
Tại bản tự khai đề ngày 15/3/2024 ông Nguyễn Văn T trình bày: Ông cho rằng số nợ
130.000.000 đồng chị H khởi kiện yêu cầu ông liên đới cùng vớiC trả cho chị H, ông
hoàn toàn không biết gì hết. Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng n
sau: Quá trình thụ lý vụ án, chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, Tòa án tiến hành đúng theo quy
định của pháp luật, xác định đúng quan hệ tranh chấp, đương sự trong vụ án và tiến hành
các thủ tục tố tụng đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương
sự. Các đương sng chấp hành tốt các quy định về quyền nghĩa vụ của mình theo
quy định của pháp luật. Thời hạn đưa ra xét xử đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án, lời trình bày của đương sự tại phiên tòa hôm nay đối chiếu với các quy định của
pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng nhận thấy như sau: Xét yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu có trong hồ sơ thì nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả
3
số tiền gốc 130.000.000 đồng tiền lãi 12.948.000 đồng căn cứ. Bởi lẽ, nguyên đơn
cho rằng bà C đã tên và thừa nhận khoản vay. Tuy nhiên, C không thừa nhận, Tòa
án đã thông báo cho bà C về việc giám định chữ ký, chữ viết nhưng C không yêu cầu
là từ bỏ quyền lợi của mình. Mặt khác, C cho rằng ông T không biết số tiền vay của
chị H nên ông T không phải chịu trách nhiệm cùng với bà trả. Trong biên bản lấy lời khai
C thừa nhận vay tiền về để lo cho gia đình chứ không phải cá nhân bà, và ông T là
vợ chồng hợp pháp nên cần phải buộc ông T liên đới trả cho chị H số tiền gốc và lãi nêu
trên là phợp. Về án phí buộc bị đơn phải chịu nhưng ông T, bà C là người cao tuôi nên
được miễn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về tố tụng:
Tranh chấp giữa các bên tranh chấp về giao dịch dân stheo quy định tại khoản
3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa
án nhân dân huyện Giồng Riềng thụ giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm là đúng trình
tự, thủ tục tố tụng.
Về sự có mặt của đương sự: Bà Lê Kim C, ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án tống
đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy việc vắng mặt của
C, ông T không làm ảnh hưởng đến qtrình giải quyết vụ án nên áp dụng điểm b
khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xtiến hành xét
xử vắng mặt đối với ông T, bà C.
[2]. Về nội dung:
{2.1} Chị Nguyễn Thị Kim H khởi kiện yêu cầu Lê Kim C, ông Nguyễn Văn T
liên đới trả cho chị số tiền gốc là 130.000.000 đồng (mt trăm ba ơi triệu đồng) tiền
lãi chậm trả tính từ ngày 30/2/2023 đến ngày nộp đơn khởi kiện 30/2/2024 là 12.984.000
đồng.
Sau khi xem xét các chứng cứ, giấy nhận nợ và tại phiên hòa giải Kim C ch
thừa nhận vay của chị H stiền 60.000.000 đồng chứ không phải là 130.000.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết các đương sự thống nhất số tiền lần đầu vay 60.000.000 đồng,
hai bên không làm biên nhận nợ với nhau. Theo chị H lần thhai C tiếp tục hỏi vay
70.000.000 đồng, do số tiền lớn hai lần cộng lại cho nên vào ngày 30/2/2023 chị viết biên
nhận yêu cầu C tên, C đã tên o biên nhận, chị đã cung cấp giấy gốc cho
Tòa án nhưng bà C lại không thừa nhận đó chký, chữ viết của bà. Tòa án tiến hành
thông báo yêu cầu bà C nộp chứng cứ liên quan đến số tiền vay 60.000.000 đồng và làm
các thủ tục giám định chữ ký, chữ viết trong tờ biên nhận nợ mà chị H cung cấp cho Tòa
án; nhưng bà C xác định lúc hai bên giao tiền không làm biên nhận do làm ăn tin tưởng
4
nhau. Đồng thời, bà không yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết trong tờ biên nhận đó
không phải là chữ của bà. Hội đồng xét xử thấy rằng theo quy định tại khoản 2, khoản 4
Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định Đương sự phản đối yêu cầu của người
khác đối với nh thì phải thể hiện bằng văn bản phải thu thập, cung cấp, giao nộp
cho Tòa án tài liệu chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó…” . Trong nội dung tờ
biên nhận vay nợ giữ các bên thỏa thuận thời hạn cho vay từ ngày 30/2/2023 60
ngày sẽ trả đủ gốc nhưng đến hạn bà C không trả là vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ nên
chị Nguyễn Thị Kim H khởi kiện là hoàn toàn có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản
4 Điều 11, Điều 463 của Bộ luật dân sự năm 2015. Mặt khác, chH yêu cầu ông Nguyễn
Văn T chồng của C cùng liên đới chịu trách nhiệm trả số tiền trên cho chị H. Theo
bản tkhai thì ông T cho rằng, ông không biết việc C vay mượn, ông không thừa nhận
và không chịu trách nhiệm. Hội đồng xét xử xét thấy trong biên bản lấy lời khai đề ngày
04/7/2024, bà C cho rằng số tiền bà vay của chị H về dùng để chi tiêu trong gia đình, trả
nợ, lo thuốc thang cho ông T (chồng bà) do ông T bị bệnh kéo dài, bà không sử dụng cho
mục đích riêng của bản thân. Như vậy, có thể thấy rằng số tiền vay này sử dụng cho mục
đích chung trong gia đình C. Theo quy định tại Điều 30 của Luật hôn nhân gia đình
năm 2014 quy định Vợ, chồng quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của gia đình….”.
Xét lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát căn cứ. Do đó, cần phải buộc ông
Nguyễn Văn T trách nhiệm liên đới cùng với bà Lê Thị C1 thực hiện nghĩa vụ trả cho
chị Nguyễn Thị Kim H số tiền gốc 130.000.000 đồng (một trăm ba mươi triệu đồng)
{2.2} Về lãi suất: Chị Kim H xác định kể từ ngày vay cho đến khi C1 không thực
hiện như đã cam kết. Nay chị yêu cầu bà C1 và ông T trả cho chị khoản tiền lãi chậm trả
tngày 30/2/2023 đến ngày chnộp đơn khởi kiện ngày 30/2/2024, ngoài ra chị không
yêu cầu tính lãi đến ngày xét xử. Xét thấy yêu cầu này của chị H là có cơ sở, bởi lẽ từ khi
C1 ký vào biên nhận nhưng không trả tiền cho chị H. Do đó, buộc ông T C1 liên
đới trả cho chị Nguyễn Thị Kim H số tiền lãi cụ thể 130.000.000 đồng x 0,83%/tháng x
12 tháng = 12.984.000 đồng trên.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các
khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự m
2015.
[3] Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1
Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí.
5
Yêu cầu của chị Nguyễn Thị Kim H được chấp nhận nên không phải chịu án phí,
hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật.
Bà Lê Kim C và ông Nguyễn Văn T phải chịu án phí giá ngạch; nhưng ông - bà là
người cao tuổi nên miễn toàn bộ tiền án phí giá ngạch.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật
tố tụng dân sự; khoản 4 Điều 11, Điều 463, 466 của Bộ luật dân sự năm 2015; điểm đ
khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chNguyễn Thị Kim H đối với bà
Kim C và ông Nguyễn Văn T.
2. Buộc bà Kim C và ông Nguyễn Văn T liên đới trả cho chị Nguyễn Thị Kim H
số tiền gốc và lãi là: 142.984.000 đồng (một trăm bốn mươi hai triệu chín trăm tám mươi
bốn nghìn đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các
khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm
2015.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch:
Yêu cầu của chị Nguyễn Thị Kim H được chấp. Hoàn trả lại cho H số tiền tạm ứng
án phí đã nộp 3.600.000 đồng (ba triệu sáu trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số
0005825 ngày 13 tháng 3 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng.
Kim C, ông Nguyễn Văn T người cao tuổi nên miễn toàn bộ tiền án phí
giá ngạch cho ông – bà.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày; Người có
mặt được tính từ ngày tuyên án (25/9/2024); người vắng mặt được tính kể từ ngày nhận
được bản án hoặc niêm yết của Tòa án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6,7 9 của Luật thi nh án dân sự; Thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
6
Nơi nhận TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện (Đã ký tên và đóng dấu)
- Thi hành án huyện
- UBND xã, thị
- Các đương sự
- Lưu.
Nguyễn Thị Chuyên
Tải về
Bản án số 320/2024/DS-ST Bản án số 320/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 320/2024/DS-ST Bản án số 320/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất