Bản án số 590/2024/DS-PT ngày 26/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 590/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 590/2024/DS-PT ngày 26/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 590/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: 1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phạm Bình Q, bà Phạm Lệ Q. 2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 590/2024/DS-PT
Ngày 26-11-2024
V/v tranh chấp hợp đồng vay
tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Lê Hoàng Vương.
Bà Nguyễn Thị Duyên Hằng;
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết.
- Thư phiên tòa: Ông Đặng Hùng ờng - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ông Lê Trung Kiên Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 399/2024/TLPT-DS ngày
08/10/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số 73/2024/DS-ST ngày 20 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 423/2024/QĐ-PT ngày
30 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Trần Thị Thanh T, sinh năm 1967; CCCD:
074167007213; địa chỉ: buôn P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
- Bị đơn: Ông Phạm Bình Q, sinh năm 1962; CCCD: 074062004083 và bà
Phạm Lệ Q1, sinh năm 1987; CCCD: 074187007101; địa chỉ: khu phố E,
phường M, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hp pháp của bị đơn: Thị H, sinh năm 1960;
CCCD: 074160006754; địa chỉ: khu phố E, phường M, thành phố B, tỉnh Bình
Dương; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 07/5/2024); có
mặt.
- Người kháng cáo: b đơn ông Phm Bình Q, bà Phm L Q1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm:
2
Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình tố tụng tại phiên tòa
nguyên đơn trình bày:
Do mối quan hquen biết, ngày 08/12/2022 Trần Thị Thanh T cho
ông Phạm Bình Q và bà Phạm Lệ Q1 vay; theo đó: số tiền vay 20.000.000 đồng,
thời hạn vay 01 tháng, thời hạn trả 08/01/2023 (do Q1 viết nhầm thành năm
2022), lãi suất thỏa thuận 1%/tháng. Việc vay được lập thành Giấy vay tiền
chữ ký, chữ viết của ông Q và bà Q1.
Ngày 10/12/2022, T tiếp tục cho ông Q Q1 vay số tiền
70.000.000 đồng, thời hạn vay 01 tháng, thời hạn trả ngày 10/01/2023 (do bà Q1
viết nhầm thành ngày 10/12/2022), lãi suất thỏa thuận 1%/tháng. Việc vay được
lập thành Giấy vay tiền có chữ ký, chữ viết của ông Q và bà Q1.
Tiếp đó, ngày 13/6/2023 T tiếp tục cho ông Q Q1 vay số tiền
154.000.000 đồng, thời hạn vay 05 tháng, thời hạn trả 05 tháng kể từ ngày vay,
lãi suất thỏa thuận 1%/tháng. Việc vay được lập thành Giấy vay tiền do ông Q
viết, bà Q1 có mặt nhưng không ký tên, do tin tưởng nên bà T không có yêu cầu
Q1 ký tên.
Đối với các khoản vay nêu trên, ông Q và bà Q1 đã đóng lãi cho bà T đến
hết ngày 13/7/2023; T đến gặp ông Q bà Q1 đyêu cầu trả số tiền vay
trên, nhưng ông Q bà Q1 vẫn cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Do đó, T
khởi kiện ông Q Q1 yêu cầu Tòa án buộc ông Q Q1 trả số tiền
248.640.000 đồng (trong đó: số tiền nợ gốc: 224.000.000 đồng; số tiền lãi tính
từ ngày 13/7/2023 đến ngày xét xử thẩm tạm tính 13/5/2024 là: 1%/tháng x
224.000.000 đồng x 11 tháng = 24.640.000 đồng).
Tại Đơn xác định lại yêu cầu khởi kiện đề ngày 22/5/2024, bà T xác định
lại yêu cầu khởi kiện của T theo Giấy vay ngày 08/12/2022; Giấy vay ngày
10/12/2022 và Giấy vay tiền ngày 13/6/2023, đề nghị Tòa án buộc ông Q và Q1
phải trả cho T số tiền 270.840.000 đồng (trong đó: số tiền n gốc:
244.000.000 đồng; số tiền lãi tính từ ngày 13/7/2023 đến ngày xét xử thẩm
tạm tính 13/5/2024 là: 1%/tháng x 224.000.000 đồng x 11 tháng = 26.840.000
đồng).
Quá trình tham gia tố tụng, bị đơn ông Q, Q1 người đại diện hợp
pháp của ông Q, Q1 trình bày:
Thống nhất các giấy vay tiền do ông Q Q1 viết, tên vào phần
bên vay. Không yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn đồng ý trả số tiền
70.000.000 đồng theo Giấy vay ngày 10/12/2022 do T cung cấp số tiền
20.000.000 đồng theo Giấy vay ngày 08/12/2022 do bà T cung cấp. Đối với số
tiền 154.000.000 đồng theo Giấy vay ngày 13/6/2023 thì ông Q, Q1 không
đồng ý thanh toán. Không đồng ý thanh toán tiền lãi.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
3
Nguyên đơn bà T trình bày: yêu cầu ông Q, bà Q1 cùng thanh toán số tiền
90.000.000 đồng tiền lãi tính từ ngày 10/02/2024 đến ngày xét xử thẩm
20/6/2024; yêu cầu ông Q thanh toán số tiền 154.000.000 đồng tiền lãi từ
ngày 13/7/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm 20/6/2024.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là bà H trình bày:
Đối với số tiền 70.000.000 đồng theo Giấy vay ngày 10/12/2022 số
tiền 20.000.000 đồng theo Giấy vay ngày 08/12/2022 do T cung cấp thì bị
đơn đồng ý trả tiền gốc thanh toán tiền lãi từ ngày 10/02/2024 đến ngày xét
xử sơ thẩm là ngày 20/6/2024.
Đối với số tiền 154.000.000 đồng theo Giấy vay ngày 13/6/2023 thì ông
Q nên đây khoản nợ riêng của ông Q không liên quan đến Q1 nên ông
Quốc T1 chịu trách nhiệm nhưng không đồng ý thanh toán tiền gốc và tiền lãi.
Tại Bản án dân sự thẩm số 73/2024/DS-ST ngày 20 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị Thanh T đối
với bị đơn ông Phạm Bình Q, Phạm Lệ Q1 về tranh chấp hợp đồng vay tài
sản.
Ông Phạm Bình Q, bà Phạm Lệ Q1 có trách nhiệm liên đới thanh toán cho
Trần Thị Thanh T số tiền 88.000.000 đồng (tám mươi tám triệu đồng).
Ông Phạm Bình Q có trách nhiệm thanh toán cho bà Trần Thị Thanh T số
tiền 172.839.333 đồng (một trăm bảy mươi hai triệu tám trăm ba mươi chín
ngàn ba trăm ba mươi ba đồng), trong đó:
- Tiền gốc: 154.000.000 đồng (một trăm năm mươi bốn triệu đồng).
- Tiền lãi: 18.839.333 đồng (mười tám triệu tám trăm ba mươi chín ngàn
ba trăm ba mươi ba đồng).
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về nghĩa vụ chậm trả theo quy
định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, án phí quyền kháng cáo của các
đương sự.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 01/7/2024, bị đơn ông Phạm Bình Q,
Phạm Lệ Q1 có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị
đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại din Vin Kim sát nhân dân tnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Vtố tụng: Những người tiến hành tố tụng tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn kháng cáo nhưng không
cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo; bản án sơ thẩm xét
4
xử căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật
Tố tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của c
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: đơn kháng cáo của bị đơn ông Q, Q1 nộp trong thời
hạn, có nội dung, hình thức phù hợp với quy định của pháp luật nên đủ điều kiện
để thụ lý và xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Theo tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ thể hiện: quá trình tố tụng tại cấp
thẩm, nguyên đơn bà T cung cấp tài liệu, chứng cứ Giấy vay tiền các ngày
08/12/2022, ngày 10/12/2022 ngày 13/6/2023; người đại diện hợp pháp của
bị đơn H thừa nhận chữ ký, chữ viết trên của bị đơn ông Q và Q1 nên
đây tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92
Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2.2] Đối với Giấy vay ngày 10/12/2022 và Giấy vay ngày 08/12/2022:
Về tiền gốc: tại cấp thẩm, các đương sự thống nhất vay số tiền
90.000.000 đồng; bị đơn đồng ý thanh toán số tiền trên cho nguyên đơn. Do đó,
Tòa án cấp thẩm ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự về việc ông Q
Q1 trách nhiệm thanh toán số tiền 90.000.000 đồng cho bà T phù hợp.
Đương sự đều thừa nhận tổng số tiền bị đơn đã chuyển cho nguyên đơn
14.000.000 đồng (trong đó: ngày 09/12/2022 chuyển số tiền 7.000.000 đồng;
ngày 27/01/2023 chuyển số tiền 4.000.000 đồng ngày 31/01/2023 chuyển số
tiền 3.000.000 đồng) tiền lãi của tổng số tiền vay 90.000.000 đồng trong 02
tháng là tháng 01/2023 và tháng 02/2023. Như vậy, lời trình bày của nguyên đơn
về lãi suất 3% người đại diện hợp pháp của bị đơn về lãi suất 10% không
phù hợp với số tiền đã chuyển khoản. Do các đương sự có thỏa thuận về việc trả
lãi nhưng không xác định lãi suất tranh chấp về lãi suất, Tòa án cấp
thẩm căn cứ khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự xác định mức lãi suất 10%/năm,
xác định tiền lãi đối với hai khoản vay đến ngày 31/01/2023 (ngày chuyển tiền
lãi cuối cùng) là phù hợp.
Tổng tiền lãi của hai khoản vay tính đến ngày 31/01/2023 (ngày chuyển
tiền lãi cuối cùng) 1.286.000 đồng; các đương sự thống nhất xác định khoản
tiền 14.000.000 đồng ông Q, Q1 chuyển cho T tiền lãi. Do đó, cấp
thẩm trừ số tiền lãi đã trả vượt quá mức lãi suất vào số tiền ngốc xác
định ông Q1, bà Q trách nhiệm thanh toán số tiền nợ gốc 77.286.000 đồng
là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
Về tiền lãi: theo đơn khởi kiện tại phiên tòa thẩm, bà T khẳng định
chỉ yêu cầu tính tiền lãi từ ngay 13/7/2023; xét, đây là yêu cầu có lợi cho ông Q
Q1 nên Tòa án cấp sơ thẩm ghi nhận phù hợp xác định buộc Q1
5
và ông Q trách nhiệm thanh toán cho bà T số tiền 84.520.828 đồng (trong đó:
tiền nợ gốc: 77.286.000 đồng; tiền lãi: từ ngày 13/7/2023 đến ngày xét xử
thẩm 11 tháng 07 ngày x 10%/năm x 77.286.000 đồng = 7.234.828 đồng)
có cơ sở.
[2.3] Đối với Giấy vay ngày 13/6/2023:
Về tiền gốc: tại phiên tòa thẩm, người đại diện hợp pháp của bị đơn
H thừa nhận chữ ký, chữ viết nội dung giấy vay do ông Q viết. H
yêu cầu triệu tập L người làm chứng, tại phiên tòa thẩm L cho rằng
ông Q giấy vay nhưng không thấy T đưa tiền cho ông Q. Lời trình bày
của L không tài liệu, chứng cứ chứng minh; trong giấy vay tiền cũng
không xác nhận của L với cách người làm chứng; bà T cũng không
thừa nhận. Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét lời trình bày của L căn
cứ. Nguyên đơn yêu cầu ông Q thanh toán số tiền 154.000.000 đồng theo Giấy
vay ngày 13/6/2023; cấp thẩm xác định ông Q trách nhiệm thanh toán cho
bà T số tiền 154.000.000 đồng là có cơ sở.
Về lãi suất: do các đương sự thỏa thuận về việc trả lãi nhưng không
xác định lãi suất tranh chấp về lãi suất, Tòa án cấp thẩm căn cứ
khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự xác định mức lãi suất 10%/năm, xác định tiền
lãi đối với khoản vay từ ngày 13/7/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm là 154.000.000
đồng x 11 tháng 07 ngày x 10%/năm = 14.348.446 đồng là phù hợp.
[2.4] Bị đơn kháng cáo cho rằng thực chất chỉ vay số tiền 70.000.000
đồng đồng ý trả lãi 10%/năm nhưng không tài liệu, chứng cứ chứng minh
yêu cầu của mình là có căn cứ. Bị đơn cung cấp Giấy vay tiền các ngày
08/8/2021, 10/4/2022 10/7/2023 nhưng không chữ của người cho vay
chỉ chữ của người vay; đồng thời, tại phiên tòa thẩm phúc thẩm
nguyên đơn khẳng định không xác lập việc vay tiền vào các ngày trên nên cấp
thẩm không xem xét cơ sở. Do đó, bị đơn kháng cáo nhưng không cung
cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình căn cứ
nên kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận.
[2.5] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa là phù hợp.
[2.6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Phạm Lệ Q1 phải chịu theo luật
định. Ông Phạm Bình Q người cao tuổi, đơn xin miễn án phí nên không
phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 148; khoản 1 Điều 308; Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
6
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phạm Bình Q, bà Phạm Lệ
Q1.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 73/2024/DS-ST ngày 20 tháng 6
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Phạm Lệ Q1 phải chịu số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn) đồng,
được khấu trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai thu tm ng án phí, l phí Tòa án 0000545 ngày 02 tháng 7 năm
2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành ph Bến Cát;
- TAND thành ph Bến Cát;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Hoàng Vương
Tải về
Bản án số 590/2024/DS-PT Bản án số 590/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 590/2024/DS-PT Bản án số 590/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất