Bản án số 1007/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 1007/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 1007/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 1007/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 1007/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 1007/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Trần Bích Th kiện bà Hồ Tôn Thiên Ng về Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1007/2024/DS-PT
Ngày 29 tháng 11 năm 2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và
thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Ngô Mạnh Cường
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị Hòa Hiệp
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thu Phương - Thư ký Toà án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh tham gia phiên toà: Ông Vũ Thanh Sơn - Kiểm sát viên cao cấp.
Trong các ngày 25 và ngày 29 tháng 11 năm năm 2024 tại trụ sở Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ
án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 595/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 8 năm
2024 về vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và thực hiện nghĩa vụ do
người chết để lại”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 204/2024/DS-ST ngày 08 tháng 4 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3201/2024/QĐ-PT
ngày 08 tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Bích Th, sinh năm 1972; có đơn xin xét xử
vắng mặt.
Địa chỉ cư trú: Lô EA1 đường 19A Khu công nghiệp Hiệp Ph, huyện
Nhà B, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Bà Hồ Tôn Thiên Ng, sinh năm 1983; có mặt.
2
Địa chỉ cư trú: Số 32/17 Hà Thị Kh, phường Trung Mỹ T, Quận 12,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Anh T, sinh năm 1991; địa
chỉ cư trú: 750 Phạm Văn Đ, phường Hiệp Bình Ch, thành phố Thủ Đ, Thành
phố Hồ Chí Minh; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Trẻ Huỳnh Gia B, sinh năm 2009; địa chỉ cư trú: Số 32/17 Hà Thị
Kh, phường Trung Mỹ T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Bà Hồ Tôn Thiên Ng, sinh năm
1983; địa chỉ cư trú: Số 32/17 Hà Thị Kh, phường Trung Mỹ T, Quận 12,
Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
2. Công ty bảo hiểm Chubb L Việt Nam; địa chỉ: Tầng 21 Tòa nhà Sun
Wah, 115 Nguyễn H, phường Bến Ng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Ngô Quốc B, sinh năm 1993; có
đơn xin xét xử vắng mặt.
Địa chỉ cư trú: Tầng 21, Tòa nhà Sun W, 115 Nguyễn H, phường Bến
Ngh, Q 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Bà Hồ Tôn Thiên Ng là Bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Theo trình bày của bà Trần Bích Th: Ngày 24/9/2018, bà Th cho vợ
chồng bà Hồ Tôn Thiên Ng và ông Huỳnh Chí H vay 2.000.000.000 đồng với
thời hạn vay 01 năm và lãi suất 1,5%/tháng. Ngày 24/9/2018, bà Thủy đã
chuyển khoản cho bà Nga 1.900.000.000 đồng. Ông H, bà Ng trả lãi được 01
năm và trả được 500.000.000 đồng tiền nợ gốc; số tiền 1.500.000.000 đồng
còn lại không thanh toán được. Ngày 25/9/2019, các bên làm lại giấy vay nợ
mới, theo đó bà Thủy cho ông H, bà Th vay 1.500.000.000 đồng, lãi suất
1,5%/tháng, thời hạn thanh toán chia làm 3 kỳ như sau: Trước ngày
25/01/2020 trả 500.000.000 đồng; trước ngày 25/5/2020 trả 500.000.000
đồng; trước ngày 25/9/2020 trả hết 500.000.000 đồng còn lại. Ông H, bà Ng
trả lãi tới ngày 25/11/2019 thì ngưng cho đến nay. Tháng 1/2020, ông Hàng
trả cho bà Th được 500.000.000 đồng nợ gốc. Tháng 3/2020 ông H chết. Bà
Ng tiếp tục tra thêm cho bà Th 500.000.000 đồng, sau đó bà Ng không tiếp
tục trả tiền cho bà Th mà cho rằng mình chỉ có nghĩa vụ trả 500.000.000 đồng
cho bà Th, phần còn lại thuộc về trách nhiệm của ông H.
Vì vậy, bà Th khởi kiện yêu cầu bà Nga thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay,
lãi vay, lãi quá hạn phát sinh từ hợp đồng vay số tiền là 710.000.000 đồng;
thanh toán 10%/năm trên số nợ 710.000.000 đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ
3
dân sự tương ứng với thời gian tạm tính từ khi thụ lý cho đến tháng 5/2022 là
108.000.000 đồng và tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ nêu trên cho đến khi
bản án có hiệu lực thi hành; yêu cầu cháu Huỳnh Gia B (bà Ng là người giám
hộ) có nghĩa thanh toán nghĩa vụ do ông H chết để lại (do nhận thừa kế căn hộ
B3.15.06 Lô B chung cư Him L Chợ Lớn 491 Hậu G, Phường 11, Quận 6);
buộc bà Ng thực hiện nghĩa vụ do ông H chết để lại (do bà Ng đã nhận số tiền
bồi thường tử vong do Công ty Bảo hiểm chi trả bồi thường do ông H chết là
400.000.000 đồng và 6.000.000.000 đồng do bà Ng bán phần vốn góp của ông
H trong Công ty TNHH TMDV Túc H).
2. Theo trình bày của bà Hồ Tôn Thiên Ng: Bà Ng không đồng ý với
yêu cầu khởi kiện của bà Trần Bích Th mà cho rằng mặc dù bà và chồng là
ông Huỳnh Chí H có ký giấy vay 2 tỷ đồng của bà Trần Bích Th vào ngày
24/9/2018 nhưng thực tế số tiền bà Th cho vay là 1,9 tỷ đồng với mức lãi suất
1,5%/tháng, thời hạn vay 01 năm. Bà Ng đã trả lãi đầy đủ được 01 năm và
thanh toán được 400.000.000 đồng nợ gốc. Ngày 25/9/2019 vợ chồng bà Ng
và bà Th ký lại giấy vay nợ mới có nội dung vay 1,5 tỷ, lãi suất 1,5%/tháng;
trả làm 03 đợt; ngày 26/01/2020 trả 500.00.000 đồng, ngày 26/5/2020 trả
500.000.000 đồng và ngày ngày 26/9/2020 trả hết 500.000.000 đồng. Trên
thực tế bà Ng đã trả được 02 tháng lãi và nợ gốc đợt 1 là 500.000.000 đồng.
Ngày 12/3/2020 ông H chết. Sau đó bà Ng tiếp tục trả cho bà Th 500.000.000
đồng. Tài sản của ông H là 1/2 căn hộ B3.15.06 Khu chung cư Him L- Chợ L
(là tài sản chung của bà Ng và ông H), giá nhận chuyển nhượng là 01 tỷ đồng
nhưng chưa thanh toán cho Công ty TNHH TMDV Túc H nên còn nợ lại.
Ngày 22/4/2020, bà Ng tiến hành thủ tục xin khai nhận di sản thừa kế của ông
H. Ngày 13/5/2020, ông Trần Văn M và bà Huỳnh Mậu K lập văn bản từ chối
nhận di sản thừa của ông H Trước sức ép của các chủ nợ, bà Ng đã bán căn hộ
này để trả nợ cho Công ty Túc H, bà Th, ông D cùng nhiều cá nhân khác
trong đó có bà Tôn Thúy M là mẹ của bà Nga. Bà Ng đã bán căn nhà này cho
bà M với giá 01 tỷ đồng (trong đó số tiền thừa kế là 500.000.000 đồng đã
được trả cho Công ty Túc H (470.000.000 đồng); 500.000.000 đồng còn lại là
1/2 tài sản chung của bà Ng và ông H. Do bà Ng đã trả số tiền này cho bà Th
nên không còn nghĩa vụ gì nữa. Đối với số tiền 500.000.000 đồng còn lại là
khoản nợ của ông Hàng nhưng do ông Hàng chết nên người thừa kế của ông
H là bà và bé Gia Bảo có nghĩa vụ trả nợ cho bà Th nhưng hiện nay ông H
không còn tài sản để thực hiện nghĩa vụ. Số tiền thừa kế từ hợp đồng bảo
hiểm của Công ty Bảo hiểm Chubb l đã được thanh toán là 390.000.000 đồng,
nhưng bà Ng đã thanh toán cho ông Phạm Trung D trong khoản vay 1,8 tỷ
đồng vào ngày 25/5/2020. Đối với căn nhà 104C Đỗ Ngọc Th, Phường 14, Q
5 thành phố Hồ Chí Minh là tài sản riêng của ông có trước khi kết hôn với bà
Ng là tài sản thế chấp của Ngân hàng VPBank.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 204/2024/DS-ST ngày 08 tháng 4 năm
2024, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định (tóm tắt):
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Bích Th:
4
Buộc bà Hồ Tôn Thiên Ng phải trả cho bà Trần Bích Th số tiền gốc là
500.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn là 151.000.000 đồng, tiền lãi trên nợ
gốc quá hạn là 477.375.000 đồng, tổng cộng là 1.128.375.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí
dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 31 tháng 5 năm 2024, bà Hồ Tôn Thiên Ng kháng cáo đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để xét xử lại.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Hồ Tôn Thiên Ng giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, chuyển
hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại với những lý do sau: Chưa xem
xét khoản nợ 1.800.000.000 đồng của vợ chồng bà Ng đối với ông Phạm
Trung D; không đưa bà Tôn Thúy M và Công ty Túc H tham gia tố tụng để
xem xét việc chuyển nhượng vốn góp giữa ông H với bà M; không triệu tập
ông Phạm Trung D tham gia tố tụng để làm rõ nghĩa vụ của ông H, bà Ng đối
với ông D về khoản nợ chung.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Hồ Tôn Thiên Ng trình
bày quan điểm:
Vụ án được thụ lý tại Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí
Minh nhưng do xác định bà Trần Thị D và bà Tôn Thúy M có địa chỉ ở nước
ngoài nên đã chuyển vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm. Tuy nhiên khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ
thẩm không đưa bà D và bà M tham gia tố tụng nhưng vẫn đưa vụ án ra xét
xử là giải quyết không đúng thẩm quyền. Ông H là người phải thực hiện nghĩa
vụ nhưng sau khi ông H chết, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa những người
thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông H (gồm ông Trần Văn M, bà
Huỳnh Mậu K, bà Hồ Tôn Thiên Ng, cháu Huỳnh Gia B) tham gia tố tụng là
vi phạm tố tụng.
Bên cạnh đó, mặc dù xác định Công ty Bảo hiểm Chubb L Việt Nam là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại không
đưa Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Túc H, bà Tôn Thúy M, ông
Phạm Trung D tham gia tố tụng là thiếu sót vì: Bà Th yêu cầu bà Ng thực hiện
nghĩa vụ do ông H đã chết để lại do bà Nga đã nhận 400.000.000 đồng bảo
hiểm từ Công ty Bảo hiểm Chubb L Việt Nam và nhận 6.000.000.000 đồng từ
việc ông H chuyển nhượng vốn góp của mình trong Công ty TNHH Thương
mại và Dịch vụ Túc H cho bà M, đồng thời bà Ng đã đã trả khoản nợ chung
1.800.000.000 đồng của vợ chồng bà Nga, ông H cho ông Phạm Trung D.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xác định yêu cầu khởi kiện của bà Th
là yêu cầu thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại thì những người thừa kế
của ông H có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ này trong phạm vi phần di sản
được hưởng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không xác định những di sản của
ông H để lại nhằm xác định nghĩa vụ của những người được hưởng thừa kế
5
phải thực hiện là không đúng pháp luật. Bên cạnh đó, Tòa án cấp sơ thẩm còn
nhận định cho rằng bà Ng là người nhận số tiền 6 tỷ đồng từ việc ông Hàng
bán cổ phần của mình trong Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Túc H
cho bà M nhưng không có chứng cứ chứng minh là suy diễn, áp đặt, làm bất
lợi cho bà Ng.
Từ những vi phạm về tố tụng và việc thu thập, đánh giá chứng cứ chưa
đầy đủ, toàn diện của Tòa án cấp sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn
bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại
theo đúng quy định pháp luật.
Bà Hồ Tôn Thiên Nga trình bày: Bà Ng thống nhất với quan điểm của
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
- Về tố tụng: Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định pháp
luật; những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền, nghĩa vụ theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Về nội dung: Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông H
gồm bà Ng, trẻ Huỳnh Gia B, cha mẹ ruột của ông H là ông Trần Văn M và
bà Huỳnh Mậu K. Ngày 13/5/2020 ông M bà K đã lập văn bản từ chối nhận di
sản của ông H. Như vậy, di sản của ông H để lại là 1/2 giá trị căn hộ chung cư
số B3.15.06 lô B Khu nhà ở cao tầng tại Phường 11, Quận 6, Thành phố Hồ
Chí Minh nhưng đã được bà Ng bán cho bà M (mẹ ruột của bà Ng) vào ngày
30/5/2020 với giá 01 tỷ đồng là thấp hơn giá trị thật của căn nhà. Ngoài ra, di
sản của ông H để lại còn là số tiền 400.000.000 đồng do Công ty Bảo hiểm
Chubb L chi trả cho bà Ng, đồng thời trước thời điểm chết 01 ngày, ông H đã
ký chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp trong Công ty TNHH Thương mại
và Dịch vụ Túc H cho bà M với giá 06 tỷ đồng. Như vậy, toàn bộ di sản của
ông Hàng để lại được bà Nga quản lý nên bà Ng có nghĩa vụ thanh toán số
tiền vay của ông Hàng, bà Nga cho bà Th là đúng quy định pháp luật.
Từ những nhận định trên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo của bà Nga và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được
xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án
nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của ông bà Hồ Tôn Thiên Ng nộp trong hạn luật
định, đúng quy định pháp luật nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
6
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự và người đại diện hợp pháp
của các đương sự vắng mặt nhưng thuộc trường hợp đã có đơn xin xét xử
vắng mặt hoặc đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt
không có lý do chính đáng, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử
vụ án vắng mặt họ theo quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân
sự.
[3] Xét kháng cáo của bà Hồ Tôn Thiên Ng như sau:
[3.1] Tại Giấy vay tiền lập ngày 25/9/2019 thể hiện nội dung: Bà Trần
Bích Th cho vợ chồng bà Hồ Tôn Thiên Ng, ông Huỳnh Chí H vay số tiền 1,5
tỷ đồng, lãi suất thỏa thuận 1,5%/tháng, thời hạn vay 12 tháng, thanh toán nợ
gốc làm 03 đợt. Các đương sự trong vụ án cùng thừa nhận Giấy vay tiền trên
là có thật và bà Th xác nhận ông H, bà Ng đã trả được nợ gốc 1 tỷ đồng. Ngày
12/3/2020, ông H chết. Như vậy, số tiền ông H và bà Ng còn nợ của bà Th là
500.000.000 đồng cùng với tiền lãi chưa thanh toán.
[3.2] Theo đơn khởi kiện, bà Trần Bích Th yêu cầu: (i) Bà Ng thực hiện
nghĩa vụ trả 710.000.000 đồng tiền nợ và tiền lãi theo thỏa thuận và thực hiện
nghĩa vụ do người chết (ông H) để lại vì bà Nga đã nhận 400.000.000 đồng
tiền bảo hiểm và 6.000.000.000 đồng từ việc bán cổ phần của ông H trong
Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Túc H; (ii) cháu Huỳnh Gia B (bà Ng
là người giám hộ) thực hiện nghĩa vụ do người chết (ông H) để lại vì cháu B
được hưởng căn hộ B3.15.06 Lô B chung cư Him Lam Chợ L 491 Hậu G, P
11, Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 13/5/2020, ông M và bà K có văn
bản từ chối hưởng di sản thừa kế đối của ông H với căn hộ B3.15.06 Lô B
chung cư Him Lam Chợ L 491 Hậu G, P 11, Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, ngoài tài sản trên, ông H còn sở hữu giá trị cổ phần đã chuyển
nhượng cho bà M và căn nhà số 104C Đỗ Ngọc Th P 14, Q 5, Thành phố Hồ
Chí Minh. Như vậy, ông Minh và bà K vẫn còn quyền được hưởng thừa kế
của ông H.
[3.3] Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T xác định lại yêu cầu khởi kiện chỉ
buộc bà Ng trả tiền gốc và tiền lãi theo quy định. Hội đồng xét xử xét thấy,
mặc dù bà Th chỉ khởi kiện bà Ng trả lại tiền nợ gốc và tiền lãi nhưng việc
thực hiện nghĩa vụ của bà Ng có liên quan tới nghĩa vụ của những người thừa
kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Hàng là ông Trần Văn M, những
người thừa kế của bà Huỳnh Mậu K (do bà K đã chết) và cháu Huỳnh Gia B.
Do đó, cần thiết phải đưa những người này tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
[3.4] Mặt khác, để có cơ sở xác định nghĩa vụ của người phải thực hiện
nghĩa vụ do người chết để lại theo quy định tại Điều 615 Bộ luật dân sự năm
2015 thì Tòa án cần phải xác định ông Hàng để lại những tài sản gì? Những ai
được hưởng thừa kế với tư cách là hàng thừa kế thứ nhất của ông H? Ngoài
nghĩa vụ đối với bà Th, ông H còn phải thực hiện nghĩa vụ nào khác nữa hay
không? Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng sau khi ông Hàng bán cổ phần của mình
7
trong Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Túc H cho bà Tôn Thúy M (mẹ
của bà Ng) thì bà Ng đã nhận 6.000.000.000 đồng từ giao dịch này nhưng bà
Ng không thừa nhận và cũng không có chứng cứ chứng minh sự việc giao
nhận tiền; do đó, chưa đủ cơ sở xác định bà Ng đã nhận tiền từ bà M. Trường
hợp này cần phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ để làm rõ có việc mua bán,
giao nhận tiền đối với số cổ phiếu trên hay không. Ngoài ra, ông H và bà Ng
còn tạo lập được tài sản chung là căn hộ B3.15.06 Lô B chung cư Him Lam
Chợ L 491 Hậu G, P 11, Q 6, Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng theo trình bày
của bà Ng thì tài sản này có nguồn gốc do ông Chung Hữu C và bà Lương
Khiết M bán cho Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Túc H với giá
2.700.000.000 đồng, sau đó Công ty này bán lại cho ông H, bà Ng với giá
1.000.000.000 đồng, tuy nhiên vợ chồng bà Ng, ông H chưa thanh toán tiền.
Như vậy, việc đưa Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Túc H và bà Tôn
Thúy M tham gia tố tụng là cần thiết để làm rõ giá trị thật của hợp đồng mua
bán căn hộ là bao nhiêu, ông H và bà Ng đã thanh toán tiền chưa, từ đó mới
xác định được giá trị tài sản bà Ng, cháu Bảo được hưởng cũng như nghĩa vụ
mà hai người này phải thực hiện đối với bà Th.
[3.4] Như vậy, cùng với việc xác định thiếu người tham gia tố tụng và
thu thập chứng cứ chưa đầy đủ dẫn tới việc giải quyết vụ án chưa toàn diện,
triệt để, mà ở tại phiên tòa phúc thẩm không thể khắc phục được, vì vậy Hội
đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà Hồ Tôn Thiên Ng, hủy toàn bộ bản
án sơ thẩm để giải quyết lại. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, bà Ng còn xác
định ngoài tài sản chung vợ chồng, ông H còn có tài sản riêng là căn nhà tại
địa chỉ 104C Đỗ Ngọc Th, P 14, Q 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Xét thấy, đây
là tình tiết mới có liên quan tới việc thực hiện nghĩa vụ do ông Hàng chết để
lại mà Tòa án cấp sơ thẩm đã không biết được trong quá trình giải quyết vụ
án, nên việc hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại trong trường hợp này là vì lý
do khách quan.
[4] Với nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy quan điểm đề nghị của
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là
không phù hợp với nhận định trên nên không được chấp nhận; quan điểm của
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Hồ Tôn Thiên Ng phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Án phí dân sự sơ thẩm sẽ được xác định lại sau khi Tòa án cấp sơ
thẩm giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bà
Hồ Tôn Thiên Ng không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ: Khoản 3 Điều 308 và Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự.
8
1. Chấp nhận kháng cáo của bà Hồ Tôn Thiên Ng.
2. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 204/2024/DS-ST ngày 08
tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; chuyển hồ
sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo
đúng quy định pháp luật.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Hồ Tôn Thiên Ng không phải chịu;
hoàn trả cho bà Nga 300.000 đồng tạm ứng theo Biên lai thu số 0005332 ngày
21 tháng 6 năm 2024 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Vụ Pháp chế và Quản lý Khoa học;
- VKSND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
- Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh;
- Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh;
- Cục Thi hành án dân sự TP. Hồ Chí Minh;
- Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6;
- Các đương sự;
- Lưu VT; HSVA - NTTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Ngô Mạnh Cường
9
CÁC THẨM PHÁN THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Ngọc Thu Hương - Trần Thị Hòa Hiệp Ngô Mạnh Cường
Tải về
Bản án số 1007/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 1007/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 252/2024/HDS-PT ngày 27/12/2024 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm