Bản án số 32/2025/DS-PT ngày 27/02/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 32/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 32/2025/DS-PT ngày 27/02/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 32/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của chị Ngô Thị Huyền T, giữ nguyên Bản án Dân sự sơ thẩm số 66/2024/DS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 32/2025/DS-PT
Ngày: 27-02-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng đặt
cọc”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phn Hội đng xét x phúc thm gm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Huỳnh Châu Thạch
Các Thẩm phán: Ông Dư Thành Trung
Bà Huỳnh Nguyễn Thanh Trúc
- Thư phiên toà: Ông Nguyễn Đạt Nguyên Thư Tòa án, Toà án
nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Ông Trần Minh Công
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 27 tháng 02 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 159/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 8
năm 2024 về tranh chấp: “Hợp đồng đặt cọc”.
Do Bn án Dân s thẩm s 66/2024/DS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử s353/2024/QĐ-PT ngày 23 tháng 8
năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 179/2024/QĐ-PT ngày 13
tháng 9 năm 2024 giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Chị NThị Huyền T, sinh năm: 1990; cư trú tại tổ dân phố
Đ, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp: Chị Nguyễn Mộng Thanh V, sinh năm: 2000;
trú tại tổ n phố G, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng (Văn bản ủy quyền số
07, quyển số 01/2023 SCT/CK, ĐC do Văn phòng C2 chứng nhận ngày
19/5/2023); có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật Trà Thị Thu T1, sinh
năm: 1995; địa chỉ liên hệ: P.602A, tầng 6, số B đường M, phường Đ, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh. Luật của Công ty L4 - Đoàn Luật Thành phố H;
có mặt.
2
- Bị đơn: Ông Ngô Anh V1, sinh năm: 1956; cư trú tại tổ dân phố T, (nay
T), thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ngô Thị Kim A, sinh năm: 1991; cư trú tại tổ n phố T, (nay T),
thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; có đơn đề nghị vắng mặt.
2. Ngô Thị Bích H, sinh năm: 1993; cư trú tại tổ dân phố T, (nay T),
thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; có đơn đề nghị vắng mặt.
3. Chị Ngô Thị N, sinh năm: 1993; trú tại tổ dân phố T, (nay T), thị
trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; có đơn đề nghị vắng mặt.
4. Ông Đặng Văn L, sinh năm: 1974; trú tại sA, tổ dân phố G, thị trấn
Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; có đơn đề nghị vắng mặt.
5. Bà Trần Thị T2, sinh năm: 1972; cư trú tại số A, tổ dân phố T, thị trấn N,
huyện L, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
6. Đào Thị L1, sinh năm: 1978; trú tại tổ dân phố Q, thị trấn Đ,
huyện L, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
7. Ông Phạm Ngọc T3, sinh năm: 1987; trú tại số A, tổ dân phố Đ, thị
trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; có đơn đề nghị vắng mặt.
- Người kháng cáo: Chị Ngô Thị Huyền T Nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo nội dung đơn khởi kiện ghi ngày 31/5/2023 của chị Ngô Thị Huyền
T, lời trình bày tại các bản tự khai trong quá trình tham gia tố tụng tại giai
đoạn sơ thẩm của chị Nguyễn Mộng Thanh V, người đại diện theo ủy quyền của
chị T, thì: Chị Ngô Thị Huyền T ông Ngô Anh V1 thỏa thuận chuyển
nhượng ½ diện tích đất thuộc các thửa số 117, 118, 121, tbản đồ số 15, tại tổ
dân phố T, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất số CA 800975 do Ủy
ban nhân n huyện L cấp ngày 08/11/2016 cho ông NAnh V1; giá chuyển
nhượng là 2.400.000.000đ. Ngày 28/8/2020 chị T và ông V1 đã ký hợp đồng đặt
cọc để ghi nhận những thỏa thuận trên và chị T đã thanh toán ông V1 số tiền đặt
cọc 2.000.000.000đ, sự làm chứng của ông Bùi Văn T4. Theo thỏa thuận
tại hợp đồng đặt cọc đã ký, hai bên thống nhất thời hạn ký kết hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất 60 ngày kể từ ngày hợp đồng cọc. Tuy nhiên,
hết thời hạn nêu trên, ông V1 vẫn không thực hiện việc công chứng hợp đồng để
sang tên nhà và quyền sử dụng đất cho chị T. Chị T đã nhiều lần liên hđyêu
cầu ông V1 thực hiện thỏa thuận kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho chị T tại Ủy ban nhân dân hoặc Văn phòng công chứng nhưng ông
3
V1 vẫn không thực hiện. Do vẫn mong muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng nên
sau đó chị T đã chủ động liên hệ với ông V1 nhằm hỏi về việc đi công chứng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên để làm thủ tục sang tên cho chị
nhưng ông V1 cố tình né tránh, không có phản hồi.
Ngày 18/4/2023 chị T đã gửi thông báo bằng văn bản về việc đnghị ông
V1 sắp xếp việc kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị
nhưng ông V1 không thiện chí giải quyết. vậy, chị T khởi kiện yêu cầu
duy trì hợp đồng đặt cọc ngày 28/8/2020 giữa chị T ông V1. Buộc ông V1
phải hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với ½ diện tích đất
thuộc các thửa 117, 118, 121 tờ bản đồ 15 thị trấn N, huyện L; nay 2.075m
2
thuộc thửa 319 tờ bản đồ 15, chị sẽ thanh toán cho ông V1 400.000.000đ còn lại.
Đến ngày 07/9/2023 chị T thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu hủy hợp đồng đặt
cọc ngày 28/8/2020 giữa bên đặt cọc là chị T và bên nhận đặt cọc là ông V1; yêu
cầu ông V1 phải trả lại cho chị số tiền đặt cọc là 2.000.000.000đ và tiền phạt cọc
là 2.000.000.000đ, tổng cộng là 4.000.000.000đ.
Đối với yêu cầu của ông V1 vviệc đòi lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CA 800975 thì hiện nay chị T đang giữ bản gốc của Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất này. Chị T đồng ý trả lại cho ông V1 với điều kiện ông
V1 phải trả số tiền nói trên cho chị. Ngoài ra chT không còn yêu cầu gì khác.
- Theo lời trình bày của ông Ngô Anh V1 thì: Ông vợ là Thị N1,
vợ chồng ông 03 người con chung Ngô ThKim A, Ngô Thị Bích H, Ngô
Thị N. Quá trình chung sống vchồng ông được Ủy ban nhân dân huyện L cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 4.146m
2
gồm 2.139m
2
thuộc thửa 117, 1.050m
2
thuộc thửa 118, 957m
2
thuộc thửa 121 tờ bản đồ 15 tại
tổ dân phố T, thị trấn N, huyện L, tỉnh m Đồng, số sổ CA 800975. Tháng
02/2020 (âm lịch) N1 chết; trước khi chết thì N1 làm di chúc thể hiện
diện tích nói trên là tài sản chung của ông V1 và bà N1 nên phần của bà N1 là ½
diện tích đất trên, N1 có nguyện vọng cho 03 người con phần đất thuộc quyền
sử dụng của bà. Vì vậy, sau khi bà N1 chết thì ông có liên hệ để làm thủ tục tách
thửa đất cho ba người con. Do ông quen biết Đào Thị L1 nên đã được
L1 giới thiệu với ông Đặng Văn L để có thể làm được thủ tục tách thửa, khi gặp
thì ông L hứa làm được giữ bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói
trên của ông nhưng mãi sau đó ông L không làm được.
Sau đó ông nguyện vọng chuyển nhượng một phần thửa đất trên để
tiền cho con lo cuộc sống. Ngày 28/8/2020 chị Ngô Thị Huyền T liên hệ để
mua 02 sào với giá 2.400.000.000đ, ông có nhờ ông L làm hợp đồng đặt cọc, tối
ngày 28/8/2020 ông L nói với ông ông L, chị T, T2 đang trong nhà ông
H1 nên gọi ông vào nông H1 hợp đồng, ông không biết ông H1
ai mà ông L chỉ dẫn thì ông mới biết để vào nhà ông H1. Tại nhà ông H1, ông L
4
đưa một giấy viết tay đặt cọc cho ông ký, khi xong thì chị T không tiền
giao nên việc chuyển nhượng không thành. Hợp đồng đặt cọc đánh máy chị
T nộp cho Tòa án thì không phải chữ của ông. Ông khẳng định ông không
nhận số tiền 2.000.000.000đ nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn đồng thời ông yêu cầu chị T phải trả lại cho ông bản gốc Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CA800975 nói trên. Ngoài ra ông không còn
yêu cầu gì khác.
- Quá trình giải quyết vụ án; Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ chị Ngô
Thị Kim A nhưng chị Kim A vắng mặt không do không văn bản
trình bày ý kiến gửi đến Tòa án.
Ngày 12/6/2024 Tòa án nhận được đơn xin xét xử vắng mặt của chị Kim A.
Đối với việc tranh chấp giữa chị T và ông V1 thì chị không tham gia nên không
được biết, chị không có ý kiến hay yêu cầu gì trong vụ án này.
- Chị Ngô Thị Bích H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt
không rõ lý do và không có văn bản trình bày ý kiến gửi đến Tòa án.
- Theo lời trình bày của chị Ngô Thị N thì: Chị con gái của ông V1,
N1. Quá trình chung sống cha, mẹ chị tạo lập được tài sản diện tích đất
2.139m
2
thuộc thửa 117, 1.050m
2
thuộc thửa 118, 957m
2
thuộc thửa 121 tờ bản
đồ 15 tại tổ dân phố T, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng, đã được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Trước khi chết mẹ chị để lại di chúc cho ba
chị em chị được hưởng ½ di sản của đlại. Sau khi N1 chết thì gia đình
chị chưa phân chia di sản thừa kế mà toàn bộđất trên vẫn do ông V1 quản lý,
sử dụng, ngoài ra không còn ai khác sinh sống sử dụng đất trên. Việc ông
Văn L2 hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì ba chị em chị
đều không ai biết cũng không ai đến tranh chấp đất với chị em chị. Nay
chị Ngô Thị Huyền T khởi kiện tranh chấp hợp đồng đặt cọc với ông V1 thì chị
khẳng định không biết việc chuyển nhượng nên chem chkhông liên quan đến
việc tranh chấp, việc tranh chấp giữa ông V1 với chị T thì ông Văn tự giải quyết;
chị không yêu cầu trong vụ án này làm đơn yêu cầu Tòa án giải
quyết vắng mặt chị.
- Theo lời trình bày của ông Đặng Văn L thì: Do có quen biết với Đào
Thị L1, ông Ngô Anh V1 nên ông biết sự việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc giữa
chị T ông V1 cụ thể, Đào Thị L1 đứng tên trên hai thửa đất tại thị trấn Đ;
do L1 vay tiền của T2 (không biết họ tên) nên đã lập hợp đồng chuyển
nhượng 02 thửa đất này cho bà T2 để đảm bảo cho việc vay tiền.
Ông V1 vợ N1 (đã chết) được y ban nhân dân huyện L cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích là 4.146m
2
gồm 2.139m
2
thuộc thửa
117, 1.050m
2
thuộc thửa 118, 957m
2
thuộc thửa 121 tờ bản đồ 15 tại tổ dân phố
T, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng, số sổ CA 800975. Trước khi chết thì v
5
của ông V1 để lại di chúc cho ba người con của ông V1, N1 được ởng
½ i sản trên. Sau khi bà N1 chết thì hai bên chưa chia di sản thừa kế theo quy
định. Sau đó, ông V1 chung sống với L1 nên ông V1 đồng ý đứng ra nhận trả
khoản nmà L1 ncủa T2, cụ thể chính xác nợ bao nhiêu thì ông không
biết chnghe các bên nói chuyện bà L1 nợ T2. vậy, ông V1 đồng ý
lập hợp đồng đặt cọc đchuyển nhượng ½ thửa 117, 118, 121 cho T2 nhưng
T2 thống nhất để ông V1 lập hợp đồng đặt cọc với chị T. Sau khi thống nhất
thì bà T2, chị T có nhờ ông soạn thảo hợp đồng đặt cọc ngày 28/8/2020 giữa chị
T ông V1, việc đưa tiền như thế nào ông không biết. Sau khi ông soạn thảo
xong hợp đồng này thì ông V1 chị T ra quán phê hợp đồng, T2
chị T có đưa thêm cho ông V1 bao nhiêu tiền thì ông cũng không biết.
Sau đó, bà T2 lập hợp đồng chuyển nhượng 02 thửa đất ở Đinh Văn lại cho
L1 ông V1 cùng đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi
ông V1 L1 cùng đứng tên trên 02 thửa đất Đinh Văn tông V1, L1
vay tiền của ông T3 (con nhà Hòa C) nên ông T3 yêu cầu lập hợp đồng
chuyển nhượng 02 thửa đất trên cho ông T3 để làm tin, sau đó một mình L1
trả nợ cho ông T3 n ông T3 lập hợp đồng chuyển nhượng lại 02 thửa đất trên
cho bà L1 đứng tên. Từ đó, giữa ông V1 và bà L1 phát sinh mâu thuẫn.
Trước khi lập hợp đồng đặt cọc ngày 28/8/2020 thì ông V1 đã liên hệ đ
tách thửa cho ba người con của ông V1 nhưng do không đủ diện tích tối thiểu để
tách thửa nên không làm được. Ông V1 nhờ ông liên hệ đo đạc, tách thửa lại
cho đủ đất cho ba người con thì L1 đưa bản phô Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông. Ông đã liên hệ đo đạc xong nhưng khi ký giấy tờ thì
ông V1 và bà L1 mâu thuẫn nên ông V1 không ký, không làm được thủ tục tách
thửa. Ông không cầm bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông V1,
hiện nay ai gitông cũng không biết, ông cũng không nhận tiền của ông V1
không chứng kiến việc giao nhận tiền giữa các bên. Sau khi hợp đồng đặt
cọc thì các bên mâu thuẫn nên không có việc giao nhận đất trên thực tế. Nay chị
T khởi kiện tranh chấp hợp đồng đặt cọc với ông Ngô Anh V1 thì không liên
quan đến ông. vậy, ông không yêu cầu trong ván này. Ông yêu cầu
Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt ông.
- Theo lời trình bày của Trần Thị T2 thì: quen biết với Đào Th
Liên T5 khoản 10 năm nay nên cho L1 vay tiền nhiều lần, cũng
thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất với L1. Vào tháng 8/2020
L1 gọi điện thoại cho hỏi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
không thì nhận chuyển nhượng lô đất của ông V1. Bà tìm hiểu và biết lô đất đẹp.
Do chị T chị em chơi với nhau lâu năm nên giới thiệu cho chị N
Thị Huyền T nhận chuyển nhượng đất này. Sau đó, chị T đến nhà ông
V1 gặp ông V1 L1; do thấy đất vị trí đẹp, đúng nhu cầu của chị T nên
hai bên thỏa thuận ông V1 chuyển nhượng cho chị T ½ thửa 117, 118, 121 với
6
giá là 2.400.000.000đ, thỏa thuận mua theo sào chứ không phải mua theo
mét ngang, mét vuông.
Đến tối ngày 28/8/2020 khi đang nhà ông H1 thôn T, Đ,
huyện L (là người quen của bà) thì ông V1 gọi hỏi bà về việc lập hợp đồng đặt
cọc thì bà trao đổi với chị T sau khi thống nhất thì ông V1, L1, chị T, ông
Đặng Văn L cùng vào nhà ông H1 đlập hợp đồng đặt cọc, ông L vào nhà ông
H1 do ông V1 nhờ chứ không gọi ông L vào. Tại nhà ông H1 thì ông L
người trực tiếp viết hợp đồng đặt cọc giúp cho ông V1, chị T; sau đó chị T, ông
V1 cùng vào hợp đồng này. Sau khi hợp đồng đặt cọc thì chị T giao cho
ông V1 2.000.000.000đ tiền mặt trước sự chứng kiến của bà, ông Bùi Văn T4,
Đào Thị L1, ông Đặng Văn L. không để ý là ông H1 mặt chứng
kiến hay không. Ông V1 đưa bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
chị T. Sau khi nhận tiền thì ông V1, L1, chị T đi vcòn ông L lại nhà ông
H1 nhậu. Vài tháng thì bà T2 nghe ông V1 không tách thửa được nên giữa chị T
và ông V1 phát sinh tranh chấp.
Sau sự việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên; giữa và L1
nhận chuyển nhượng chung với nhau một đất tại thị trấn Đ nhưng
không nhớ số lô, số thửa. Do bạn bè với nhau nên bà có cho bà L1 đứng tên tn
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để L1 tiện đi thế chấp vay vốn Ngân
hàng, sau đó L1 không vay được do vướng nợ xấu. Thời điểm này do L1
nợ tiền nên bà L1 đồng ý chuyển lô đất Đinh Văn sang cho bà đứng tên.
Sau đó, bà không nhớ do tại sao nhưng đã chuyển cho ông V1, L1 cùng
đứng tên đất này Đinh Văn . Hiện nay đất này đã đứng tên L1, do
tại sao ông V1 không đứng tên nữa thì không rõ. khẳng định không
việc ông V1 chuyển nhượng quyền sử dụng đất để cấn trừ trả nợ cho bà. Trong
thực tế chỉ giới thiệu cho chị T nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nay
chị T và ông V1 phát sinh tranh chấp hợp đồng đặt cọc ngày 28/8/2020 thì
yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
- Đào Thị L1 thường xuyên vắng mặt tại địa phương nên Tòa án không
làm việc, lấy lời khai được.
- Ông Phạm Ngọc T3 cho biết ông không họ hàng với các đương s
trong vụ án nêu trên. Ông bà Đào Thị L1 hàng xóm với nhau, còn ông V1
thì ông không biết. Ông không rõ ông V1L1 mối quan hệ như thế nào,
chỉ biết ông V1, L1 cùng đứng chung trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Vào ngày 01/12/2021 L1 ông V1 đến nhà ông hỏi vay s tiền
khoảng 700.000.000đ đến 800.000.000đ, lãi suất thoả thuận, thời hạn vay
khoảng 03 -> 04 tháng (do lâu ngày ông không nhớ). Khi vay thì hai bên không
viết giấy vay với nhau chỉ thoả thuận thông qua một hợp đồng chuyển
7
nhượng quyền sử dụng đất để làm biện pháp bảo đảm khoản vay, khi nào ông
V1, L1 trả lại tiền thì ông sẽ chuyển nhượng quyền sử dụng đất lại cho hai
người này. Theo đó, ông V1, L1 có chuyển nhượng cho ông diện tích đất
thuộc các thửa 1164, 1165, tờ bản đồ số 20, thị trấn Đ, huyện L theo hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/12/2021; số công chứng 10982 tại
Văn phòng C3, ông đã nộp hồ đã đính chính sang tên ông tại Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Sau khi lập xong hợp đồng chuyển nhượng nêu trên thì
ông đưa cho L1 số tiền vay nêu trên, ông Văn C1 ra Văn phòng công
chứng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông.
Đến ngày 01/3/2022 bà L1 đã trả cho ông toàn bộ số tiền vay, khi đó không
mặt ông V1, do L1 đứng ra trả tiền cho ông mà không ông V1
cùng trả thì ông không rõ. Do ông không biết ông V1 ai, ông cũng không
số điện thoại ông V1 nên khi bà L1 trả tiền vay cho ông thì ông và L1 ra Văn
phòng C3 làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hai thửa đất nêu trên
lại cho L1, do bận việc nên bà L1 có nhờ ông đi nộp hồ sơ tại Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai huyện L để đính chính sang tên lại cho L1. Như vậy,
giao dịch vay tiền và biện pháp đảm bảo khoản vay giữa ông ông V1, L1
đã chấm dứt. Do đó, qua yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bđơn thì
ông không có ý kiến và không có yêu cầu gì trong vụ án.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án số 66/2024/DS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2024; Toà án nhân dân
huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng đã xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị Huyền T đối với
ông Ngô Anh V1 về việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc.
Hủy hợp đồng đặt cọc ngày 28/8/2020 giữa bên đặt cọc chị Ngô Thị
Huyền T (bên A) và bên nhận đặt cọc là ông Ngô Anh V1, bà Lê Thị N1 (bên B)
đối với việc chuyển nhượng ½ diện tích đất 4.146m
2
gồm 2.139m
2
thuộc thửa
117, 1.050m
2
thuộc thửa 118, 957m
2
thuộc thửa 121, tờ bản đồ 15 tại tổ dân phố
T, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị Huyền T đối với ông
Ngô Anh V1 v việc yêu cầu ông Ngô Anh V1 phải thanh toán số tiền
4.000.000.00 gồm s tiền đặt cọc 2.000.000.000đ s tiền phạt cọc
2.000.000.000đ.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Ngô Anh V1 về việc kiện đòi lại tài sản
đối với chị Ngô Thị Huyền T.
Buộc chị Ngô Thị Huyền T phải trả lại cho ông Ngô A Văn bản gốc Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất số CA 800975 do do Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 08/11/2016 cho
8
ông Ngô Anh V1, Thị N1 đối với diện tích đất 4.146m
2
gồm 2.139m
2
thuộc thửa 117, 1.050m
2
thuộc thửa 118, 957m
2
thuộc thửa 121 tờ bản đồ 15 thị
trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về chi phí ttụng, án phí, quyền kháng cáo
trách nhiệm thi hành án của các đương sự.
Ngày 19/7/2024 chị Ngô Thị Huyền T đơn kháng cáo đề nghị sửa Bản
án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa,
Chị Nguyễn Mộng Thanh V, người đại diện theo ủy quyền của chị Ngô Thị
Huyền T, vẫn giữ nguyên kháng cáo.
Ông Ngô Anh V1 không đồng ý với kháng cáo của bị đơn; đề nghị giải
quyết như Bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân
theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử
các đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp
hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân snăm 2015. Về nội dung: Đề
nghị không chấp nhận kháng cáo của chị Ngô Thị Huyền T, giữ nguyên Bản án
sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp thẩm c định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của chị Ngô Thị Huyền T; thủ
tục kháng cáo được thực hiện theo đúng quy định tại các Điều 271, 272, 273 Bộ
luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nên đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét giải
quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của chị Ngô Thị Huyền T thì thấy rằng:
[2.1] Theo hồ vụ án thể hiện: Vào ngày 28/8/2020 giữa ông Ngô Anh
V1 chị T kết hợp đồng đặt cọc với nội dung ông V1 chuyển nhượng cho
chị T ½ diện tích thuộc các thửa 117, ½ diện tích thửa 118 ½ diện tích thửa
12; tất cả thuộc tờ bản đồ 15, tổ dân phố T, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng
với giá chuyển nhượng 2.400.000.000đ. Tuy nhiên sau đó hợp đồng đặt cọc
không tiếp tục thực hiện được do ông V1 không thiện chí nên các bên phát sinh
tranh chấp.
Ông V1 thừa nhận việc hợp đồng đặt cọc nói trên với chị T. Tuy
nhiên, ông cho rằng ông không vào hợp đồng đặt cọc đánh máy ghi ngày
28/8/2020 chị T đã giao nộp cho Tòa án chvào một hợp đồng viết
tay và chị T là người giữ hợp đồng này. Việc không thực hiện được hợp đồng
9
do chị T không thực hiện việc giao tiền đặt cọc như hợp đồng đã nên nay
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[2.2] Xét thấy, theo Kết luận giám định số 56/KL-KTHS (TA) ngày
2/01/2024 của Phòng K Công an tỉnh L thì: “Chữ ký, chữ viết ghi họ tên Ngô
Anh V1 trên tài liệu cần giám định hiệu A so với chữ chviết ghi họ tên
Ngô Anh V1 trên các tài liệu mẫu so sánh hiệu M1, M2, M3, M4 do cùng
một người viết ra. Dấu vân tay bên phải chữ ghi họ tên Ngô Anh Văn I
trên tài liệu cần giám định hiệu A so với dấu vân tay của Ngô Anh Văn I trên
tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M5 là dấu vân tay của cùng một người in ra”. Đồng
thời, tại Kết luận giám định số 7718/1/KL-KTHS ngày 10/01/2025 Phân viện kỹ
thuật hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh V2 ng xác định dấu vân tay dưới
mục “Bên B” ghi họ tên Ngô Anh V1 trên mẫu cần giám định (ký hiệu A) với
dấu vân tay ngón trỏ phải các mẫu so sánh (ký hiệu M1, M2) là dấu vân tay của
cùng một người.
Như vậy, có căn cứ để xác định việc chị T ông V1 xác lập hợp đồng đặt
cọc để thỏa thuận chuyển nhượng quyền sdụng đất vào ngày 28/8/2020
xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên sau khi lập hợp đồng đặt cọc thì do một số nguyên
nhân nên hai bên không thiện ctiếp tục thực hiện hợp đồng như đã ký. Hơn
nữa, diện tích đất mà hai bên thỏa thuận đặt cọc được cấp quyền sử dụng cho cả
ông V1, N1. Sau khi N1 chết tchưa làm thủ tục mthừa kế theo quy
định nhưng khi hai bên hợp đồng đặt cọc lại chỉ có ông V1 chị T; thiếu s
tham gia đầy đủ của những người thuộc hàng thừa kế của N2 không đảm
bảo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án, cả chị T ông V1 đều thống nhất hủy hợp
đồng đặt cọc nói trên nên Tòa án cấp thẩm tuyên hủy hợp đồng đặt cọc lập
ngày 28/8/2020 giữa chị T và ông V1 là có căn cứ.
[2.3] Đối với việc giải quyết hậu quả của việc hủy hợp đồng đặt cọc thì
thấy rằng: Chị T cho rằng đã giao số tiền đặt cọc 2.000.000.000đ cho ông V1
vào tối ngày 28/8/2020 tại nhà ông H1 không viết giấy tờ giao nhận
tiền nhưng việc giao nhận tiền sự chứng kiến của ông L, T2, ông T3,
L1; còn ông V1 xác định T chưa giao số tiền nói trên nên ông không đồng ý
trả lại theo yêu cầu của nguyên đơn.
Xét thấy, tại Điều 2 của hợp đồng đặt cọc nói trên ghi “Bên A đã đưa
trước cho bên B số tiền 2.000.000.000đồng” nhưng đến phần cuối của hợp
đồng dưới phần tên của các bên lại phần xác nhận của người làm chứng
với nội dung “Tôi là Bùi Văn T4 là người làm chứng xác nhận vào lúc 18h ngày
28/8/2020 ông Ngô Anh V1 nhận của Ngô Thị Huyền T số tiền
2.000.000.00để mua mảnh đất trên, Ngô ThHuyền T giao cho ông Ngô
Anh Văn B tiền mặt tại nhà H1 tại thôn T, Đ”. Chị T cũng khẳng định
10
đã giao tiền cho ông V1 vào tối ngày 28/8/2020. Như vậy việc lời trình bày của
chị T có sự mâu thuẫn với nội dung giao tiền trong hợp đồng đặt cọc. Đồng thời,
ông V1 cũng không nhận đã nhận tiền dưới dòng làm chứng ông T4 đã
ghi.
Ngoài ra cũng tại Điều 2 của hợp đồng nói trên cũng thể hiện nội dung
“Việc giao nhận số tiền này, do hai bên tự do thực hiện chịu trách nhiệm
trước pháp luật” cũng đã mâu thuẫn với nội dung “Bên A đã đưa trước cho bên
B số tiền là 2.000.000.000đồng”.
Mặt khác, ngoài hợp đồng đặt cọc nói trên thì giữa các bên cũng không lập
giấy tờ giao nhận tiền gì. Ngoài ra, bà Nguyễn Thị T6 cũng trình bày “...Sau khi
hợp đồng đặt cọc thì T giao cho ông V1 2.000.000.00tiền mặt trước sự
chứng kiến của Trần Thị T2, ông Bùi Văn T4, Đào Thị L1, ông Đặng Văn
L, tuy nhiên T2 lại cho rằng Tại nông H1 thì ông L người trực tiếp
viết hợp đồng đặt cọc giúp cho ông V1, T. Điều này cũng mâu thuẫn với lời
trình bày của chị T cùng các tài liệu chứng cứ mà chị T đã giao nộp cho Tòa án.
Bên cạnh đó, chị T, T2 đều cho rằng khi giao tiền đặt cọc cho ông V1
thì sự chng kiến của ông L, ông T4, ông T3 L1. Tuy nhiên quá trình
giải quyết vụ án, ông L xác định “không chứng kiến việc giao nhận tiền bạc giữa
các bên”; ông T3 trình bày ông V1, L1 liên quan đến giao dịch vay tiền
biện pháp đảm bảo khoản vay giữa ông ông V1, L1 giao dịch giữa hai
bên đã chấm dứt, ông không biết không liên quan đến việc đặt cọc giữa ông
V1 và chị T.
Đối với phần xác nhận của người làm chứng ông T4, tại phiên tòa
thẩm nguyên đơn cũng xác định ông T4 người quen của chị T, hợp đồng đặt
cọc chỉ 01 bản do chị T giữ, ông V1 xác định không biết ông T4 ai và khi
hợp đồng đặt cọc cũng không ông T4 tham gia làm chứng. Hơn nữa, ông
T4 ch xác nhận trang cuối cùng không ký các trang trước; ngoài ra
cũng không có cơ sở để xác định được thời điểm ông T4 ký xác nhận là có cùng
thời điểm các bên giao kết hợp đồng đặt cọc hay không nên việc xác nhận này
cũng không mang tính khách quan.
Quá trình giải quyết ván tại giai đoạn phúc thẩm; ông Đăng Văn L3
đơn trình bày thay đổi lời khai so với lời khai tại giai đoạn thẩm; xét thấy
những lời trình bày này mâu thuẫn nhau; không phù hợp với các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ; không đảm bảo yếu tố khách quan nên không sở
chấp nhận.
Do đó, không căn cứ đ xác định nguyên đơn giao số tiền
2.000.000.00đặt cọc cho bị đơn nên việc chị T yêu cầu ông V1 trả lại số tiền
cọc là 2.000.000.000đ và phạt cọc là 2.000.000.000đ là không có cơ sở xem xét.
11
[3] Từ những phân tích trên, chị T đơn kháng cáo nhưng không đưa ra
được các chứng cứ nào mới so với các tài liệu, chứng cứ đã được cấp sơ thẩm
thu thập để làm thay đổi bản chất vụ án nên không căn cứ để chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn; cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
[4] Về chi phí tố tụng: Quá trình giải quyết tại giai đoạn thẩm, ông V1
có yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết, dấu vân tay và đã nộp 5.000.000đ chi phí
tố tụng; tại phiên tòa sơ thẩm ông Văn tự N3 chịu nên cần ghi nhận.
Tại giai đoạn phúc thẩm, ông V1 yêu cầu giám định chữ , chữ viết,
dấu n tay chi phí hết 13.000.000đ (đã được a án quyết toán xong); do kết
quả của việc giám định chữ ký, chữ viết, dấu vân tay đã xác định là của ông V1;
nội dung này cũng không làm thay đổi bản chất vụ án nên cần buộc ông V1 phải
chịu toàn bộ chi phí này là có căn cứ.
[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên chị Ngô Thị
Huyền T phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm đồng thời phải chịu án phí Dân sự
sơ thẩm do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 116, 117, 122, 166 Điều 328 Bộ luật Dân sự năm
2015;
- Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án plệ phí Tòa
án.
Không chấp nhận kháng cáo của chị Ngô Thị Huyền T, giữ nguyên Bn án
Dân s thẩm s 66/2024/DS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân
dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị Huyền T đối với
ông Ngô Anh V1 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
Hủy hợp đồng đặt cọc ngày 28/8/2020 giữa bên đặt cọc chị Ngô Thị
Huyền T (bên A) và bên nhận đặt cọc là ông Ngô Anh V1, bà Lê Thị N1 (bên B)
đối với việc chuyển nhượng ½ diện tích đất 4.146m
2
gồm 2.139m
2
thuộc thửa
117, 1.050m
2
thuộc thửa 118, 957m
2
thuộc thửa 121, tờ bản đồ 15 tại tổ dân phố
T, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngô ThHuyền T đối với
12
ông Ngô Anh V1 về việc yêu cầu ông V1 phải thanh toán số tiền 4.000.000.000đ
(bốn tỷ đồng); trong đó tiền đặt cọc 2.000.000.000đ (hai tỷ đồng) và tiền phạt
cọc là 2.000.000.000 (hai tỷ đồng).
3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Ngô Anh V1 về việc “Kiện đòi i
sản” đối với chị Ngô Thị Huyền T.
Buộc chị Ngô Thị Huyền T phải trả lại cho ông Ngô A Văn bản gốc Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất số CA 800975 do do Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 08/11/2016 cho
ông Ngô Anh V1, Thị N1 đối với diện tích đất 4.146m
2
gồm 2.139m
2
thuộc thửa 117, 1.050m
2
thuộc thửa 118, 957m
2
thuộc thửa 121 tờ bản đồ 15 thị
trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
4. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Ngô Anh V1 phải chịu 18.000.000đ chi phí
giám định (đã tạm nộp và được Tòa án quyết toán xong).
5. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm:
+ Chị Ngô Thị Huyền T phải chịu 112.300.000đ án phí Dân sự thẩm;
được trừ vào số tiền 56.300.000đ tạm ứng án phí Dân sự sơ thẩm đã nộp theo
các Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0013635 ngày 22/6/2023
số 0000043 ngày 19/9/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Lâm Hà,
tỉnh Lâm Đồng. Chị T còn phải nộp 56.000.000đ án phí còn thiếu.
+ Ông Ngô Anh V1 phải chịu 300.000đ án phí Dân sự thẩm; được trừ
vào stiền 300.000đ tạm ứng án pDân sự thẩm đã nộp theo Biên lai thu
tiền tạm ứng án phí, lphí Tòa án số 0004888 ngày 29/7/2024 của Chi cục Thi
hành án Dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Ông V1 đã nộp đủ án phí Dân
sự sơ thẩm.
- Án phí phúc thẩm: Chị Ngô Thị Huyền T phải chịu 300.00án phí Dân
sphúc thẩm; được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí Dân sự phúc thẩm
đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0004875 ngày
19/7/2024 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Lâm Hà. Chị T đã nộp đủ án
phí Dân sự phúc thẩm.
6. Về nghĩa vụ thi hành án:
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị ỡng chế thi hành án theo các quy định tại c Điều 6, 7, 7a, 7b 9
Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
13
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng Ttr, Ktr & THA (01);
- TAND huyện Lâm Hà (01);
- Chi cục THADS huyện Lâm Hà (01);
- Các đương sự (09);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Châu Thạch
Tải về
Bản án số 32/2025/DS-PT Bản án số 32/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 32/2025/DS-PT Bản án số 32/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất