Bản án số 30/2019/HS-ST ngày 17/05/2019 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang về tội cố ý gây thương tích
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 30/2019/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 30/2019/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 30/2019/HS-ST ngày 17/05/2019 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang về tội cố ý gây thương tích |
---|---|
Tội danh: | 104.Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh Kiên Giang) |
Số hiệu: | 30/2019/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/05/2019 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 30/2019/HS-ST NGÀY 17/05/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 17 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 27/2019/HS-ST ngày 11 tháng 4 năm 2019 về tội “Cố ý gây thương tích” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:
Trầm Văn H (H); sinh năm 1982; Nơi cư trú: ấp XC, xã LT, huyện GR, tỉnh KG; Trình độ văn hóa: 4/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: Không; Con ông Trầm Kỳ M; sinh năm 1947 và bà Huỳnh Thị G; sinh năm 1954; Vợ tên Lâm M D; sinh năm 1979 và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2019 (bị cáo có mặt tại phiên tòa)
Người bị hại: Ông Danh D; sinh năm 1977 (có mặt)
Trú tại: ấp BL, xã MH, huyện CT, tỉnh KG
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Chị Thị Út M; sinh năm 1995 (có mặt)
2/ Bà Huỳnh Thị G; sinh năm 1954 (có mặt)
Cùng trú tại: ấp BL, xã MH, huyện CT, tỉnh KG
Người làm chứng:
1/ Anh Danh H1; sinh năm 1983 (vắng mặt)
Trú tại: ấp BL, xã MH, huyện CT, tỉnh KG
2/ Bà Lâm M D (Th); sinh năm 1979 (có mặt)
Trú tại: ấp XC, xã LT, huyện GR, tỉnh KG
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 19 giờ ngày 11 tháng 11 năm 2018 ông Danh D đến khu vực miếu Quan Đế thuộc ấp BL, xã MH, huyện CT, tỉnh Kiên Giang xem các trò chơi của đoàn lô tô thì nhìn thấy con gái của Trầm Văn H (người quen của D) tên Trầm Xíu G; sinh năm 2011 nên D đến gần và lấy 5.000 đồng ra đưa cho G rồi nói “Chú D cho con năm ngàn nè”, cùng lúc đó H đứng phía sau nhìn thấy ông D đưa tay đụng vào người của G, H nghi ngờ ông D trêu trọc con gái của mình, H liền mở dây thắt lưng đang đeo trên người ra cầm trên tay đi đến chỗ ông D đang đứng đánh 01 cái trúng vào mắt trái của ông D gây thương tích nên ông D bỏ chạy, H vẫn không dừng lại mà tiếp tục đánh thêm 01 cái trúng vào vùng lưng của ông D nhưng không gây thương tích thì được mọi người can ngăn.
Sau khi gây thương tích cho ông D xong, H ném bỏ sợi dây thắt lưng trên tại hiện trường rồi điều khiển xe về nhà, còn ông D thì được gia đình đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên Giang điều trị đến ngày 22 tháng 11 năm 2018 thì xuất viện.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 65/KL-PY ngày 04 tháng 01 năm 2019 của Trung tâm Pháp Y tỉnh Kiên Giang đối với ông Danh D; Sinh năm 1977 đã kết luận:
“1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Sẹo xơ cứng vùng cung mày trái và góc trong mi dưới mắt trái gây ảnh hưởng thẩm mỹ.
- Đứt lệ quản (lệ đạo) dưới, phù kết mạc, xuất huyết tiền phòng mắt trái. Hiện tại mắt trái còn xuất huyết dưới võng mạc vùng trung tâm lỗ hoàng điểm, co kéo võng mạc trung tâm, gây giảm thị lực mắt trái (thị lực đếm ngón tay 0,4m).
- Hiện tại vùng lưng không thấy dấu vết thương tích do đả thương.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 48% (Bốn mươi tám phần trăm).
3. Vật gây thương tích: Vật tày, có góc cạnh. Vật chứng (đầu dây thắt lưng) gửi giám định gây ra được các thương tích trên” Về vật chứng thu giữ trong vụ án: 01 đầu dây thắt lưng bằng kim loại màu trắng, phía trên bề mặt phẳng hình chữ nhật có sơn phủ màu đen, ở giữa có in hoa văn và in chữ LeNie, phần rời in chữ VALENTINO là vật chứng liên quan vụ án đến nay không còn giá trị sử dụng, vì vậy cần phải tịch thu tiêu hủy theo quy định.
Đối với sợi dây thắt lưng của H đã sử dụng để gây thương tích cho D, sau khi gây thương tích xong, H đã ném bỏ tại hiện trường. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã tổ chức truy tìm nhưng kết quả không tìm thấy.
Về trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ án xảy ra, bị hại ông Danh D yêu cầu bị cáo Trầm Văn H phải bồi thường chi phí điều trị thương tích, ngày công lao động, tiền tổn thất tinh thần và các chi phí khác tổng cộng là 19.827.156 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại, hiện gia đình của bị cáo đã bồi thường xong.
Tại bản cáo trạng số: 29/CT-VKS-CT ngày 11/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Trầm Văn H về tội: “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trầm Văn H phạm tội: “Cố ý gây thương tích” và đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 và Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trầm Văn H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Về biện pháp tư pháp đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử: Tịch thu tiêu hủy 01 đầu dây thắt lưng bằng kim loại màu trắng, phía trên bề mặt phẳng hình chữ nhật có sơn phủ màu đen, ở giữa có in hoa văn và in chữ LeNie, phần rời in chữ VALENTINO.
Bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành.
Bị cáo được nói lời nói sau cùng, bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành t ố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như bản Cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, thể hiện: Vào khoảng 19 giờ, ngày 11/11/2018 ông Danh D đi đến Miếu Quan Đế thuộc ấp BL, xã MH, huyện CT, tỉnh KG để xem các trò chơi lô tô. Tại đây ông D nhìn thấy cháu Trầm Xíu G là con gái của Trầm Văn H nên ông D lấy 5.000 đồng cho G. Lúc này H nhìn thấy và tưởng ông D trêu trọc con gái của H nên H mở dây thắt lưng (bằng kim loại) đang đeo trên người đánh 01 cái trúng vào mắt trái của ông D, ông D bỏ chạy H đuổi theo đánh thêm 01 cái trúng vào lưng ông D. Theo như kết quả giám định pháp y thì sức khỏe ông D bị suy giảm do thương tích gây nên là 48%. Đối chiếu theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự thì “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: ...; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;”… Như vậy, hành vi dùng đầu dây thắt lưng bằng kim loại là hung khí nguy hiểm (được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự) để gây thương tích cho ông D làm cho sức khỏe ông D bị suy giảm 48% của bị cáo H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” như đã viện dẫn ở trên.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bản thân bị cáo nhận thức được đầu dây thắt lưng làm bằng kim loại là hung khí nguy hiểm nếu như sử dụng vào mục đích gây thương tích thì sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cũng như tính mạng của người khác. Mặc dù nhận thức được điều đó, thế nhưng chỉ nghi ngờ ông D trêu trọc con gái của bị cáo mà bị cáo không kìm chế được bản thân vội mở dây thắt lưng đang đeo trên người đánh 01 cái trúng vào mắt trái ông D làm ông D hoản sợ bỏ chạy, bị cáo lại tiếp tục đuổi theo dùng dây nịt đánh thêm 01 cái trúng vào lưng ông D, hậu quả từ hành vi sai phạm của bị cáo đã làm cho sức khỏe ông D bị suy giảm đến 48%, gây ảnh hưởng thẩm mỹ đến vùng mắt trái của ông D. Hành vi phạm tội của bị cáo không những thể hiện sự xem thường pháp luật mà còn thể hiện bản chất hung hãn xem thường sức khỏe, tính mạng của người khác, gây tâm lý hoang mang lo sợ cho người dân. HĐXX nghị án thảo luận cần có mức án tương nghiêm và cần cách ly bị áo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và nhằm phòng ngừa chung cho xã hội
[3] Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân bị cáo tốt không có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội bị cáo đã tích cực động viên gia đình khắc phục bồi thường xong hậu quả cho người bị hại, bị cáo là người dân tộc thiểu số nên việc am hiểu pháp luật có phần còn hạn chế nên cần xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên HĐXX sẽ áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự chuyển sang khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật cho bị cáo khi lượng hình là phù hợp.
[4] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc định tội danh, khung hình phạt cũng như việc áp dụng các điều luật để xử lý vụ án là có căn cứ pháp luật nên HĐXX ghi nhận để xem xét.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
5.1 Trong quá trình điều tra bị cáo đã tích cực động viên gia đình bồi thường xong chi phí điều trị thương tích, ngày công lao động, tiền tổn thất tinh thần và các chi phí khác với tổng số tiền là 19.827.156 đồng theo yêu cầu của người bị hại ông Danh D nên tại phiên tòa người bị hại ông D không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét.
5.2 Người có quyền lợi liên quan chị Thị Út M và bà Huỳnh Thị G không có ý kiến hay yêu cầu gì đối với bị cáo nên HĐXX không xem xét.
[6] Về đánh giá vật chứng, xử lý vật chứng: Đối với 01 đầu dây thắt lưng bằng kim loại màu trắng, phía trên bề mặt phẳng hình chữ nhật có sơn phủ màu đen, ở giữa có in hoa văn và in chữ LeNie, phần rời in chữ VALENTINO đây là hung khí bị cáo sử dụng để gây án đến nay không còn giá trị sử dụng nên cần xử tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
[7] Về án phí: Xử buộc bị cáo phải có nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Trầm Văn H phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Trầm Văn H 02 (hai) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 17/01/2019.
Về biện pháp tư pháp áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử: Tịch thu tiêu hủy 01 đầu dây thắt lưng bằng kim loại màu trắng, phía trên bề mặt phẳng hình chữ nhật có sơn phủ màu đen, ở giữa có in hoa văn và in chữ LeNie, phần rời in chữ VALENTINO.
Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đang quản lý theo quyết định chuyển giao vật chứng số: 21/QĐ-VKS-CT ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện huyện Châu Thành.
Về áp phí áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016. Xử buộc bị cáo Trầm Văn H phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!