Bản án số 11/2024/HS-ST ngày 07/03/2024 của TAND huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình về tội cố ý gây thương tích

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 11/2024/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 11/2024/HS-ST ngày 07/03/2024 của TAND huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình về tội cố ý gây thương tích
Tội danh: 104.Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Kim Sơn (TAND tỉnh Ninh Bình)
Số hiệu: 11/2024/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/03/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: C? ý gây thuong tích” theo quy d?nh t?i di?m d kho?n 2 Ði?u 134 B? lu?t Hình s?.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN K - TỈNH NINH BÌNH
Bản án số: 11/2024/HS-ST
Ngày 07/3/2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Hoàng Ngọc Hưng
Các Hội thẩm nhân dân: ông Vũ Xuân Dự
ông Trần Văn Nghi
- Thư phiên tòa: ông Phạm Văn Thành - Thư Tòa án nhân dân huyện
K, tỉnh Ninh Bình.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Ninh nh tham gia
phiên tòa: ông Trần Quang Toại - Kiểm sát viên.
Ngày 07/3/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình, xét xử
thẩm công khai vụ án hình sự thẩm thụ lý số 02/2024/TLST-HS ngày
26/01/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xthẩm số 06/2024/QĐXXST-
HS, ngày 23/02/2024, đối với:
- Bcáo: Phạm Mạnh T, sinh năm 1989 tại huyện K, tỉnh Ninh Bình. Nơi
trú: xóm V, T, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình
độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt
Nam; con ông Phạm Văn S con Trịnh Thị ; v Nguyễn Phương T1;
01 con: sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú” có mặt”.
- Bị hại: anh Phạm Văn T3, sinh năm 1977; nơi trú: xóm V, T, huyện
K, tỉnh Ninh Bình đơn xin xét xử vắng mặt”.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ Chị Phạm Thị T2, sinh năm 1985; nơi cư trú: xóm 5A, xã L, huyện K, tỉnh
Ninh Bình vắng mặt”.
+ Chị Phạm Thị T1, sinh năm 1976; nơi trú: xóm 7, L, huyện K, tỉnh
Ninh Bình vắng mặt”.
- Người làm chứng: bà Phạm Thị C mặt”; anh Phan Văn C1, anh
Văn Q, anh Phan Văn P, anh Đoàn Văn N, ông Phạm Ngọc M, ông Nguyễn n
C2 “đều vắng mặt”.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Phạm Mạnh T anh Phạm Văn T3, sinh năm 1977; trú tại xóm V, T,
huyn K gần nhà nhau. Do anh T3 có mâu thuẫn với bà Phạm Thị C, sinh năm 1952
c của T (hiện C đang cùng với gia đình T) n mỗi khi uống u anh T3
hay chửi đổng về phía gia đình T. Khoảng 22 gi30 phút ngày 13/6/2023, sau khi
uống rượu về anh T3 đi qua nhà thấy T đang đứng ngoài sân nên đứng ngoài
đường chửi, dẫn đến hai bên xảy ra cãi nhau. Do bực tức, T đi vào trong nhà lấy 01
con dao loại dao bầu cầm tay trái, tay phải cầm 01 tuýp sắt bằng kim loại đi đến
giơ tuýp sắt về phía T3, T3 tiếp tục chửi và dùng tay phải cầm lấy đầu tuýp sắt của
T. Thấy vậy, T cầm dao đâm vào cẳng tay phải của anh T3 nên anh T3 bỏ tay khỏi
tuýp sắt. T tiếp tục dùng tuýp sắt dao vụt, đâm vào mu bàn tay phải, vai trái
chân phải anh T3, làm cho anh T3 ngã xuống đường, T đi về nhà.
Hậu quả: anh T3 bị thương cổ chân phải; khửu tay trái; bàn tay, cẳng tay
phải vai trái được điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện K, Bệnh viện đa khoa
tỉnh Ninh Bình Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đến ngày 04/7/2023 về ntự
điều trị. Anh T3 đơn đề nghị giám định thương tích đề nghị khởi tố đối với
Phạm Mạnh T.
Thu của T 01 tuýp sắt dài 98cm, đường kính 2,5cm; 01 dao bầu dài 32cm
cán bằng gỗ dài 12,5cm, lưỡi dài 19,5cm; thu tại hiện trường 01 tua nơ vít i 23cm
cán bng nhựa, phần mũi nhọn có chiềui 14cm.
Tại Bản kết luận giám định tổn thương thể trên người sống số
124/KLTTCT-TTPY ngày 14/9/2023 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Ninh
Bình đối với anh Phạm Văn T3 kết luận: Tỷ lệ tổn thương thể do thương tích
gây nên tại thời điểm giám định là 29%. Tổn thương xương do vật tầy trực tiếp gây
nên; sẹo vết thương do vật sắc trực tiếp gây nên.
Về trách nhiệm dân sự: anh Phạm Văn T3 yêu cầu Phạm Mạnh T phải bồi
thường số tiền 120.000.000đồng, gồm: tiền chi phí điều trị tại bệnh viện, tiền thu
nhập thực tế bị mất của anh người chăm sóc, tiền đắp tổn thất về tinh thần.
Hiện T đã bồi thường đủ số tiềni trên cho anh T3.
Bản Cáo trạng số 06/CT-VKS-KS ngày 26/01/2024 của Viện Kiểm sát nhân
dân huyện K truy tố bị cáo Phạm Mạnh T về tội Cố ý gây thương tích” theo quy
định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố như bản
cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị o Phạm Mạnh T phạm tội Cố ý
3
gây thương tích”; áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, e, s khoản 1, khoản
2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 27 đến 30 tháng tù cho hưởng
án treo, thời gian thử thách từ 54 đến 60 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; giao bị
cáo cho UBNDT giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; gia đình bị o có
trách nhiệm phối hợp với UBND xã T trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Về trách
nhiệm dân sự: bcáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại, bị hại không yêu cầu
khác nên không xem xét giải quyết. V x vt chng: áp dng khon 1 Điu 47
B lut Hình s; khon 2 Điu 106 B lut T tng nh s: tch thu tiêu hy 01
tuýp sắt; 01 dao bầu 01 tua vít. V án phí: buc b cáo phi np tin án phí
hình s thẩm theo quy định ca pp lut
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi nêu trên
không ý kiến khác, không tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt
gửi lời xin lỗi đến bị hại và gia đình bị hại.
Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị
cáo; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu gì đối vi
bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, tội danh điều luật áp dụng: tại phiên tòa bị cáo khai nhận,
do anh T3 mâu thuẫn từ trước với C bác ruột của bị cáo (bà C bị nhiễm
chất độc hóa học đang cùng bị cáo) nên mỗi lần đi uống rượu về anh T3 li
chửi bới bà C. Khoảng 22 giờ 30 phút ny 13/6/2023, sau khi uống rượu về anh T3
đi qua nhà thấy bcáo đang đứng ngoài sân lại chửi bị cáo, dẫn đến hai bên xảy ra
cãi nhau. Anh T3 trên tay cầm tua nơ vít đe dọa giết cả nhà bị cáo, do bực tức và bị
kích động về tinh thần bị cáo đi vào trong nhà lấy 01 con dao loại dao bầu cầm
tay trái, tay phải cầm 01 tuýp sắt bằng kim loại đi đến giơ tuýp sắt về phía anh T3
mục đích để dọa anh T3, nhưng anh T3 vẫn chửi dùng tay phải túm lấy đầu
tuýp sắt. không nhận thức hết được tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi
của mình, bị cáo đã cầm dao đâm vào cẳng tay phải của anh T3 nên anh T3 bỏ tay
khỏi tuýp sắt. Sau đó bị cáo tiếp tục dùng tuýp sắt và dao vụt, đâm vào mu bàn tay
phải, vai trái và chân phải anh T3, làm cho anh T3 ngã xuống đường. Hậu quả anh
T3 bthương cổ chân phải; khửu tay trái; bàn tay, cẳng tay phải vai trái được
điều trị tại Bệnh viện huyện, tỉnh và trung ương. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa
phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án như: Biên bản sự việc;
4
Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản kết luận giám định pháp y về thương tích
số 124 ngày 14/9/2023 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Ninh Bình; Bản ảnh
chụp hiện trường, lời khai của bị hại; lời khai người làm chứng đã đủ sở kết
luận: bcáo người đủ năng lực trách nhiệm nh sự, nhận thức được hành vi
dùng dao, tuýp sắt là hung khi nguy hiểm khả năng gây nguy hại đến tính mạng,
sức khỏe cho người khác, cụ thể gây thương tích cho anh Phạm Văn T3 t lệ
thương tổn thể 29% sức khỏe. Hành vi đó nguy hiểm cho xã hội,m phạm
đến tính mng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, nhưng vẫn cố ý thực
hiện, y ảnh ng xấu đến nh nh trt tự địa phương, gây hoang mang trong
quần chúng nhân n. Hành vi của bcáo đã phạm vào tội Cố ý gây thương tích”
được quy định tại Điều 134 của Bộ luật Hình s. Mặc tỉ lệ tổn thương thể
của anh T3 là 29%, nhưng bị cáo sử dụng hung khí nguy hiểm, đây là nh tiết định
khung tăng nặng được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
Điều 134. Tội cố ý gây thương tích
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác tỷ lệ tổn thương thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng khí, vật liệu nổ, hung khí nguy him hoặc thủ đoạn khả năng
gây nguy hại cho nhiều người;
...
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt từ từ 02 năm
đến 06 năm;
đ, Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tỷ lệ
tổn thương thtừ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy
định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
...
Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về nhân thân: bị cáo có nhân thân tốt.
Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ: tại quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo
thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội trong trường hợp bị kích động về
tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; đã bồi thường thiệt hại toàn
bộ cho bị hại bị hại đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo hiện đang
5
chăm sóc người có công với cách mạng là người bị nhiễm chất độc hoá học. Đây là
các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51
Bộ luật Hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi đối chiếu về nhân thân các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nguyên nhân điều kiện phạm tội
của bị o, thì thấy rằng trong vụ án này bị hại cũng một phần lỗi dẫn bị o bị
kích động về tinh thần dẫn đến sát xảy ra. Hành vi của bị o cần phải xử
nghiêm trước pháp luật bằng hình phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội
đồng xét xử xét thấy bị cáo 03 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều
51 Bộ luật nh sự 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ
luật Hình sự; hiện bị cáo đang chăm sóc nuôi dưỡng người công với cách mạng,
con còn nhỏ; có nơi cư trú rõ ràng và có thể tự cải tạo được, do vậy đủ điều kiện áp
dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo, nên không cần thiết phải cách ly bị
cáo ra khỏi đời sống hội áp dụng hình phạt cho hưởng án treo cũng giúp
bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình và sống có ích cho gia đình và xã hội.
[3] Về trách nhiệm dân sự: bcáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại với số
tiền là 120.000.000 đồng. Sau khi nhận đủ tiền, bị hại không có đề nghị và yêu cầu
khác; Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng không đề nghị
và yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.
[4] Về các vấn đề khác: đối với hành vi thường xuyên chửi bới, gây mất trật
tự tại địa phương của anh Phạm Văn T3. Chính quyền địa phương cần biện
pháp nhắc nhở, giáo dục để tránh những phát sinh có thể xảy ra.
[5] V x lý vt chng và các biện pháp tư pháp:
Đối với 01 tuýp sắt dài 98cm, đường kính 2,5cm; 01 dao bầu dài 32cm có cán
bằng gỗ dài 12,5cm, lưỡi dài 19,5cm công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm
tội, do giá trị sử dụng còn lại thấp nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 tua nơ víti 23cm có cán bằng nhựa, phần mũi nhọn có chiều dài
14cm thu giữ tại hiện trường. Quá trình điều tra xác định của anh Phạm n T3
đã sử dụng khi xảy ra xô sát, nên cần tịch thu. Tuy nhiên, do giá trị sử dụng còn lại
thấp nên cần tịch thu cho tiêu hủy.
[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của quan tiến hành tố tụng, người
thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tđã thực hiện đúng về
thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều
tra tại phiên tòa, bị cáo không ý kiến hoặc khiếu nại . Do đó, các hành vi,
quyết định tố tụng của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực
hiện đều hợp pháp.
6
[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự thẩm theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 34; Điều 45; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 254;
Điều 299 và Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51,
Điều 65, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí, lệ phí a án.
1. Tuyên bố: bị cáo Phạm Mạnh T phạm tội “Cố ý gây thương tích.
Xử phạt bị cáo Phạm Mạnh T 33 (ba mươi ba) tháng cho hưởng án treo,
thời gian thử thách 60 tháng, kể từ ngày tuyên án thẩm (ngày 07 tháng 3 năm
2024). Giao bcáo Phạm Mạnh T cho Ủy ban nhân dân T, huyện K, tỉnh Ninh
Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo trách nhiệm
phối hợp với Ủy ban nhân dân T, huyện K, tỉnh Ninh Bình trong việc giám sát,
giáo dục bị cáo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện
theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách,
người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành
án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án thể quyết định buộc người được hưởng án
treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. V x vt chng: tch thu tiêu hy 01 tuýp sắt dài 98cm, đường kính
2,5cm; 01 dao bầu dài 32cm cán bằng gỗ dài 12,5cm, lưỡi dài 19,5cm 01 tua
vít dài 23cmcán bằng nhựa, phần mũi nhọn có chiều dài 14cm.
(Chi tiết như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/02/2024 giữa Cơ quan
CSĐT ng an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K).
3. V án phí: buộc bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí
hình sự sơ thẩm.
B cáo mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án. Bị hại; Nời quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại
phn tòa có quyền khángo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc ny bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
7
án hoặc bcưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a 9 Luật thi
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Ninh Bình;
- VKSND huyện K;
- VKSND tỉnh Ninh Bình;
- Công an huyện K;
- THADS huyện K;
- Bị cáo;
- Bị hại; người liên quan;
- Lưu hồ sơ, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Hoàng Ngọc Hưng
Tải về
Bản án số 11/2024/HS-ST Bản án số 11/2024/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất