Bản án số 06/2024/HS-ST ngày 29/01/2024 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng về tội cố ý gây thương tích
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 06/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 06/2024/HS-ST ngày 29/01/2024 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng về tội cố ý gây thương tích |
|---|---|
| Tội danh: | 104.Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Bảo Lâm (TAND tỉnh Lâm Đồng) |
| Số hiệu: | 06/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 29/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN B Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 06/2024/HS-ST
Ngày 29-01-2024.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B
TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Trần Văn Biên
Các Hội thẩm nhân dân: ông Nguyễn Quang Huy
bà Hồ Thị Hồng Liên
- Thư ký phiên tòa: ông Trương Quang Vũ - Thư ký Toà án nhân dân huyện B.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B tham gia phiên toà: ông Lê Hữu
Việt Phú - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B xét xử sơ thẩm
công khai theo thủ tục thông thường vụ án hình sự thụ lý số 112/2023/HSST ngày
26/12/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2024/QĐXXST- HS ngày
15/01/2024, đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Hùng C, sinh năm 1995 tại tỉnh Lâm Đồng; hộ khẩu thường trú
và chỗ ở hiện nay: thôn 1, x L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Nhân viên
giao hàng; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:
Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L và bà Lê Thị H; gia đình bị cáo có
03 anh chị em, bị cáo là con thứ 02 trong gia đình; vợ: Nguyễn Ngọc Á, con: 01
người, sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm bt giam từ ngày
11/7/2023 đến ngày 13/12/2023 thì được áp dụng biện pháp ngăn chn bảo lnh kể từ
ngày 13/12/2023. Có mặt
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Quốc P - Văn phòng luật sư thuộc
Đoàn luật sư tỉnh Lâm Đồng. Có mặt
Bị hại: ông Dư Tấn L, sinh năm 1967. Địa chỉ: thôn 6, xã L, huyện B, tỉnh Lâm
Đồng. Có mặt
Người có quyền lợi, ngha vụ liên quan đến vụ án: anh Trần Thái H1, sinh năm
1994. Địa chỉ: thôn 1, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt
Người làm chứng:
1. Bà Hồ Thị C, sinh năm 1968. Địa chỉ: thôn 6, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
Có mặt
2. Anh Dư Hoàng H, sinh năm 1994. Địa chỉ: thôn 6, x Lộc Nam, huyện B,
tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt
2
3. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1963. Địa chỉ: thôn 6, xã L, huyện B, tỉnh Lâm
Đồng. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên
toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Trần Hùng C và vợ Nguyễn Ngọc Á sống cùng gia đình bố mẹ là Lê Thị
H ở thôn 1, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Vào đầu tháng 4/2023, C biết việc ông
Dư Tấn L có nhn tin, gọi điện vào số điện thoại của bà H nên muốn tìm gp ông L
nói chuyện. Ngày 11/4/2023, khi đi vào x Lộc Nam, C được vợ chỉ cho biết nhà của
ông L.
Đến khoảng 20 giờ 00 phút ngày 16/4/2023, sau khi nhậu ở kho Công ty (số 68B
Hoàng Văn T, phường 1, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng) C nói chuyện điện thoại với
vợ thì biết bố mẹ ci nhau về việc ông L nhn tin, điện thoại cho bà H. Bực tức về
việc ông L nhn tin gây ảnh hưởng tình cảm của bố mẹ nên C nhờ anh trai là Trần
Thái H chở đi đến nhà ông L (C không nói rõ mục đích cho H1 biết) thì H1 đồng ý.
Khi đi đến xã L, huyện B, C nói với H1 “đừng ghé nhà, cứ chạy đi” và chỉ đường để
H1 đi đến nhà ông L ở thôn 6, xã L, huyện B. H1 đứng ở ngoài xe máy, còn C vào gõ
cửa nói: “con của mẹ Hồng ở dốc Tha La” thì ông L mở cửa, còn bà Hồ Thị C (vợ
ông L) vẫn nằm võng ở phòng khách. C đi vào nhà tháo khẩu trang, cởi mũ bảo hiểm
để trên bàn và ngồi xuống ghế gỗ đt bên trái (theo hướng từ trước nhà nhìn vào),
ông L cũng đến ngồi cùng. Lúc này, C đưa số điện thoại, hình ảnh tin nhn Zalo của
ông L cho ông L xem, đề nghị ông L đừng nhn tin, gọi điện cho bà H nữa thì ông L
không thừa nhận và tỏ thái độ với C. Bực tức về việc ông L nhn tin, gọi điện làm
ảnh hưởng gia đình mình mà không chịu thừa nhận và tỏ thái độ nên C dùng tay đấm
04 đến 05 cái vào mt, đầu ông L thì bà Chiến la hét, xông vào ngăn cản C. C lấy nón
bảo hiểm đánh vào vùng mt, đầu ông L làm ông L ng xuống nền nhà. Nghe tiếng la
hét, anh Dư Hoàng H (con trai ông L) từ phòng ngủ phía sau chạy lên đến cửa hông
thấy C đánh ông L thì lấy 01 con dao Thái Lan cán vàng ra để đánh lại. Thấy vậy, C
bỏ chạy ra ngoài cửa thì anh Hảo đuổi theo. C bỏ chạy ra ngoài sân nht viên gạch
xây loại 4 lỗ ném hướng vào nhà ông L rồi bỏ chạy ra ngoài xe và nói H1 chở đi về
lại công ty ở thành phố Bảo Lộc.
Khi xảy ra sự việc đánh nhau, bà Nguyễn Thị L ở cạnh nhà ông L nghe tiếng la
hét nên chạy ra sân nhìn thấy C nht cục gạch ném vào nhà ông L nên điện báo Công
an x Lộc Nam. Còn ông L được người nhà đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện II Lâm
Đồng.
Hậu quả: ông Dư Tấn L bị vết thương đầu vùng đỉnh chẩm phải 03cm; vết
thương cánh mũi trái 03cm, vết thương môi trên 2,5cm; vết thương trán 03cm; mt
trái sưng nề mí, cương tụ giác mạc; răng số 34 lung lay; CT Scan: v xoang trán trái,
sưng nề mô mềm đỉnh chẩm phải. Đối với bà Hồ Thị C can ngăn khi ông L bị đánh
thì bị bầm tím ngoài da.
3
Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 260/23-
KLTTCT-PYLĐ ngày 02/6/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Lâm Đồng, kết luận: t
lệ phần trăm tổn thương cơ thể của ông Dư Tấn L tại thời điểm giám định là 24%. tổn
thương do vật cứng có cạnh gây nên.
Tại Công văn số 102/CV-PY ngày 19/6/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Lâm
Đồng trả lời đc điểm vật gây thương tích của ông Dư Tấn L: các tổn thương: sẹo
đỉnh chấm phải 3,5cm; sẹo cánh mũi trái 03cm; sẹo trán trái 4,5cm là do vật cứng
(vật tày cứng) có cạnh gây nên; các tổn thương: sẹo môi trên trái 03cm; v xoang
trán; sưng nề mô mềm đỉnh chẩm phải là do vật tày gây nên.
Tại Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 5677/KLTTCT-
C09B ngày 18/9/2023 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công An tại thành phố Hồ
Chí Minh kết luận: các thương tích của ông Dư Tấn L phù hợp do vật tày có cạnh tác
động gây ra. Viên gạch, cục đá, cạnh mũ bảo hiểm gửi giám định gây ra được các
thương tích của ông Dư Tấn L.
Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKSBL ngày 20/12/2023 của Viện kiểm sát nhân
dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng đ truy tố bị cáo Trần Hùng C về “Tội cố ý gây thương
tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên
quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Hùng C phạm “Tội
cố ý gây thương tích”; áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự; Điều 65,
điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Hùng C từ 24 đến
30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng.
Về trách nhiệm dân sự: ngày 02/6/2023, bị cáo Trần H1 C và gia đình đ bồi
thường số tiền 30.000.000 đồng nay ông L không yêu cầu gì thêm nên đề nghị không
xem xét.
Về vật chứng: quá trình điều tra thu giữ: 01 viên gạch loại 04 lỗ, hình hộp chữ
nhật, màu vàng, kích thước 16x7x7cm³; 01 cục đá màu đen, hình đa giác có kích
thước 9x9x4cm³; 01 mũ bảo hiểm trùm đầu màu đen, có chữ “Napoli Vintage” màu
vàng, kích thước 23x22cm³; 01 con dao mũi nhọn loại dao Thái Lan, chiều dài
20,5cm, cán bằng nhựa màu vàng dài 9,5cm, lưi dao bằng kim loại dài 11cm, mũi
dao bị m đề nghị tiêu hủy; 01 xe mô tô biển kiểm soát 49H1-246.52 của Trần H1 C
là phương tiện mà H1 chở C đi thực hiện hành vi đánh ông L đề nghị trả lại cho bị
cáo.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu
án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Trần Hùng C đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng của
Viện kiểm sát đ truy tố.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: bị cáo là công dân hiền lành, do bị hại
nhn tin cho mẹ bị cáo làm ảnh hưởng đến tình cảm của bố mẹ, mục đích bị cáo đến
nhà ông L để nói bị hại không nhn tin, gọi điện cho mẹ của mình nữa nhưng do bị
4
hại không thừa nhận làm cho bị cáo bức xúc đ nhất thời bộc phát và gây thương tích
cho ông L. Sau khi sự việc xảy ra bị cáo đ bồi thường khc phục hậu quả, bị cáo đ
ăn năn hối ci về hành vi của mình, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình
có công cách mạng nên đề nghị Hội đồng xét xử cân nhc áp dụng cho bị cáo được
hưởng án treo để có cơ hội hoà nhập công đồng, trở thành công dân có ích cho gia
đình và x hội.
Bị hại ông Dư Tấn L trình bày ngày 16/4/2023 bị cáo C dùng tay, nón bảo hiểm
đánh ông gây thương tích 24%, đ bồi thường khc phục hậu quả số tiền 30.000.000
đồng, nay không yêu cầu gì thêm, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người có quyền lợi, ngha vụ liên quan đến vụ án anh Trần Thái H trình bày:
ngày 16/4/2023 anh chỉ chở bị cáo đến nhà ông L, đứng ở ngoài, không vào nhà và
không tham gia đánh ông L.
Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo đ nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp
luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để có cơ hội hoà nhập công
đồng, trở thành công dân có ích cho gia đình và x hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện B, của
Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều
tra, truy tố đ thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, bị hại không có ý kiến
hoc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng đ thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo:
Qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa, bị cáo Trần Hùng C trình bày thể hiện: vì
cho rằng ông L nhn tin, gọi điện thoại cho mẹ mình dẫn đến bố mẹ mâu thuẫn làm
ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình nên vào tối ngày 16/4/2023, bị cáo Trần Hùng C
đến nhà ông L, trong khi nói chuyện, đề nghị ông L không gọi điện, nhn tin cho mẹ
của mình là bà Lê Thị H nữa nhưng ông L không thừa nhận dẫn đến hai bên ci nhau.
Bị cáo dùng tay, mũ bảo hiểm đánh nhiều cái vào vùng mt, đầu ông L làm ông L bị
thương tích 24%, sau khi bỏ chạy ra ngoài tiếp tục dùng cục gạch 04 lỗ ném vào nhà
ông L.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng,
phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, phù hợp với toàn bộ tài liệu, chứng
cứ có trong vụ án và cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện B đ truy tố đối
với bị cáo.
Xét thấy bị cáo là người có nhận thức, biết rõ việc dùng tay và nón bảo hiểm là
hung khí nguy hiểm đánh ông Dư Tấn L gây thương tích là hành vi vi phạm pháp
5
luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện là xem thường pháp
luật.
Hành vi cố ý gây thương tích cho ông Dư Tấn L của bị cáo đ thực hiện là nguy
hiểm cho x hội, không chỉ xâm phạm đến quyền bảo vệ sức khỏe của công dân mà
còn gây mất trật tự an toàn x hội tại địa phương. Để trừng trị nghiêm khc hành vi
phạm tội, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và x hội, có ý thức
tuân thủ pháp luật và ngăn ngừa phạm tội mới, đồng thời giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật nên cần phải xét xử và áp dụng một mức hình phạt nghiêm khc
tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đ gây
ra.
Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo đ cấu thành “Tội cố ý gây
thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ
luật hình sự. Vì vậy, cáo trạng số 04/CT-VKSBL ngày 20/12/2023 của Viện kiểm sát
nhân dân huyện B đ truy tố bị cáo theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự
là hoàn toàn có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Tuy nhiên, tại phiên hoà hôm nay, bị hại thừa nhận giữa bị hại và mẹ bị cáo có
mối quan hệ quen biết, là hàng xóm láng giềng nên trước ngày 16/4/2023 có nhn tin,
gọi điện thoại cho mẹ bị cáo để hỏi thăm sức kho. Vì cho rằng ông L nhn tin, gọi
điện thoại cho mẹ mình dẫn đến bố mẹ mâu thuẫn làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia
đình, khi nói chuyện ông L tỏ thái độ làm cho bị cáo bức xúc không kiềm chế được
nên đ bộc phát thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng,
trong thời gian được tại ngoại chấp hành tốt các quy định nơi cư trú và không vi
phạm pháp luật, do đó cũng cần thiết xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo.
[3] Hội đồng xét xử đánh giá các tình tiết tăng nng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự và nhân thân của bị cáo như sau: trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa
hôm nay thấy rằng: bị cáo và gia đình bị cáo đ tự nguyện bồi thường thiệt hại khc
phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho
bị cáo, gia đình có bà nội là người có công cách mạng. Vì vậy, áp dụng quy định tại
điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 để giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt. Bị cáo
có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nng trách nhiệm hình sự.
[4] Từ những cơ sở phân tích, nhận định nêu trên Hội đồng xét xử thấy rằng
không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi x hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa
phương nơi bị cáo cư trú phối hợp với gia đình quản lý, giáo dục một thời gian cũng
đủ tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[5] Về trách nhiệm dân sự: ngày 02/6/2023, bị cáo Trần H1 C và gia đình đ bồi
thường cho bị hại số tiền 30.000.000 đồng nay ông L không yêu cầu gì thêm nên
không xem xét.
[6] Về vật chứng: đối với 01 viên gạch loại 04 lỗ, hình hộp chữ nhật, màu vàng,
kích thước 16x7x7cm³; 01 cục đá màu đen, hình đa giác có kích thước 9x9x4cm³; 01
mũ bảo hiểm trùm đầu màu đen, có chữ “Napoli Vintage” màu vàng, kích thước
23x22cm³; 01 con dao mũi nhọn loại dao Thái Lan, chiều dài 20,5cm, cán bằng nhựa
6
màu vàng dài 9,5cm, lưi dao bằng kim loại dài 11cm, mũi dao bị m xét không còn
giá trị nên tịch thu tiêu hủy; đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 49H1-246.52 là tài
sản hợp pháp nên trả lại cho bị cáo.
[7] Về án phí: buộc bị cáo Trần Hùng C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự
sơ thẩm là đúng quy định pháp luật.
Đối với Trần Thái H có hành vi chở C đi đến nhà ông L nhưng bị cáo không nói
cho anh H1 biết việc C đánh ông L. Quá trình điều tra không thu thập được chứng cứ
chứng minh việc anh H1 giúp sức hay tham gia đánh ông L. Do đó, không đủ căn cứ
để xử lý anh H1 với vai trò đồng phạm trong vụ án là đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Hùng C phạm “Tội cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự; Điều 65; điểm b, s khoản 1,
2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Trần Hùng C 24 (hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời
gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày
29/01/2024) và thực hiện các ngha vụ trong thời gian thử thách theo quy định của
Luật thi hành án hình sự.
Giao bị cáo Trần Hùng C cho UBND xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng để giám
sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa
phương trong việc giám sát, giáo dục người bị kết án.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Toà án có thể quyết
định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về vật chứng: áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 đươc sửa
đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hu: 01 viên gạch loại 4 lỗ, hình hộp chữ nhật, màu vàng, kích
thước 16x7x7cm³; 01 cục đá màu đen, hình đa giác có kích thước 9x9x4cm³; 01 mũ
bảo hiểm trùm đầu màu đen, có chữ “Napoli Vintage” màu vàng, kích thước
23x22cm³; 01 con dao mũi nhọn loại dao Thái Lan, chiều dài 20,5cm, cán bằng nhựa
màu vàng dài 9,5cm, lưi dao bằng kim loại dài 11cm, mũi dao bị m;
Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô biển kiểm soát 49H1-246.52.
(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B theo biên
bản giao nhận vật chứng ngày 05/01/2024).
3. Về án phí: áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Buộc bị cáo Trần Hùng C phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí
hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi ngha vụ liên quan đến vụ án đều có mt tại
phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
7
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Lâm Đồng; THẨM PHÁN-CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- VKS tỉnh Lâm Đồng; (Đ ký)
- VKS huyện B;
- Bị cáo, và những người
tham gia tố tụng;
- Chi cục THADS huyện B;
- Lưu hồ sơ vụ án. Trần Văn Biên
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 05/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 25/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 21/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 16/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 15/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 12/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 04/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Bản án số 26/2024/HS-ST ngày 04/01/2024 của TAND TP. Sơn La, tỉnh Sơn La về tội cố ý gây thương tích
Ban hành: 04/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm