Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 11-01-2024 của TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh An Giang) về tội cố ý gây thương tích
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
02_2024_HS-ST_CHAU THANH_AN GIANG
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
02_2024_HS-ST_CHAU THANH_ AN GIANG
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 11-01-2024 của TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh An Giang) về tội cố ý gây thương tích |
|---|---|
| Tội danh: | 104.Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh An Giang) |
| Số hiệu: | 02/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 11/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | B M N phạm tội cố ý gây thương tích |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CHÂU THÀNH
TỈNH AN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 02/2024/HS-ST
Ngày 11-01-2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
-Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Lý Đông Hòa
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Liêu Văn Lộc
Bà Trần Việt Hồng Phượng
-Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Minh Hiếu là Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
-Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Mỹ Phương – Kiểm sát viên.
Ngày 11 Tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành,
tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số
75/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 79/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:
B M N, sinh ngày 29-10-1998 tại xã B H, huyện C T, tỉnh An Giang; CCCD
số 089098008926; đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp P H 1, xã B H, huyện C T,
tỉnh An Giang; nơi ở hiện tại: Ấp P H 1, xã B H, huyện C T, tỉnh An Giang;
nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 4/12; dân tộc: Kinh; giới
tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông B V K, sinh năm
1971, còn sống và bà T T T, sinh năm 1972, còn sống; tiền án, tiền sự: Không;
bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17-7-2023 cho đến nay, hiện đang tạm
giam tại Nhà Tạm giữ – Công an huyện Châu Thành, tỉnh An Giang (có mặt).
- Bị hại: 1/ Ông N T T, sinh ngày 16-12-2004; trú tại: Ấp C T, xã C Đ,
huyện C T, tỉnh An Giang (có mặt)
2/ Ông P V Q, sinh ngày 29-10-2003; trú tại: Ấp C T, xã C Đ,
huyện C T, tỉnh An Giang (vắng mặt)
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại N T T: Bà P T Á D – Trợ
giúp viên pháp lý – Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh An Giang; địa
chỉ: Số 8/18, đường L T K, phường M B, thành phố L X, tỉnh An Giang (có mặt)
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông M L, sinh ngày 17-3-2004; trú tại: Ấp C T, xã C Đ, huyện C T, tỉnh
An Giang (vắng mặt)
2/ Ông T Q P, sinh ngày 28-11-1997; trú tại: Ấp V H B, xã C Đ, huyện C T,
tỉnh An Giang (vắng mặt)
- Người làm chứng: Ông D V Q K, Ông P V K, Ông N K H (tất cả vắng
mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 30 phút; ngày 24-4-2023, B M N điều khiển xe mô tô biển số
67AB – 045.97 từ nhà đến quán giải khát hiệu “Bo House” tại Trung tâm
Thương mại xã C Đ, thuộc ấp C T, xã C Đ, huyện C T, tỉnh An Giang uống cà
phê với bạn thì xảy ra mâu thuẫn với M L; L bỏ về, N vào quán uống cà phê với
V K, D V Q K, N K H. N chửi L thì P T T Y là bạn gái của L đang ở trong quán
nghe nên cải nhau với N. N biết sẽ xảy ra đánh nhau nên ra chợ C Đ mua 01 cây
dao loại dao Thái Lan, lưỡi dao nhọn dài 20cm, cán nhựa màu đen, chuẩn bị sẵn.
Y gọi điện thoại cho L biết đòi đánh L Khoảng 15 phút sau, L đến tìm N nói
chuyện nhưng không gặp nên bỏ về.
Khoảng 18 giờ cùng ngày, L rủ C H D, N T T, P V Q đi đánh N. L điều
khiển xe mô tô chở D đến quán “Bo House” kêu N đi ra ngoài thì T và Q cũng
vừa đến quán. Khi N ra trước quán thì L dùng tay và D dùng nón bảo hiểm đánh
N té ngã; lúc này T, Q chạy về hướng N, N cầm dao để trên bàn chạy vào
khoảng đất trống cách bàn N ngồi khoảng 5m, T, Q chạy đến đánh N làm cả 3 té
ngã; N đứng lên cầm dao chém gây thương tích nách trái của T và gây thương
tích ở ngực, hông, lưng, bàn tay trái, đùi phải của Q; Q cầm mãnh vở thủy tinh
ném trúng tay trái của N. N cầm dao chạy xe về hướng xã B H, khi đến cầu L S
thì vứt dao xuống kênh. T và Q đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa
Trung tâm An Giang đến ngày 26-5-2023 Q xuất viện, ngày 04-5-2023 T xuất
viện.
Vật chứng liên quan đến vụ án: 01 (một) cây dao loại dao Thái Lan, lưỡi dao
nhọn dài 20cm, cán nhựa màu đen: không thu giữ được.
Vật chứng thu giữ: Bọc màu đen bị rách, có dính vết màu nâu nghi là máu và
02 que tăm bông loại 01 đầu bông có dính vết màu vàng nhạt.
3
Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số
416/23/KLTTCT-TTPY ngày 08-6-2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh An Giang
kết luận đối với P V Q. 1. Các kết quả chính: Sẹo ngực trái, đường nách giữa,
khoản liên sườn V – VI, nằm xiên, kích thước (3,7 x 0,4)cm, sẹo lồi, màu hồng,
bờ sắc gọn, hai góc nhọn. Sẹo vùng hông phải, nằm xiên, kích thước (13 x
0,2)cm, sẹo lồi – lõm, màu hồng, bờ sắc gọn. 02 sẹo vùng sau lưng phải: Vết 01
kích thước (1,4 x 0,2)cm, sẹo lõm, màu hồng, bờ sắc gọn. Vết 02 kích thước (04
x 0,4)cm, sẹo lồi, màu hồng, bờ sắc gọn. Sẹo giữa lưng, kích thước (2,5 x
0,3)cm, sẹo lồi, màu hồng, bờ sắc gọn, hai góc nhọn. Sẹo mặt trước trong 1/3
dưới cẳng tay trái đến mặt lòng mô ngón cái vòng ra mặt lưng đốt 1 ngón I bàn
tay trái, kích thước (08 x 0,3)cm + (0,8 x 0,2)cm + (5,5 x 0,2)cm, sẹo lồi – lõm,
bờ sắc gọn. Sẹo từ mặt lòng vòng ra mặt lưng đốt 1 ngón II bàn tay trái, kích
thước (5,7 x 0,3)cm, sẹo lồi, màu hồng, bờ sắc gọn. Sẹo mặt lưng đốt 1 ngón III
bàn tay trái, kích thước (1,8 x 0,2)cm, sẹo hơi lồi, màu hồng, bờ sắc gọn. Sây sát
dạng thẳng mặt trước trong 1/3 giữa đùi phải, để lại vết biến đổi sắc tố da, kích
thước (03 x 0,4)cm. Sẹo trước trong 1/3 giữa đến 1/3 dưới đùi phải, nằm xiên,
kích thước (6,2 x 0,6)cm, sẹo lồi, sậm màu, bờ sắc gọn. 2. Xác định tỷ lệ phần
trăm tổn thương cơ thể do tất cả thương tích gây nên là 17%. 3. Kết luận khác:
Thương tích do vật sắc gây nên.
Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số
314/23/KLTTCT-TTPY ngày 17-6-2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh An Giang
kết luận đối với N T T. 1. Các kết quả chính: Sẹo từ hỏm nách trái vòng ra sau
lưng trái, hình vòng cung, kích thước (22,5 x 0,3)cm, bờ sắc gọn, có khâu. Gây
đứt ngang cơ ngực lớn, cơ ngực bé, cơ răng trước, rách tĩnh mạch nền phức tạp,
đã phẩu thuật khâu cơ đứt, cột tĩnh mạch cầm máu. 2. Xác định tỷ lệ phần trăm
tổn thương cơ thể do tất cả thương tích gây nên là 13%. 3. Kết luận khác:
Thương tích do vật sắc gây nên.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông N T T đã nhận số tiền bồi thường thiệt
hại từ N là 40.000.000 đồng, không yêu cầu bồi thường thêm. Ông T làm đơn
bãi nại, không yêu cầu xử lý hình sự với N. Bị hại ông P V Q đã nhận số tiền bồi
thường thiệt hại từ N là 15.000.000 đồng, không yêu cầu bồi thường thêm. Ông
Q làm đơn bãi nại, không yêu cầu xử lý hình sự với N.
Tại cơ quan Điều tra, bị cáo N; bị hại ông N T T, ông P V Q; người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan ông M , ông T Q P; người làm chứng ông D V Q K, ông P
V K, ông N K H khai phù hợp với nội dung vụ án nêu trên.
Tại Cáo trạng số 81/CT-VKSCT-HS ngày 30-11-2023 của Viện Kiểm sát
nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo B M N về tội: “Cố
ý gây thương tích” theo quy định tại Điểm d khoản 3 Điều 134 của Bộ Luật
Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo B M N khai nhận hành vi phạm tội của mình
như nội dung Cáo trạng đã nêu trên, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình
phạt cho bị cáo.
4
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại N T T – Trợ giúp viên
pháp lý bà P T Á D trình bày: Không phát biểu tranh luận về tội danh, các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức hình phạt như đại diện viện kiểm sát
nhân dân huyện Châu Thành đã tuy tố, nhưng có đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, do bị cáo thành khẩn khai báo, đã
khắt phục hậu quả, bị hại có đơn bãi nại cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố
như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, lỗi của bị hại,
đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm d khoản 3 Điều 134; Điểm b, s khoản 1,
khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 của Bộ Luật Hình sự, xử phạt bị cáo B M N
từ 03 năm đến 04 năm tù. Về xử lý vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 túi
giấy bên ngoài có ghi “Cố ý gây thương tích, bọc nilon màu đen dính vết màu
nâu, tại vị trí số 3”. Bên trong túi có chứa 01 bọc nilon màu đen bị rách; 01 túi
giấy bên ngoài có ghi “Cố ý gây thương tích, vết màu nâu tại vị trí số 5”. Bên
trong có chứa 02 que tăm bông loại 01 đầu bông, đã bị cắt lấy lẫu giám định;
theo Quyết định chuyển vật chứng số 66/QĐ-VKS-HS ngày 30-11-2023.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên
trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục
quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo
và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành
vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố
tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
- Tại phiên tòa bị hại ông Q; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông L,
ông P; người làm chứng ông K, ông K, ông H vắng mặt; xét thấy sự vắng mặt
của họ không gây trở ngại đến việc xét xử giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292,
293 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án
theo thủ tục chung.
[2] Về nội dung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo B M N đã
khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng nêu trên.
Lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của bị hại,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm,
thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các
tang vật đã thu giữ, các tài liệu khác được thu thập khách quan đúng pháp luật
có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ để kết luận:
5
Khoảng 18 giờ 15 phút; ngày 24-4-2023, tại quán giải khát “Bo House” khu
Trung tâm Thương mại thuộc ấp C T, xã C Đ, huyện C T, tỉnh An Giang; B M
N có hành vi dùng dao loại dao Thái Lan, lưỡi dao nhọn dài 20cm, cán nhựa
màu đen, chuẩn bị sẵn từ trước là hung khí nguy hiểm, chém gây thương tích
vào nách trái của bị hại ông N T T và gây thương tích ở ngực, hông, lưng, bàn
tay trái, đùi phải của bị hại ông P V Q, làm ông T bị thương tật với tỷ lệ tổn
thương cơ thể do thương tích gây nên là 13%, làm ông Q bị thương tật với tỷ lệ
tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 17%.
Hành vi nêu trên của các bị cáo B M N đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”,
tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm d khoản 3 Điều 134 của Bộ Luật
Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có khung hình phạt từ 05 năm đến
10 năm (tội phạm rất nghiêm trọng).
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến
sức khỏe của con người, gây mất trật tự trị an và an toàn cho xã hội, làm quần
chúng nhân dân lên án và bất bình.
[4] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng
xét xử nhận thấy:
- Như chúng ta đều biết, tính mạng, sức khỏe là vốn quý nhất của con người,
được Nhà nước bảo hộ, mọi hành vi xâm phạm một cách trái pháp luật đều phải
bị nghiêm trị. Bị cáo N tại thời điểm phạm tội là người đã trưởng thành, đủ năng
lực chịu trách nhiệm hình sự và có hiểu biết nhất định về pháp luật, trước khi
phạm tội là người có nhân thân tốt nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản
thân dẫn đến vi phạm pháp luật. Trong vụ án này hành vi của bị cáo thực hiện
với lỗi cố ý, động cơ mục đích của tội phạm là sử dụng dao loại dao Thái Lan,
lưỡi dao nhọn dài 20cm, cán nhựa màu đen, chuẩn bị sẵn từ trước là hung khí
nguy hiểm, nhằm gây thương tích cho người khác, bị hại ông T bị thương với tỷ
lệ tổn thương là 13% và bị hại ông Q bị thương với tỷ lệ tổn thương là 17%. Tuy
nhiên 2 bị hại cũng có một phần lỗi.
- Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại
phiên tòa bị cáo tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu
quả; bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; bị cáo thuộc thành
phần nhân dân lao động, nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế; bị cáo chưa
có tiền án, tiền sự; cả 2 bị hại đều có đơn bãi nại không yêu cầu xử lý hình sự
đối với bị cáo. Đây là các tình tiết để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy
định tại Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự.
Xét thấy: Bị cáo được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó có 2 tình
tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 51 mà không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
Do đó, việc đề nghị áp dụng Điều 54 của Bộ Luật Hình sự và việc áp dụng hình
6
phạt tù là cần thiết nhằm giáo dục răn đe và phòng ngừa chung, cần chấp nhận đề
nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình
phạt tù cách ly khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở
thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.
[5] Đối với ý kiến quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại ông N T T xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, phù hợp với nhận định
của Hội đồng xét xử như đã nêu trên, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Cả 2 bị hại đều không yêu cầu bị cáo bồi thường
gì thêm, nên không đặt ra xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng liên quan đến vụ án: Đối với 01 bọc màu đen bị rách
và 02 que tăm bông loại 01 đầu bông đã thu giữ trong vụ án không có giá trị sử
dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định
của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố: Bị cáo B M N phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ vào: Điểm d khoản 3 Điều 134; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38, Điều 54 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo B M N 04 (bốn) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; thời hạn
tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 17-7-2023.
Căn cứ vào: Điều 47 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017; Điều 106 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 túi giấy bên
ngoài có ghi “Cố ý gây thương tích, bọc nilon màu đen dính vết màu nâu, tại vị
trí số 3”. Bên trong túi có chứa 01 bọc nilon màu đen bị rách; 01 túi giấy bên
ngoài có ghi “Cố ý gây thương tích, vết màu nâu tại vị trí số 5”. Bên trong có
chứa 02 que tăm bông loại 01 đầu bông, đã bị cắt lấy lẫu giám định; theo Quyết
định chuyển vật chứng số 66/QĐ-VKS-HS ngày 30-11-2023.
Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị
quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ
Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo Bùi Minh Nghĩa phải chịu 200.000đ (hai trăm
ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Căn cứ vào: Điều 331 và Điều 333 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự.
Bị cáo B M N; bị hại ông N T T có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (11-01-2024);
7
Bị hại ông P V Q; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông M L, ông T Q
P vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể
từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các Điều 6, 7 và 9 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
-Những người tham gia tố tụng;
-Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành;
-Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang;
-Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện
Châu Thành;
-Nhà Tạm giữ – Công an huyện Châu Thành;
-Phòng kiểm tra nghiệp vụ - Thi hành án,
Tòa án nhân dân tỉnh An Giang;
-Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Châu
Thành, tỉnh An Giang;
-Lưu văn phòng;
-Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lý Đông Hoà
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 05/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 25/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 21/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 29/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 16/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 15/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 12/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 04/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Bản án số 26/2024/HS-ST ngày 04/01/2024 của TAND TP. Sơn La, tỉnh Sơn La về tội cố ý gây thương tích
Ban hành: 04/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm