Bản án số 12/2024/HS-ST ngày 12/01/2024 của TAND TP. Lai Châu, tỉnh Lai Châu về tội cố ý gây thương tích
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 12/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 12/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 12/2024/HS-ST ngày 12/01/2024 của TAND TP. Lai Châu, tỉnh Lai Châu về tội cố ý gây thương tích |
|---|---|
| Tội danh: | 104.Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TP. Lai Châu (TAND tỉnh Lai Châu) |
| Số hiệu: | 12/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 12/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Phạm Xuân V gây thương tích cho vợ là chị Vùi Thị C với tỷ lệ tổn thương co thể là 45% (chị C bị dập và phải cắt bỏ thận phải ) |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TAND THÀNH PHỐ LAI CHÂU
TỈNH LAI CHÂU
Bản án số: 12/2024/HS-ST
Ngày 12 - 01 - 2024
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Hoàng Thị Vân Anh
Các hội thẩm nhân dân: Ông Lưu Quang Vinh
Ông Lý Chí Sung
- Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Văn Lực – Thư ký Tòa án
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu tham gia phiên
toà: Bà Lê Thị Lệ Hằng - Kiểm sát viên
Ngày 12 tháng 01 năm 2024 Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xét xử
sơ thẩm công khai tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu
đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12/2023/HSST ngày 22 tháng 11 năm
2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2023/QĐXXST-HS ngày
30/11/2023 theo quyết định hoãn phiên tòa số 01/2023/HSST-QĐ ngày
13/12/2023 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Phạm Xuân V; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: nam; Sinh
năm: 1985, tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: Tổ 15, phường P, thành phố C, tỉnh
Lai Châu, chỗ ở trước khi bị bắt: Bản C, xã S, thành phố C, tỉnh Lai Châu; Nghề
nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt
Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Phạm Xuân V (sinh năm 1956) và con bà Trần Thị
T (sinh năm 1952); vợ: Vùi Thị C, sinh năm 1986, con: có 02 con, con lớn sinh năm
2008, con nhỏ sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/9/2023 tại Nhà tạm giữ, Công an thành phố
Lai Châu, tỉnh Lai Châu cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
* Người tham gia tố tụng khác:
- Bị hại: Chị Vùi Thị C, sinh năm 1986 (Có mặt)
Địa chỉ: Bản C, xã S, thành phố C, tỉnh Lai Châu.
Nghề nghiệp: Lao động tự do
- Người làm chứng: Chị Vùi Thị, sinh năm 1982 (có mặt)
Địa chỉ: Bản C, xã S, thành phố C, tỉnh Lai Châu.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Tối ngày 15/8/2023, Phạm Xuân V ăn cơm tối cùng vợ là Vùi Thị C và hai
con là Phạm Khánh L (sinh năm 2008) và cháu Phạm Xuân N (sinh năm 2010) tại
2
nhà của mình ở Bản C, xã S, thành phố C, tỉnh Lai Châu. Sau đó V vào phòng ngủ
của mình lấy chai rượu uống một mình. Khoảng 22 giờ cùng ngày, V đi sang phòng
chị C ngủ để nói chuyện về việc gia đình, nhưng chị C không đồng ý nói chuyện nên
hai người xảy ra mâu thuẫn, to tiếng.
Chị C đi ra phòng khách rồi gọi cháu L, cháu N dậy để cùng đi sang ngủ nhờ
nhà chị gái là chị Vùi Thị L nhưng V không cho đi, sau đó V và chị C tiếp tục to
tiếng, cãi nhau, có những lời nói xúc phạm nhau nên V đã dùng tay phải tát một cái
vào mặt bên trái của chị C, khiến chị C choáng váng, ngã xuống nền nhà. Sau đó V,
dùng chân phải đạp mạnh hai cái liên tục vào vùng bụng bên phải của chị C. Lúc
này, cháu N và cháu L vào can ngăn thì V đẩy 3 mẹ con ra ngoài sân trước phòng
khách. Tại đây, V tiếp tục dùng chân phải đạp mạnh hai cái vào vùng bụng phía bên
phải của chị C, một cái vào vùng lưng của chị C và dùng tay phải đấm một cái vào
người chị C, sau đó V đi vào trong nhà rồi khóa cửa lại. Trong suốt quá trình V đánh
chị C, chị C không kịp phản kháng hay chống cự gì.
Khoảng 15 phút sau, V ra mở cửa thì thấy chị C kêu đau ở vùng bụng nên V
để chị C và các con vào trong nhà.
Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 16/8/2023, chị C được chị gái là Vùi Thị L đưa
đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu, sau khi khám các bác sỹ phải phẫu
thuật cắt bỏ hoàn toàn thận bên phải của chị C do bị vỡ thận độ IV.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phạm Xuân V đã khai nhận toàn
bộ hành vi phạm tội như trên, bị cáo và bị hại khẳng định trước khi xảy ra sự việc
giữa hai vợ chồng không có mâu thuẫn lớn.
Tại bản Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số
141/KLTTCT-TTPYLC ngày 11/9/2023 của Trung tâm giám định Pháp y – Sở Y tế
tỉnh Lai Châu, kết luận:
1. Các kết luận chính:
- Cắt lớp vi tính ổ bụng: Hình ảnh không thấy thận phải;
- Siêu âm ổ bụng: Hình ảnh khuyết thận phải;
- Siêu âm hệ tiết niệu: Hình ảnh không quan sát thấy thận phải trên siêu âm hệ
tiết niệu
2. Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT quy định về tỷ lệ phần trăm tổn
thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần xác định
tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Vùi Thị C tại thời điểm giám định là 45%
(Bốn mươi lăm phần trăm).
Các vấn đề khác của vụ án:
Bản Cáo trạng số 73/CT - VKSTP ngày 22/11/2023 của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Phạm Xuân V về tội “Cố ý gây thương
tích” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về
các kết luận giám định và bản Cáo trạng nêu trên.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi
thường gì và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi và tranh luận vị đại diện Viện kiểm sát thay
đổi quan điểm truy tố bị cáo về điểm khoản truy tố bị cáo từ điểm a khoản 2 sang
điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, do hành vi của bị cáo có tính chất côn đồ và
đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b, s khoản 1,
3
khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Xuân V từ 05
năm đến 06 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời gian chấp hành hình phạt
tính từ ngày 13/9/2023.
Về trách nhiệm dân sự: bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên đề nghị
Hội đồng xét xử không xem xét.
Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Không
Đề nghị Hội đồng xét xử, xử lý án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của
pháp luật.
Bị cáo Phạm Xuân V, bị hại Vùi Thị C không có ý kiến tranh luận đối với
quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu.
Lời nói sau cùng: bị cáo Phạm Xuân V đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố
Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát
viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự,
thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại
phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng
của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:
Trên cơ sở lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại,
người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có
đủ cơ sở để khẳng định:
Vào tối ngày 15/8/2023 tại nhà của Phạm Xuân V và vợ là chị Vùi Thị C ở
bản Bản C, xã S, thành phố C, tỉnh Lai Châu, vì mâu thuẫn nhỏ trong gia đình,
Phạm Xuân V đã tát chị C khiến chị C choáng váng ngã xuống nền nhà, rồi V dùng
chân phải đạp 02 phát liên tục vào vùng bụng bên phải của chị Vùi Thị C, dù được
các con can ngăn nhưng khi đẩy 03 mẹ con chị C ra khỏi phòng khách tại sân trước
nhà V tiếp tục đạp 02 phát vào vùng bụng bên phải của chị C, 01 phát vào lưng và
đấm vào người chị C. Quá trình bị V đánh chị C không kịp chống cự gì. Hậu quả
khiến cho chị C bị dập thận phải độ IV và phải cắt bỏ hoàn toàn thận bên phải, tỷ lệ
tổn thương cơ thể của chị C là 45%. Hành vi của bị cáo V, vi phạm vi phạm
nghiêm trọng đến nghĩa vụ của vợ chồng quy định tại Điều 19, Điều 21 Luật hôn
nhân gia đình; vi phạm quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong phòng,
chống bạo lực gia đình quy định tại điều 5 Luật phòng, chống bạo lực gia đình,
cho thấy ý thức coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khoẻ của chính
người mà bị cáo phải có nghĩa vụ yêu thương, quan tâm, chăm sóc, thể hiện tính
côn đồ, hung hãn.
Bị cáo Phạm Xuân V là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận
thức được việc gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật. Hành vi nêu trên
của bị cáo V là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất rất nghiêm trọng, xâm phạm trực
4
tiếp đến quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người, hơn nữa, ý thức được điều đó
nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy: Hành vi của bị cáo Phạm Xuân V cấu thành tội “Cố ý gây thương
tích” thuộc tình tiết định khung tăng nặng hình phạt “có tính chất côn đồ” quy
định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, điều khoản này quy định:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng
thuộc một trong các 06 tháng đến 03 năm:
…
i,Có tính chất côn đồ;
…
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05
năm đến 10 năm:
c,Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy
định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo Phạm Xuân V có nhân thân tốt.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai
báo, sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã tác động đến người thân trong gia đình khắc
phục hậu quả về hành vi của mình đã gây ra cho bị hại, tại phiên tòa bị hại xin giảm
nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo hưởng
tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại
Điều 52 Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị
cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, cải
tạo thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét
[5] Tại phiên tòa Kiểm sát viên thay đổi quan điểm truy tố đối với bị cáo là
phù hợp với tính chất hành vi bị cáo đã thực hiện, phù hợp với quy định của pháp
luật nên cần chấp nhận.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 134, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2
Điều 51 Bộ luật hình sự, Điều 135, Khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333 Bộ luật tố
tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
5
ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Xuân V phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Xuân V 05 (Năm) năm tù. Thời gian
chấp hành hình phạt tính từ ngày 13/9/2023.
3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: - - -
- TAND tỉnh Lai Châu;
- VKSND tỉnh Lai Châu;
- Sở tư pháp tỉnh Lai Châu;
- VKSND thành phố Lai Châu;
- Chi Cục THADS thành phố Lai Châu;
- Công an thành phố Lai Châu;
- Bị cáo; bị hại.
- Lưu HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - chủ toạ phiên toà
Hoàng Thị Vân Anh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 05/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 25/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 21/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 29/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 16/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 15/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 04/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Bản án số 26/2024/HS-ST ngày 04/01/2024 của TAND TP. Sơn La, tỉnh Sơn La về tội cố ý gây thương tích
Ban hành: 04/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm