Bản án số 275/2024/DS-PT ngày 16/09/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 275/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 275/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 275/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 275/2024/DS-PT ngày 16/09/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 275/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2024/DS-ST ngày 03/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 275/2024/DS-PT
Ngày: 16/9/2024
V/v: “Tranh chấp di sản thừa kế
và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: ông Trần Đức Kiên
Các thẩm phán: ông Vũ Thanh Liêm
ông Phạm Văn Hợp
- Thư ký phiên tòa: bà Đặng Ngọc Gia Linh, Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: ông Lê Văn Thành, Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 9 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng,
mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 131/2024/TLPT-
DS ngày 09 tháng 7 năm 2024 về “Tranh chấp di sản thừa kế và yêu cầu hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2024/DS-ST ngày 03 tháng 6 năm 2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1716/2024/QĐPT-DS
ngày 30 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Trương Thị T, sinh năm 1966
Địa chỉ: số nhà D, ngõ E đường H, tổ dân phố A, phường B, thành phố Đ,
tỉnh Quảng Bình; có mặt.
- Bị đơn: bà Trần Thị Lan H, sinh năm 1963
Địa chỉ: tổ dân phố số A P, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; nơi cư
trú hiện nay: thôn D, T, xã N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.
Đại diện theo uỷ quyền của bà H: ông Trương Minh T1, sinh năm 1991; cư
trú tại: tổ dân phố số A P, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình;
2
Đại diện theo pháp luật: ông Hoàng Ngọc Đ, chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình;
Đại diện theo ủy quyền: ông Lê Tuấn L, chức vụ: Phó Trưởng phòng Phòng
Tài nguyên và Môi trường Ủy ban nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình (theo
Văn bản ủy quyền số 1292/QĐ-UBND ngày 04/4/2024); vắng mặt và có đơn xin
xét xử vắng mặt.
2. Ủy ban nhân dân phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình.
Đại diện theo pháp luật: ông Hoàng Văn T2, chức vụ: Chủ tịch;
Đại diện theo uỷ quyền: ông Dương Tiến Đ1, chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân phường B (theo Văn bản ủy quyền ngày 19/9/2022); vắng mặt.
3. Bà Trương Thị T3, sinh năm 1959
Địa chỉ: K P, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; có mặt.
4. Bà Trương Thị Thúy C, sinh năm 1969
Địa chỉ: tổ dân phố số C P, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; vắng
mặt.
5. Những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan của ông Trương Minh T4 (đã chết) gồm:
5.1. Bà Hoàng Thị L1 (bà L1 là vợ ông T4)
Địa chỉ: tổ dân phố số A P, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; vắng
mặt.
5.2. Ông Trương Minh D, sinh năm 1979
Địa chỉ: tổ dân phố số A P, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; có
mặt.
5.3. Ông Trương Xuân K, sinh năm 1977
Địa chỉ: khu C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; vắng mặt.
5.4. Bà Trương Thị T5, sinh năm 1982
Địa chỉ: thôn Đ, xã Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.
Đại diện theo uỷ quyền của anh D, anh K, chị T5: bà Trương Thị T, sinh
năm 1966; cư trú tại: số nhà D, Ngõ E đường H, tổ dân phố A, phường B, thành
phố Đ, tỉnh Quảng Bình (theo Văn bản ủy quyền ngày 03/11/2021 và ngày
08/11/2021); có mặt.
6. Những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trương Minh T6
(đã chết), gồm:
6.1. Bà Trần Thị Lan H, sinh năm 1963
Địa chỉ cư trú hiện nay: thôn D, T, xã N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; vắng
mặt.
6.2. Bà Trương Thị Hoài P, sinh năm 1988;
6.3. Ông Trương Minh T1, sinh năm 1991;
Cùng cư trú tại: tổ dân phố số A P, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình;
bà P vắng mặt, ông T1 có mặt.
3
7. Ông Phan Văn H1, sinh năm 1973
Địa chỉ: thôn T, xã T, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.
Đại diện theo uỷ quyền của ông H1: ông Vũ Xuân H2, sinh năm 1973
Địa chỉ: số H, đường T, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, Biên bản hoà giải và tại phiên toà bà
Trương Thị T (viết tắt là nguyên đơn) trình bày: cụ ông Trương T7 (chết năm
1993) và cụ bà Ngô Thị H3 (chết năm 2005) là bố mẹ đẻ của bà (1)Trương Thị A
(chết lúc còn nhỏ), (2) ông Trương Văn T8 (liệt sỹ, hy sinh năm 1972; chưa có
vợ, con), (3) ông Trương Minh T4 (ông T4 chết năm 2000, có vợ là bà Hoàng Thị
L1 và 03 con là anh Trương Minh D, anh Trương Xuân K, chị Trương Thị T5),
(4) bà Trương Thị T3, (5) ông Trương Minh T6 (ông T6 chết năm 2012 có vợ là
bà Trần Thị Lan H và 02 con là chị Trương Thị Hoài P và anh Trương Minh T1),
(6) bà Trương Thị Thúy C và (7) bà Trương Thị T. Hai cụ không có con riêng,
con nuôi. Quá trình sinh sống hai cụ tạo dựng được khối tài sản là ngôi nhà cấp 4
ba gian, lợp ngói tại thửa đất số 217, tờ bản đồ 299, xã N (nay là thửa đất số 219,
tờ bản đồ số 42 phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình), do cụ T7 đứng tên.
Sau khi cụ T7 chết, cụ H3 tiếp tục quản lý, sử dụng thửa đất nêu trên. Năm 1997,
ông Trương Minh T6 tự ý đăng ký kê khai thửa đất. Ngày 23/02/1999, ông T6
được UBND thị xã (nay là thành phố) Đồng Hới cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ), nhưng chưa có ý kiến của các đồng thừa kế của
cụ T7. Năm 2005, cụ H3 chết, không để lại di chúc. Để đảm bảo quyền lợi của
mình, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế là 1.092m² đất tại
thửa số 219, tờ bản đồ số 42, phường B do vợ chồng cụ T7, cụ H3 để lại và yêu
cầu hủy GCNQSDĐ cấp cho ông T6 tại thửa đất 219, tờ bản đồ số 42, phường B,
thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình.
Tại Bản tự khai, biên bản hoà giải và tại phiên toà, bà Trần Thị Lan H và
người đại diện theo uỷ quyền của bà H (viết tắt là bị đơn) trình bày: bị đơn là
vợ của ông Trương Minh T6 (ông T6 là con đẻ của cụ T7, cụ H3), bị đơn nhất trí
với trình bày của nguyên đơn về năm hai cụ chết, số con và tài sản của hai cụ.
Năm 1987 bị đơn kết hôn với ông T6 và sống chung cùng cụ H3, cụ T7 và 02 em
của ông T6 tại thửa đất số 219, tờ bản đồ 42 xã N (nay là phường B), thành phố
Đ. Năm 1999, ông Trương Minh T6 được UBND thị xã (nay là thành phố) Đồng
Hới cấp GCNQSDĐ tại thửa đất số 219, tờ bản đồ 42 xã N, việc ông T6 được cấp
GCNQSDĐ theo đúng quy định của pháp luật và lúc đó cụ H3 vẫn còn sống khỏe
mạnh, nhưng cụ H3 và các anh, chị, em của ông T6 đều không phản đối.
Năm 2000, do nhà cũ xuống cấp nên vợ chồng bị đơn xây dựng nhà mới một
tầng mái đổ bê tông, cạnh ngôi nhà cũ, còn ngôi nhà cũ vợ chồng bị đơn đã tháo
dỡ và sửa chữa thành công trình phụ để chăn nuôi gia cầm. Vợ chồng bị đơn đã
xin ý kiến cụ H3 và các anh chị em của ông T6 phá bỏ nhà cũ, xây nhà mới để
thuận tiện cho việc phụng dưỡng cụ H3 và thờ cúng ông bà tổ tiên. Năm 2007, vợ
chồng bị đơn xây dựng thêm tầng thứ hai nhà ở. Năm 2020, bị đơn và con trai sửa
lại nhà ở. Quá trình làm và sửa chữa nhà nhiều lần nhưng không có ý kiến, phản
4
đối của các anh chị em trong gia đình ông T6, trong đó có cả nguyên đơn. Vợ
chồng cụ H3 trước đây sinh sống tại xóm Làng theo cách gọi ở địa phương (nay
là cụm A, tổ dân phố A P), do chiến tranh đã sơ tán lên xóm C (nay thuộc tổ dân
phố A, phường Đ), sau này mới chuyển về ở với vợ chồng bị đơn tại thửa đất số
219, tờ bản đồ số 42, phường B, thành phố Đ. Năm 2012 chồng bị đơn chết, bị
đơn một mình nuôi dạy hai con là Trương Minh T1 và Trương Thị Hoài P, chăm
lo thờ phụng ông bà tổ tiên. Năm 1993 cụ T7 chết thì thửa đất số 219, tờ bản đồ
số 42, phường B, thành phố Đ vẫn chưa được cấp GCNQSDĐ, theo quy định của
pháp luật thời kỳ này thì đất đai không phải là di sản thừa kế. Do đó, bị đơn không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bà Trương Thị Thúy C, bà Trương Thị T3, anh Trương Minh D, chị Trương
Thị T5, anh Trương Xuân K là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
vụ án trình bày: nhất trí với nội dung trình bày của nguyên đơn bà Trương Thị T
và yêu cầu chia di sản thừa kế bằng quyền sử dụng đất.
Ủy ban nhân dân phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình trình bày: UBND
phường B được tách ra từ xã N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Thửa đất số 219,
tờ bản đồ số 42 nêu trên thuộc quản lý của UBND phường B. Tuy nhiên, các tài
liệu liên quan đến quá trình sử dụng thửa đất số 219 không được UBND xã N giao
lại. Vì vậy, hiện tại UBND phường B không có tài liệu liên quan đến thửa đất nêu
trên để cung cấp cho Tòa án.
Tại văn bản số 07/UBND-TNMT ngày 05/01/2022 của Ủy ban nhân dân
thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình trình bày:UBND thành phố Đ không có hồ sơ lưu
giữ đối với trường hợp cấp GCNQSDĐ cho ông Trương Minh T6. Qua xem xét,
việc UBND thị xã Đ (nay là thành phố Đ) cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số
219, tờ bản đồ số 42 xã N cho ông T6 vào năm 1999 là đúng thẩm quyền theo quy
định. Từ khi cấp GCNQSDĐ cho ông T6 đến nay UBND thành phố Đ không nhận
được khiếu nại liên quan đến việc cấp GCNQSDĐ cho ông T6. Việc xác định
thửa đất số 217, tờ bản đồ 299 xã N lập năm 1993 và thửa đất số 219, tờ bản đồ
số 42 xã N lập năm 1997 có phải là một thửa đất đề nghị Tòa án liên hệ với UBND
phường B để được giải quyết theo quy định. Việc cung cấp bản đồ 299, sổ địa
chính xã N lập năm 1993 và hồ sơ cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 219, tờ bản
đồ số 42 nêu trên đề nghị Tòa án liên hệ với Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai thành phố Đ để được giải quyết theo quy định.
Chị Trương Thị Hoài T9 và anh Trương Minh D là người có quyền lợi liên
quan vụ án trình bày: anh chị nhất trí trình bày của bị đơn và không chấp nhận
việc khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản tự khai, biên bản hoà giải và tại phiên toà sơ thẩm ông Phan Văn
H1 và người đại diện theo uỷ quyền của ông H1 trình bày: tháng 4 năm 2023
ông nhận chuyển nhượng toàn bộ thửa đất số 219, tờ bản đồ số 42 phường B và
toàn bộ tài sản trên thửa đất từ bà Trần Thị Lan H, việc nhận chuyển nhượng thửa
đất được thực hiện đúng quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi
hành; sau khi nhận chuyển nhượng thửa đất ông đã sang tên đổi chủ thửa đất và
chuyển đổi thêm 200m
2
đất trồng cây hàng năm thành đất ở. Việc ông nhận
5
chuyển nhượng thửa đất là ngay tình nên đề nghị Toà án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho ông.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2024/DS-ST ngày 03 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quyết định: căn cứ khoản 4 Điều 34,
khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015; áp dụng khoản 1 Điều 96, khoản 1 Điều 99 Luật Đất đai 2013; Điều
463 của Bộ luật Dân sự năm 1995; Điều 133, Điều 613, khoản 1 Điều 618, khoản
1 Điều 623, điểm a khoản 1 Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 và khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của U ban Thường vụ Quốc Hội quy
định về mức thu, min, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án ph và lệ ph Toà án;
Tuyên x:
1. Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của bà Trương Thị T về yêu cầu chia
di sản thừa kế của cụ ông Trương T7 và cụ bà Ngô Thị H3.
2. Bà Trần Thị Lan H được quản lý, sử dụng 1.130,5m
2
đất (200m
2
đất ở và
930,5m
2
đất trồng cây lâu năm) tại thửa đất số 154, tờ bản đồ số 37 phường B,
thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình (Toàn bộ thửa đất này bà H đã chuyển nhượng cho
ông Phan Văn H1 từ ngày 22/4/2023);
3. Buộc bà Trần Thị Lan H phải trả cho bà Trương Thị T, bà Trương Thị T3
và bà Trương Thị Thúy C mỗi người 166.312.500 đồng (Một trăm sáu mươi sáu
triệu, ba trăm mười hai ngàn, năm trăm đồng) giá trị k phần thừa kế những người
này được hưởng;
4. Buộc bà Trần Thị Lan H phải trả cho anh Trương Minh D, anh Trương
Xuân K, chị Trương Thị T5, chị Trương Thị Hoài P và anh Trương Minh T1 mỗi
người 55.437.500 đồng (Năm mươi lăm triệu, bốn trăm ba mười bảy ngàn, năm
trăm đồng) giá trị k phần thừa kế những người này được hưởng;
5. Không chấp nhận yêu cầu của bà Trương Thị T về việc hu Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của U ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) Đồng Hới
cấp cho ông Trương Minh T6 ngày ngày 23/02/1999 tại thửa đất số 218, tờ bản
đồ số 42 xã N (nay là phường B), thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án ph, quy định
về chậm thi hành án và thông báo quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 13/6/2024, nguyên đơn bà Trương Thị T kháng cáo bản án sơ thẩm,
yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, hu Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của ông Trương Minh T6 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông
Phan Văn H1; chia di sản thừa kế của bố, mẹ bà cho những người thừa kế bằng
hiện vật.
Ngày 17/6/2024, bị đơn bà Trần Thị Lan H kháng cáo bản án sơ thẩm, đề
nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng phân chia di sản thừa kế của cụ Trương T7
để lại là ½ giá trị thửa đất số 219, tờ bản đồ số 42, nay là thửa đất số 154, tờ bản
đồ số 37, diện tích 1130.5m
2
tại phường B và bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình là ông Phan Văn H1.
6
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, nguyên đơn
và bị đơn không rút đơn kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án theo quy định.
Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật
Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của của nguyên đơn bà Trương Thị
T, kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị Lan H; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm
số 40/2024/DS-ST ngày 03/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình
bày, tranh luận của đương sự và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa,
Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: ngày 13/6/2024 và ngày 17/6/2024, nguyên đơn bà Trương
Thị T và bị đơn bà Trần Thị Lan H kháng cáo bản án sơ thẩm. Đơn kháng cáo của
các đương sự là trong thời hạn quy định tại Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
[2]. Về nội dung: xét kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn, Hội đồng xét xử
xem xét toàn diện các vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án như sau:
[2.1]. Về nguồn gốc tài sản tranh chấp:
Theo trình bày của nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là bà Trương Thị T3, bà Trương Thị Thúy C, anh Trương Minh D, anh
Trương Xuân K và chị Trương Thị T5, thì thửa đất số 219, tờ bản đồ số 42 tại
phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình (trước đây là thửa số 217 theo bản đồ
299 được phê duyệt năm 1993 tại xóm Làng, xã N, thị xã Đ, tỉnh Quảng Bình) là
di sản thừa kế của vợ chồng cụ T7, cụ H3 để lại; trên thửa đất có nhà cấp 4, giếng
nước và công trình phụ; nhưng sau này vợ chồng ông T6, bà H đã phá nhà cấp 4
và các công trình để xây nhà kiên cố trên thửa đất. Tài liệu nguyên đơn giao nộp
là bản phô tô tờ bản đồ 299 được duyệt năm 1993, do UBND xã N lập thể hiện
thửa đất số 217 đứng tên cụ T7.
Lời khai của bị đơn bà Trần Thị Lan H không thống nhất về nguồn gốc thửa
đất tranh chấp, có lúc bị đơn trình bày thửa đất đang tranh chấp do ông Trương
Minh T6 là chồng bị đơn tạo lập, cụ T7, cụ H3 sống ở nơi khác sau chiến tranh
mới chuyển về thửa đất đang tranh chấp sống cùng ông T6; tuy nhiên tại đơn trình
bày ngày 12/9/2022, bị đơn xác định năm 1987 bị đơn kết hôn với ông T6, lúc đó
đã có nhà, đất của vợ chồng cụ H3, khi ông T6 làm thủ tục đăng ký kê khai có sự
đồng ý của cụ H3 cho vợ chồng bị đơn thửa đất nêu trên, sau đó vợ chồng bị đơn
đã phá bỏ nhà cũ và xây nhà mới, hiện chỉ còn giếng nước. Tuy nhiên, bị đơn
không xuất trình được chứng cứ chứng minh việc ông T6 tạo lập thửa đất cũng
như việc cụ H3 tặng cho vợ chồng bị đơn thửa đất nêu trên. Tài liệu bà H xuất
trình là Sổ mục kê đất tạm thời năm 1997 tại xã N, thị xã Đ, tỉnh Quảng Bình do
ông T6 đứng tên thửa đất số 219, diện tch 1.092m² và GCNQSDĐ cấp ngày
23/02/1999 do ông T6 đứng tên thửa đất số 219, tờ bản đồ số 42 xã N.
Tại bản tự khai, biên bản ghi lời khai các ông Trương G, ông Trần Văn D1,
bà Trương Thị L2, ông Trương C1, ông Đoàn T10 là những người làm chứng
7
sống gần thửa đất tranh chấp đều xác nhận cụ T7, cụ H3 về sống trên đất tranh
chấp từ năm 1980 cùng với vợ chồng ông T6; thửa đất hiện đang tranh chấp do
vợ chồng cụ T7 cùng nhau tạo lập. Tuy nhiên, ngày 12/4/2022 ông Trương C1 có
giấy đnh chnh lại lời khai trước đó với nội dung: đầu năm 1970, gia đình cụ T7
đã về thửa đất hiện các đương sự tranh chấp để xây dựng nhà ở, lúc đó các con
của hai cụ đang đi học (năm 1980 ông T6 đang học trung học phổ thông).
Quá trình giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm đã tiến hành xác minh tại
UBND thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; UBND phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình,
yêu cầu cung cấp hồ sơ đăng ký, kê khai, cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất tranh
chấp. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền nêu trên đều xác nhận đơn vị không
lưu giữ hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho ông T6 tại thửa đất đang tranh chấp.
Mặc dù tại các lời khai trình bày khác nhau, nhưng chnh bị đơn bà Trần Thị
Lan H thừa nhận thửa đất đang tranh chấp do vợ chồng cụ H3 cho ông T6, nhà cũ
của vợ chồng cụ H3 do vợ chồng bị đơn phá dỡ từ năm 2000 để xây nhà mới, hiện
chỉ còn giếng nước. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm xác định thửa đất tranh chấp là di
sản thừa kế của vợ chồng cụ T7, cụ H3 để lại chưa chia là có cơ sở.
Bà Trần Thị Lan H cho rằng khi ông T6 đăng ký, kê khai cấp GCNQSDĐ
năm 1999 thì cụ H3 còn sống và biết nhưng không phản đối nên cần áp dụng Án
lệ số 03/2016/AL ngày 04/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao về tặng cho quyền sử dụng đất để công nhận việc tặng cho phần di sản của cụ
H3 cho vợ chồng bị đơn và không chấp nhận việc khởi kiện của nguyên đơn. Tuy
nhiên, tại thời điểm ông T6 được cấp GCNQSDĐ năm 1999 theo quy định của
pháp luật thì việc tặng cho bất động sản phải lập thành văn bản, có công chứng
hoặc chứng thực và phải đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy
định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 1995. Mặt khác, thửa đất tranh chấp trong
vụ án này có sự sử dụng kế thừa từ vợ chồng cụ H3 để lại cho vợ chồng bị đơn,
không có sự sử dụng độc lập như tình huống trong Án lệ số 03/2016/AL của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó yêu cầu này của bị đơn không
có cơ sở chấp nhận.
Cụ T7 chết trước khi Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực pháp luật, nhưng vợ
chồng cụ T7 có căn nhà và các vật kiến trúc trên đất đã sử dụng từ trước năm
1987, do đó có căn cứ xác định thửa đất tranh chấp là di sản thừa kế của cụ T7,
cụ H3 để lại; theo quy định tại điểm b, tiểu mục 1.3, Mục 1 Phần 11 Nghị quyết
số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/4/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao thì tại thời điểm ông T6 đăng ký, kê khai cấp GCNQSDĐ năm 1999 thời
hiệu về chia thừa kế của cụ T7 vẫn còn, nhưng chưa có ý kiến của các thừa kế của
cụ T7 đồng ý cho ông T6 thửa đất nêu trên nên việc cấp GCNQSDĐ cho ông T6
là không đúng quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, các đồng thừa
kế của cụ T7, cụ H3 thừa nhận di sản thừa kế của hai cụ để lại là quyền sử dụng
1.130,5m
2
đất (200m
2
đất ở và 930,5m
2
đất trồng cây lâu năm) tại thửa đất số 154,
tờ bản đồ số 37 phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình nên Toà án cấp sơ thẩm
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị T, chia di sản của cụ
T7, cụ H3 để lại theo pháp luật là có căn cứ, đúng quy định.
8
[2.2]. Hàng thừa kế của cụ Trương T7 (chết năm 1993) và cụ Ngô Thị H3
(chết năm 2005): cụ Trương T7 và cụ Ngô Thị H3 là vợ chồng, hai cụ sinh được
07 người con bao gồm: bà Trương Thị A (chết lúc còn nhỏ), ông Trương Văn T11
(liệt sỹ, hy sinh năm 1972, không vợ, con), ông Trương Minh T4 (ông T4 chết
năm 2000 có vợ là bà Hoàng Thị L1, có 03 người con là anh Trương Minh D, anh
Trương Xuân K và chị Trương Thị T5), bà Trương Thị T3, ông Trương Minh T6
(ông T6 chết năm 2012, có vợ là bà Trần Thị Lan H và 02 con là chị Trương Thị
Hoài P và anh Trương Minh T1), bà Trương Thị Thúy C và bà Trương Thị T, hai
cụ không có con riêng, con nuôi.
Cụ T7, cụ H3 chết không để lại di chúc, hàng thừa kế thứ nhất của cụ T7, cụ
H3 bao gồm: ông Trương Minh T4 (ông T4 chết trước cụ H3 nên các anh Trương
Minh D, anh Trương Xuân K và chị Trương Thị T5 là con ông T4 được hưởng
thừa kế thế vị); bà Trương Thị T3; ông Trương Minh T6 (ông T6 chết năm 2012,
nên bà Trần Thị Lan H và 02 con là chị Trương Thị Hoài P và anh Trương Minh
T1 được hưởng phần di sản của ông T6 được hưởng); bà Trương Thị Thúy C và
bà Trương Thị T.
[2.3]. Chia di sản thừa kế theo pháp luật:
Di sản cụ T7, cụ H3 để lại là quyền sử dụng 1.130,5m
2
đất (200m
2
đất ở và
930,5m
2
đất trồng cây lâu năm) tại thửa đất số 154, tờ bản đồ số 37 phường B,
thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Theo kết quả định giá thì đất ở có trị giá 200m
2
x
1.500.000/m
2
= 300.000.000 đồng; đất trồng cây lâu năm có trị giá 930,5m
2
x
750.000/m
2
= 697.875.000 đổng. Tổng giá trị thửa đất là 997.875.000 đồng.
Di sản thừa kế của cụ T7, cụ H3 được chia làm 06 k phần, trong đó bị đơn
bà Trần Thị Lan H có công quản lý di sản nên được hưởng công sức bằng 01 k
phần thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 618 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Như vậy, mỗi k phần được chia là 166.312.500 đồng, cụ thể: Nguyên đơn bà
Trương Thị T, bà Trương Thị T3, bà Trương Thị Thúy C và bị đơn Trần Thị Lan
H mỗi người được chia 01 k phần là 166.312.500 đồng; anh Trương Minh D,
anh Trương Xuân K và chị Trương Thị T5 được chia 01 k phần thừa kế, theo đó
mỗi người được hưởng 55.440.500 đồng; bà Trần Thị Lan H, chị Trương Thị Hoài
P và anh Trương Minh T1 được chia 01 k phần thừa kế, theo đó mỗi người được
hưởng 55.440.500 đồng.
Nguyên đơn, bà Trương Thị Thúy C, bà Trương Thị T3 và những người thừa
kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trương Minh T4 đều có nguyện vọng chia
thừa kế bằng hiện vật là quyền sử dụng đất để làm nơi thờ cúng bố mẹ, ông bà.
Tuy nhiên, ngày 26/9/2022 Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử và tuyên
Bản án số 223/2022/DS-PT, không chấp nhận việc khởi kiện của nguyên đơn, Bản
án này có hiệu lực thi hành; ngày 22/4/2023 bị đơn bà Trần Thị Lan H đã chuyển
nhượng toàn bộ thửa đất số 154, tờ bản đồ số 37 phường B, thành phố Đ, tỉnh
Quảng Bình và tài sản trên đất cho ông Phan Văn H1; Hợp đồng chuyển nhượng
thửa đất được công chứng theo quy định, sau đó ông H1 đã được điều chỉnh sang
tên quyền sử dụng thửa đất và sau khi nhận chuyển nhượng thửa đất ông H1 đã
chuyển đổi thêm 200m
2
đất ở.
9
Ngày 15 tháng 8 năm 2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao mới
ban hành Quyết định kháng nghị đối với Bản án số 223/2022/DS-PT ngày
26/9/2022 của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Như vậy, bị đơn đã chuyển
nhượng toàn bộ thửa đất cho ông H1 ngay tình trước khi có quyết định kháng
nghị. Theo quy định tại Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015 về bảo vệ quyền lợi
của người thứ ba ngay tình, nên Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu
chia di sản thừa kế bằng quyền sử dụng đất của nguyên đơn và một số người liên
quan vụ án là có cơ sở, đúng pháp luật. Do bị đơn Trần Thị Lan H đã chuyển
nhượng toàn bộ di sản thừa kế của cụ T7, cụ H3 cho ông H1 nên buộc bị đơn có
nghĩa vụ trả toàn bộ giá trị các k phần thừa kế cho những người được hưởng.
[3]. Đối với yêu cầu hu GCNQSDĐ do UBND thị xã (nay là thành phố)
Đồng Hới cấp cho ông Trương Minh T6 ngày 23/02/1999 của nguyên đơn:
Như nhận định, phân tích tại mục [2] nêu trên của Bản án, việc ông Trương
Minh T6 được UBND thành phố Đ cấp GCNQSDĐ ngày 23/02/1999 đối với thửa
đất số 218, tờ bản đồ số 42 xã N, thành phố Đ là trái quy định, sau khi Bản án số
223/2022/DS-PT ngày 26/9/2022 Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có hiệu
lực, bị đơn Trần Thị Lan H đã làm thủ tục và được Sở Tài nguyên & Môi trường
tỉnh Q cấp GCNQSDĐ số DI 874499 ngày 17/4/2023 tại thửa đất số 154, tờ bản
đồ số 37 phường B, thành phố Đ. Ngày 22/4/2023, bà H đã chuyển nhượng toàn
bộ thửa đất số 154, tờ bản đồ số 37 phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình cùng
tài sản trên thửa đất cho ông Phan Văn H1; việc ông H1 nhận chuyển nhượng từ
bà H là ngay tình và ông H1 đã được điều chỉnh sang tên GCNQSDĐ, do đó
GCNQSDĐ của UBND thành phố Đ cấp cho ông Trương Minh T6 ngày
23/02/1999 tại thửa đất số 218, tờ bản đồ số 42 xã N, thành phố Đ hiện đã không
còn giá trị sử dụng, nên Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình không chấp nhận yêu
cầu của nguyên đơn về việc hu GCNQSDĐ của UBND thị xã (nay là thành phố)
Đồng Hới cấp cho ông Trương Minh T6 ngày 23/02/1999 đối với thửa đất số 218,
tờ bản đồ số 42, xã N, thành phố Đ là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.
[4]. Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn bà Trương Thị T và kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị
Lan H; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2024/DS-ST ngày 03/6/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
[5]. Về án phí phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên bà
Trương Thị T phải chịu, bà Trần Thị Lan H là người cao tuổi nên được min án
phí dân sự phúc thẩm.
[6]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Không chấp nhận kháng cáo của của nguyên đơn bà Trương Thị T;
- Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị Lan H;
10
- Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2024/DS-ST ngày 03/6/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
2. Căn cứ khoản 4 Điều 34, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165, khoản 2
Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; áp dụng khoản 1 Điều 96, khoản
1 Điều 99 Luật Đất đai 2013; Điều 463 của Bộ luật Dân sự năm 1995; Điều 133,
Điều 613, khoản 1 Điều 618, khoản 1 Điều 623, điểm a khoản 1 Điều 651 và Điều
652 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Tuyên x:
2.1. Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của bà Trương Thị T về yêu cầu chia
di sản thừa kế của cụ ông Trương T7 và cụ bà Ngô Thị H3;
2.2. Bà Trần Thị Lan H được quản lý, sử dụng 1.130,5m
2
đất (200m
2
đất ở
và 930,5m
2
đất trồng cây lâu năm) tại thửa đất số 154, tờ bản đồ số 37 phường B,
thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình (toàn bộ thửa đất này bà H đã chuyển nhượng cho
ông Phan Văn H1 từ ngày 22/4/2023);
2.3. Buộc bà Trần Thị Lan H phải trả cho bà Trương Thị T, bà Trương Thị
T3 và bà Trương Thị Thúy C mỗi người 166.312.500 đồng (Một trăm sáu mươi
sáu triệu, ba trăm mười hai ngàn, năm trăm đồng) giá trị k phần thừa kế những
người này được hưởng;
2.4. Buộc bà Trần Thị Lan H phải trả cho anh Trương Minh D, anh Trương
Xuân K, chị Trương Thị T5, chị Trương Thị Hoài P và anh Trương Minh T1 mỗi
người 55.437.500 đồng (Năm mươi lăm triệu, bốn trăm ba mười bảy ngàn, năm
trăm đồng) giá trị k phần thừa kế những người này được hưởng;
2.5. Không chấp nhận yêu cầu của bà Trương Thị T về việc hu Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của U ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) Đồng Hới
cấp cho ông Trương Minh T6 ngày ngày 23/02/1999 tại thửa đất số 218, tờ bản
đồ số 42 xã N (nay là phường B), thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật người được thi hành án có đơn yêu
cầu thi hành án, bên có nghĩa vụ thi hành án phải trả lãi đối với số tiền chậm trả
tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác
định theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và
9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Căn cứ khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 29 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
Hội quy định về mức thu, min, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án.
- Bà Trần Thị Lan H được min án phí dân sự phúc thẩm;
11
- Bà Trương Thị T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân
sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 (ba trăm
nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004961 ngày 25/6/2024 của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình. Bà Trương Thị T đã nộp đủ án phí dân
sự phúc thẩm.
4. Quyết định về chi phí tố tụng, án phí và các phần quyết định khác của bản
án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị được thi hành theo Bản án
dân sự sơ thẩm số 40/2024/DS-ST ngày 03/6/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Bình;
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- Cục THADS tỉnh Quảng Bình;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, P.HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Đức Kiên
Tải về
Bản án số 275/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 275/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm