Bản án số 21/2025/DS-PT ngày 06/04/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 21/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 21/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 21/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 21/2025/DS-PT ngày 06/04/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hải Phòng |
Số hiệu: | 21/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Đức M và Nguyễn Đắc Đ tranh chấp đất đai về ngõ đi |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 21/2025/DS-PT
Ngày 06-4-2025
V/v tranh chấp đất đai về ngõ đi
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Đặng Hồ Điệp.
Các Thẩm phán: Ông Đinh Duy Việt
Ông Nguyễn Hồng Giang
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thu Trang - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Hà - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 08/2025/TLPT-DS ngày 23 tháng
01 năm 2025 về việc “Tranh chấp đất đai về ngõ đi”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2024/DS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên (nay là thành phố Thuỷ Nguyên), thành phố
Hải Phòng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2025/QĐ-PT ngày 03 tháng 3 năm
2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức M, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn 3, xã Liên
Khê, huyện Thủy Nguyên, (nay là xã Liên Xuân, thành phố Thuỷ Nguyên), thành
phố Hải Phòng; có mặt;
Người đại diện của ông Nguyễn Đức M và bà Đỗ Thị Xuân: Ông Nguyễn Đức
Quỳnh, sinh năm 1968; địa chỉ: Tổ 4, khu 9B, phường Quang Hanh, thành phố Cẩm
Phả, tỉnh Quảng Ninh, là người đại diện theo ủy quyền; có mặt;
- Bị đơn: Ông Nguyễn Đắc Đ, sinh năm 1934; địa chỉ: Thôn 3, xã Liên Khê,
huyện Thủy Nguyên (nay là xã Liên Xuân, thành phố Thuỷ Nguyên), thành phố Hải
Phòng; vắng mặt;
Người đại diện của bị đơn: Ông Nguyễn Anh Tuấn, sinh năm 1969; địa chỉ:
Thôn 3, xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên (nay là xã Liên Xuân, thành phố Thuỷ
Nguyên), thành phố Hải Phòng; là người đại diện theo uỷ quyền (Văn bản uỷ quyền
ngày 07 tháng 3 năm 2025); có mặt.
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Đỗ Thị Xuân, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn 3, xã Liên Khê, huyện Thủy
Nguyên, (nay là xã Liên Xuân, thành phố Thuỷ Nguyên), thành phố Hải Phòng; có
mặt;
2. Bà Vũ Thị Tỉu, sinh năm 1931; địa chỉ: Thôn 3, xã Liên Khê, huyện Thủy
Nguyên, (nay là xã Liên Xuân, thành phố Thuỷ Nguyên), thành phố Hải Phòng; vắng
mặt;
3. Ông Nguyễn Anh Tuấn, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Hương, sinh năm
1975; cùng địa chỉ: Thôn 3, xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, (nay là xã Liên Xuân,
thành phố Thuỷ Nguyên), thành phố Hải Phòng; bà Hương vắng mặt;
Người đại diện của bà Vũ Thị Tỉu và bà Nguyễn Thị Hương: Ông Nguyễn
Anh Tuấn; địa chỉ: Thôn 3, xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, (nay là xã Liên Xuân,
thành phố Thuỷ Nguyên), thành phố Hải Phòng là người đại diện theo ủy quyền
(Văn bản uỷ quyền ngày 07 tháng 3 năm 2025); có mặt.
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Đức Quỳnh - là người đại diện hợp pháp của
ông Nguyễn Đức M - nguyên đơn và bà Đỗ Thị Xuân - người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, lời khai của nguyên đơn là ông Nguyễn Đắc Đ và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Đỗ Thị Xuân trình bày:
Vợ chồng bà Đỗ Thị Xuân và ông Nguyễn Đức M là chủ sử dụng hợp pháp
của thửa đất số 106, tờ bản đồ số 07, diện tích 759m
2
tại xã Liên Khê, huyện Thủy
Nguyên, thành phố Hải Phòng đã được Ủy ban nhân dân huyện Thủy Nguyên cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 067976 ngày 30 tháng 12 năm 2005.
Trong đó có ngõ đi riêng dài 13,5m và rộng 2,9 m có nguồn gốc là của vợ chồng ông
bà. Quyền sử dụng đất trên bao gồm ngõ đi riêng của gia đình ông bà. Đây là ngõ đi
có từ trước năm 1975, gia đình ông bà đã cải tạo, tu bổ để thuận tiện cho việc sử
dụng. Từ trước đến nay chỉ có gia đình ông bà sử dụng ổn định ngõ đi này và ông
bà đã tôn tạo, tu bổ để thuận tiện cho việc đi lại. Năm 2023, gia đình ông Nguyễn
Đắc Đ phá nhà cũ, xây nhà mới, bờ tường của công trình phụ chiếm dụng vào ngõ
đi của vợ chồng ông bà có chỗ tới 50cm, Ông Nguyễn Đức M và bà Đỗ Thị Xuân
đã nhiều lần yêu cầu ông Nguyễn Đắc Đ chấm dứt hành vi chiếm dụng ngõ đi riêng
này nhưng không được. Nay ông bà đề nghị Tòa án công nhận ngõ đi dài 13,5m và
rộng 2,9m tính từ tim ngõ tại thôn 3, xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, thành phố
Hải Phòng là ngõ đi riêng của ông Nguyễn Đức M, bà Đỗ Thị Xuân và ông Nguyễn
Đắc Đ phải trả lại ngõ rộng 2,9m, dài 13,5m.
Bị đơn ông Nguyễn Đắc Đ, bà Vũ Thị Tỉu, bà Nguyễn Thị Hương, ông Nguyễn
Anh Tuấn cùng thống nhất trình bày:
3
Gia đình ông Nguyễn Đắc Đ là chủ sử dụng hai mảnh đất liền kề ngõ đi đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong các giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất này ghi ngõ r: 2,5m. Dọc hai bên ngõ ông Đ, bà Tỉu, bà Hương, ông Tuấn
xây bờ tường bao từ khoảng năm 1994 trên đất của mình. Từ đó đến năm 2023 không
có tranh chấp, liên quan đến ngõ đi và gia đình các ông bà cũng không sử dụng ngõ
này. Năm 2023 gia đình ông bà phá một phần tường bao cũ và vẫn xây trên nền
móng cũ tường bao và nhà. Đây là ngõ đi có từ lâu và ngõ vẫn nguyên trạng như từ
khoảng năm 1990 đến nay. Việc ông M đề nghị Tòa án công nhận ngõ đi dài 13,5m
và rộng 2,9m tính từ tim ngõ tại thôn 3, xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, thành
phố Hải Phòng là ngõ đi riêng của ông Nguyễn Đức M, bà Đỗ Thị Xuân và ông
Nguyễn Đắc Đ phải trả lại ngõ rộng 2,9m, dài 13,5m là không có căn cứ.
Tại Bản án số 38/2024/DS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2024, Tòa án nhân dân
huyện Thuỷ Nguyên (nay là thành phố Thuỷ Nguyên), thành phố Hải Phòng đã quyết
định:
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 228,
Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 203, 245, 254 của Bộ luật Dân sự;
các điều 235, 236 của Luật Đất đai năm 2024; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, xác định diện tích đất
là lối đi 38,5m
2
tại thôn 3, xã Liên Khê, huyện Thuỷ Nguyên (nay là xã Liên Xuân,
thành phố Thuỷ Nguyên), thành phố Hải Phòng không phải là lối đi riêng của ông
Nguyễn Đức M, bà Đỗ Thị Xuân (có sơ đồ hiện trạng kèm theo, mốc 1-2-3-4).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 09 tháng 8 năm 2024, người đại diện của
Nguyễn Đức M và bà Đỗ Thị Xuân kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm buộc ông
Nguyễn Đắc Đ trả lại ngõ đi ra trước đường thôn rộng 2,9m (lấy từ tim ngõ), dài
13,5m như đã đề nghị theo đơn ngày 02 tháng 8 năm 2023 cho ông Nguyên Đức M
và bà Đỗ Thị Xuân. Lý do kháng cáo: Quyết định của bản án sơ thẩm chưa khách
quan.
* Tại phiên toà, nguyên đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo và yêu cầu khởi
kiện, các đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm
giải quyết vụ án:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán,
Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung kháng cáo:
4
Theo các tài liệu xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Liên Khê, Ủy ban nhân
dân huyện Thủy Nguyên thì lối đi chung có khoảng từ năm 1975, chỉ có gia đình
ông M sử dụng diện tích đất này là lối đi nhưng đây không phải diện tích đất của
gia đình ông M. Tại phiên tòa ông M khai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được cấp đối với diện tích đất không bao gồm ngõ đi. Căn cứ biên bản làm việc
tại xã do Chủ tọa phiên tòa công bố gia đình ông Đ xây dựng lại trên nền móng
tường cũ. Các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn Đức M,
ông Nguyễn Đắc Đ đều thể hiện đây là lối đi chung.
Về chiều rộng của ngõ đi chung, ông M cho rằng ngõ đi có chiều rộng 2,9m
và yêu cầu Tòa án buộc ông Đ phải trả lại chiều rộng của ngõ là 2,9m. Theo lời
khai của ông M thì không có tài liệu gì chứng minh chiều ngang cụ thể của ngõ.
Tài liệu xem xét thẩm định tại chỗ thì hiện nay ngõ đi có chiều dài là 15,82m
(3,23+3,13+2,63+2,26+2,64+1,93), chiều rộng của ngõ có đoạn 3m; 2,65m; 2,4m;
2,42m;2,45m; 2,64m. Trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông
M, thửa số 106, tờ bản đồ số 07, diện tích 759m2 thể hiện đầu ngõ rộng 2,9m, tuy
nhiên đây chỉ thể hiện đoạn từ 02 trụ cổng nhà ông M đi ra ngõ rộng 2,9m còn
toàn bộ phần chiều rộng của ngõ được thể hiện trong 02 Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số T960109 số thửa 184, tờ bản đồ số 07 ngày 12 tháng 7 năm 2002
và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T960108 số thửa 184, tờ bản đồ số 07
ngày 12 tháng 7 năm 2002 đều cấp cho ông Nguyễn Đắc Đ là 2,5m. Mặt khác
GCNQSDĐ được cấp cho ông Đ từ năm 2002, sau đó năm 2005 ông M mới được
cấp GCNQSDĐ. Ngoài các tài liệu trên thì không còn tài liệu nào khác thể hiện
chiều rộng của ngõ đi chung. Do đó, yêu cầu của ông M buộc ông Đ phải trả lại
chiều rộng ngõ là 2,9m là không có căn cứ. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử bác
yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi
kiện đòi lại diện tích ngõ đi mà bị đơn đang sử dụng và đề nghị công nhận ngõ đi đó là
ngõ đi riêng của gia đình nguyên đơn. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp là tranh chấp đất đai về ngõ đi theo quy định tại khoản 9 Điều 26 của Bộ luật
Tố tụng dân sự là đúng quy định của pháp luật. Nơi có tài sản tranh chấp và nơi bị đơn
cư trú tại: Xã Liên Xuân, thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Do đó, Toà
án nhân dân thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng thụ lý và giải quyết vụ án
theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền. Vụ án có kháng cáo hợp lệ nên Tòa án nhân
dân thành phố Hải Phòng giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị
đơn và những người liên quan vắng mặt nhưng đã có mặt người đại diện hợp pháp,
5
nên căn cứ vào Điều 296 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét
xử vắng mặt họ.
- Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Nguyễn Đức M và bà Đỗ Thị Xuân:
[3] Ông Nguyễn Đức M và bà Đỗ Thị Xuân yêu cầu Tòa án công nhận ngõ đi
riêng dài 13,5m và rộng 2,9m tính từ tim ngõ tại thôn 3, xã Liên Khê, huyện Thủy
Nguyên, thành phố Hải Phòng là ngõ đi riêng của ông Nguyễn Đức M, bà Đỗ Thị
Xuân; yêu cầu ông Nguyễn Đắc Đ phải trả lại cho ông bà ngõ rộng 2,9m, vì cho
rằng: “ông bà là chủ sử dụng hợp pháp của thửa đất số 106, tờ bản đồ số 07, diện
tích 759m
2
tại xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã được Ủy
ban nhân dân huyện Thủy Nguyên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ
067976 ngày 30/12/2005. Trong đó có ngõ đi riêng dài 13,5m và rộng 2,9 m có
nguồn gốc là của vợ chồng ông bà”. Tuy nhiên, trong Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ 00589/H/2005 ngày 30 tháng 12 năm 2005 của Ủy ban nhân dân
huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng chứng nhận tên người sử dụng đất “hộ ông Nguyễn
Đức M” tại thửa 106 tờ bản đồ 07 được quyền sử dụng 579m
2
, không thể hiện có
ngõ đi riêng. Xem xét sơ đồ thửa đất theo giấy chứng chứng nhận quyền sử dụng đất
thấy phần đất tiếp giáp thửa đất của ông Nguyễn Đắc Đ ghi “ngõ r: 2,9m”. Tại phiên
toà phúc thẩm, ông M, bà Xuân và người đại diện của ông M, bà Xuân cũng xác
nhận trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông bà không thể hiện
phần đất đang tranh chấp là ngõ đi riêng, chỉ thể hiện “ngõ r: 2,9m” nên ông bà hiểu
là ngõ riêng hoặc là ngõ rộng. Và do từ trước đến nay, ông bà vẫn sử dụng lối đi này
nên mặc định là ngõ đi riêng của gia đình.
[4] Ngoài ra, trong 03 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân
dân huyện Thuỷ Nguyên chứng nhận tên người sử dụng “hộ ông Nguyễn Đắc Đ” tại
thửa 184 tờ bản đồ 07, không thể hiện có ngõ đi riêng; sơ đồ của ba thửa đất theo
các Giấy chứng chứng nhận quyền sử dụng đất đều thể hiện phần đất tiếp giáp thửa
đất của ông Nguyễn Đức M và khu dân cư ghi “ngõ r: 2,5m”.
[5] Sơ đồ hiện trạng của hai thửa đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đã cấp cho hộ ông M và hộ ông Đ phù hợp với biên bản xem xét thẩm định tại chỗ
của Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên (nay là thành phố Thuỷ Nguyên), thể hiện
ngõ đi tiếp giáp giữa hai gia đình có đoạn hẹp nhất là 2,45m và đoạn rộng nhất là
2,65m.
[6] Đối với diện tích đất đang tranh chấp, theo tài liệu xác minh tại Ủy ban
nhân dân xã Liên Khê, có nguồn gốc từ trước năm 1975. Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất không chứng nhận ngõ đi thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Đức M,
chỉ xác định lối đi ra từ nhà ông M rộng 2,9m. Tường bao hai bên ngõ đi do gia đình
ông Nguyễn Đức Đ xây khoảng từ năm 1990. Việc sử dụng lối đi này ổn định đến
năm 2023, phát sinh tranh chấp. Theo Biên bản giải quyết theo đơn đề nghị tranh
chấp đất đai của bà Đỗ Thị Xuân tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Liên Khê ngày 11
tháng 7 năm 2023 đã kết luận Đơn của bà Đỗ Thị Xuân về việc hộ liền kề xây dựng
lấn đất sang nhà bà Đỗ Thị Xuân là không có cơ sở giải quyết.
6
[8] Từ những nhận định nêu trên, thấy ông Nguyễn Đức M và bà Đỗ Thị Xuân
cho rằng ông Nguyễn Đắc Đ có hành vi chiếm dụng ngõ đi riêng, và yêu cầu ông
Nguyễn Đắc Đ phải trả lại cho ông M và bà Xuân diện tích đất có chiều rộng 2,9m
và chiều dài 13,5m tính từ tim ngõ là không có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử phúc
thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Đức M và bà Đỗ Thị Xuân.
[9] Về án phí:
Về án phí dân sự sơ thẩm: Bản án sơ thẩm ghi ngày nộp tiền tạm ứng án phí
dân sự sơ thẩm là ngày 18 tháng 10 năm 2024 là có sai sót, cần sửa lại là ngày 18
tháng 10 năm 2023.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Đức M và
bà Đỗ Thị Xuân không được chấp nhận nên ông M và bà Xuân phải chịu án phí dân
sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 5 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 148, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158, khoản 1 Điều 165,
khoản 1 Điều 166, Điều 296, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 7 Điều 27, Điều 29 của Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án,
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Đức M và bà Đỗ Thị Xuân,
sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2024/DS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên (nay là thành phố Thuỷ Nguyên), thành
phố Hải Phòng về phần án phí:
1.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1.2. Xác định diện tích đất 38,5m
2
(rộng 2,9m, dài 13,5m) tại thôn 3, xã Liên
Khê, huyện Thuỷ Nguyên (nay là xã Liên Xuân, thành phố Thủy Nguyên), thành
phố Hải Phòng (lấy từ tim ngõ), không phải là lối đi riêng của ông Nguyễn Đức M,
bà Đỗ Thị Xuân (có sơ đồ hiện trạng kèm theo bản án sơ thẩm, mốc 1-2-3-4).
2. Về án phí dân sự:
Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Đức M, phải chịu 300.000 đồng án
phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ đi số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000
đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải
Phòng tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí 0008801 ngày 18 tháng 10 năm 2023.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Đức M và bà Đỗ Thị Xuân, mỗi
người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ đi số tiền
7
tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ
Nguyên, thành phố Hải Phòng tại các Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0010328
và 0010329 ngày 15 tháng 01 năm 2025.
Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều
9 của Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
-VKSNDTP Hải Phòng;
- TAND thành phố Thuỷ Nguyên, HP;
- Chi cục THADS thành phố Thuỷ Nguyên,
HP
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đặng Hồ Điệp
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 07/2025/DS-ST ngày 11/03/2025 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm