Bản án số 116/2025/DSPT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 116/2025/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 116/2025/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 116/2025/DSPT
Tên Bản án: | Bản án số 116/2025/DSPT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 116/2025/DSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp lấn chiế đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 116/2025/DSPT
Ngày 27 - 3 - 2025
V/v Kiện đòi đất bị lấn chiếm.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Kim Khánh
Các thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Hồng, bà Nguyễn Thị Thu Trang
- Thư ký phiên toà: Bà Trần Thị Hà - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Ngụ
Văn Minh - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 63/2025/TLPT- DS ngày 06/01/2025,
về việc “Kiện đòi đất bị lấn chiếm”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 334/2024/DSST ngày 30 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 84/2025/QĐPT-DS ngày 20
tháng 02 năm 2025, Quyết định Hoãn phiên tòa số: 91/2025/QĐ-PT ngày
12/3/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Lục Văn N, sinh năm 1958; Địa chỉ: Số A N, Tổ dân
phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt
Đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Nhật P, sinh năm 1985; Địa chỉ: Số A N,
Tổ dân phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt
2. Bị đơn: Ông Đặng Văn N1, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị H. sinh
năm 1976; Địa chỉ: Số B N, tổ dân phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Có mặt
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Hoàng Thị C, sinh năm 1959; Địa chỉ: Số A N, Tổ dân phố A,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt
3.2. Bà Lục Thị H1, sinh năm 1981; Địa chỉ: Tổ dân phố A, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt
3.3. Bà Lục Thu H2, sinh năm 1985; Địa chỉ: Số A N, Tổ dân phố A,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
2
4. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị H
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn ông Võ Nhật P trình bày:
- Về nguồn gốc lô đất: Ông Lục Văn N và bà Hoàng Thị C được Nông
trường 30/4 cấp đất vào năm 1987, diện tích tại thời điểm cấp đất: 555,6 m
2
, không
có quyết định cấp đất nhưng có xác nhận của Nông trường 30/4 về việc giao đất.
Tứ cận lô đất tại thời điểm chuyển nhượng:
Phía Đông giáp lô đất của ông Trần Văn D;
Phía Nam giáp lô đất bà Lê Thị Y;
Phía Tây giáp lô đường nội bộ;
Phía Bắc giáp đất của ông Lục Văn N.
Đến ngày 05/11/2009, thì được UBND thành phố B cấp Giấy chứng nhận
quyền AP 913200, tại thửa đất số 226, tờ bản đồ số 40, diện tích 546,2 m
2
(Trong
đó: 300 m
2
đất ở; 246,2 m
2
đất trồng cây lâu năm) đứng tên hộ bà Hoàng Thị C
và ông Lục Văn N.
Phần đất mà bà C, ông N sử dụng có tứ cận như sau:
Phía Đông giáp thửa đất số 332 của ông N1, bà H;
Phía Tây giáp đường, quy hoạch rộng 06m;
Phía Nam giáp thửa đất số 229 của nhà ông L;
Phía Bắc giáp thửa đất số 211 (Thửa này được tách ra thành 03 thửa: Thửa
456 của bà Lục Thị H1 - Con gái ông N, bà C; Thửa 457 - của Võ Nhật P, Lục
Thu H2; Thửa 458 - của Võ Nhật P, Lục Thu H2).
- Quá trình sử dụng đất: Gia đình ông N, bà C đã xây dựng nhà ở trên một
phần đất, diện tích khoảng 100 m
2
và hàng rào bao quanh đất.
Năm 2017, vợ chồng ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị H tiến hành xây
dựng nhà kho trên phần đất của ông N1, bà H. Quá trình xây dựng, ông N1, bà H
đã tự ý dỡ bỏ hàng rào mà không có sự chứng kiến của ông N, bà C. Tại thời điểm
đó, bố của ông N, bà C mất ở Đắk Nông nên cả gia đình ông N, bà C đi Đắk Nông
để tang nên không chứng kiến việc xây dựng nhà kho của ông N1, bà H. Sau đó,
ông N, bà C về thì ông bà Nhương H3 có nói là trả lại đất cho ông N, bà C nhưng
không thực hiện.
Tháng 12 năm 2023, ông N có làm đơn kiến nghị lên UBND phường T.
Đến tháng 01 năm 2024: UBND phường cũng tổ chức hòa giải và ông N1, bà H3
cũng đồng ý dỡ bỏ hàng rào và xây lại trong tháng 3 năm 2024 và gia đình chúng
tôi cũng đồng ý hỗ trợ 3.000.000đ để xây lại trong tháng 3/2024. Nhưng đến nay,
ông bà Nhương H3 vẫn không trả lại đất đã lấn chiếm.
Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại phần đất khoảng 2 m
2
,
có cạnh ngang là 0,2 m; cạnh dài 9,33 m, tuy nhiên, trong quá trình giải quyết căn
3
cứ vào Trích đo hiện trạng thửa đất, ngày 10/7/2014 của Công ty TNHH Đ,
nguyên đơn ông Lục Văn N thay đổi yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Đặng
Văn N1, bà Nguyễn Thị H trả lại diện tích đất đã lấn chiếm là 2,2 m
2
(theo Trích
đo hiện trạng thửa đất, ngày 10/7/2014 của Công ty TNHH Đ). Phần đất bị lấn
chiếm có tứ cận như sau:
Phía Đông giáp phần đất mà bị đơn đang sử dụng, cạnh dài 0,3 m;
Phía Tây giáp phần đất mà nguyên đơn đang sử dụng, cạnh dài 0,3 m;
Phía Nam giáp phần đất mà bị đơn đang sử dụng, cạnh dài 7,36 m;
Phía Bắc giáp phần đất mà nguyên đơn đang sử dụng, cạnh dài 7,36
m;22oieen
--------Bị đơn ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị H trình bày:
Về nguồn gốc đất: Vợ chồng tôi nhận chuyển nhượng của ông Hoàng Xuân
Y1 (Đã chết), bà Nguyễn Thị L1 01 lô đất diện tích 06m x 44m = 264 m
2
. Tứ cận
lô đất tại thời điểm chuyển nhượng:
Phía Đông giáp đất ông Đỗ Văn L2, cạnh dài 06m;
Phía Tây giáp đường nhựa khối 11+12, cạnh dài 06m;
Phía Nam giáp đất của ông Hoàng Xuân Y1, bà Nguyễn Thị L1, cạnh dài
44m;
Phía Bắc giáp đất của bà Lê Thị Y, Nguyễn Thị T, cạnh dài 44m.
Tại thời điểm vợ chồng tôi nhận chuyển nhượng thì đất chưa được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đến ngày 24/8/2022, thì được UBND thành phố B cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DĐ 228947 tại thửa đất số 332, tờ bản đồ số 40, diện tích
256,4 m
2
đứng tên ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị H.
Quá trình sử dụng đất:
Về nhà: Vợ chồng tôi xây dựng năm 2010, không có tranh chấp gì với ai.
Khi xây nhà, thì nhà tôi thụt vào bên phía giáp ranh nhà ông N, nhưng phần đuôi
phía sau nhà, gia đình nhà tôi đã đúc 01 trụ lồi ra 30 cm về phía nhà ông N để xác
định ranh giới đất của hai nhà.
Về nhà xưởng: Được vợ chồng tôi xây dựng tháng 02 năm 2017 (Âm lịch)
căn cứ trên ranh giới từ trụ bê tông được gia đình tôi đúc và chôn vào năm 2010,
kéo thẳng ra hết đất phía sau phần đất của tôi trên cơ sở ranh với chủ đất phía sau
nhà tôi.
Tại thời điểm xây dựng nhà xưởng thì, ông N bà C có ra chứng kiến việc
xây dựng nhà xưởng và không có ý kiến gì và trả lời với tôi em làm đi, hôm nào
chị về chị dọn cây, cây chè tàu chui trong lưới, tôi thấy anh chị đi công việc về có
4
ra dọn cây chè tàu, nằm chui trong lưới B40 nên gỡ lâu anh chị dọn cả tuần lễ
không ý kiến gì.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đề nghị Tòa án giải quyết vụ án
theo quy định pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lục Thị H1 trình bày:
Tôi được cha mẹ là ông Lục Văn N và bà Hoàng Thị C tặng cho thửa đất
số 456, tờ bản đồ số 40 là lô đất liền kề với thửa 444 và 445. Thửa đất của tôi có
chiều dài hai cạnh lần lượt là:
Cạnh tiếp giáp với thửa 457 có chiều dài trên Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là 29,42m, nhưng thực tế đo đạc là 29,05m, bị thiếu 0,37m.
Cạnh tiếp giáp với thửa 445 có chiều dài trên Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là 29,20m, nhưng thực tế đo đạc là 28,66m, bị thiếu 0,54m.
Lô đất trên của cha mẹ chúng tôi là do cha mẹ chúng tôi tạo dựng nên và
tôi không có ý kiến gì.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lục Thu H2 trình bày:
Tôi là con của ông Lục Văn N và bà Hoàng Thị C. Đối với tài sản là đất
đang tranh chấp mà bố mẹ tôi khởi kiện tại Tòa án là tài sản của bố mẹ tôi, tôi
không có công sức đóng góp gì. Đối với yêu cầu khởi kiện của bố tôi thì tôi thống
nhất và không có ý kiến gì.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị C trình bày:
Tôi là vợ của ông Lục Văn N. Vào năm 2017, cha chồng tôi mất nên gia
đình chúng tôi về Đắk Nông thọ táng cha. Lúc này gia đình ông bà Nhương H3
tự ý giở bỏ hàng rào mà không có sự chứng kiến của gia đình chúng tôi. Sau khi
tôi về thì họ đã xây dựng một bức hàng rào rồi.
Tôi đồng ý với chồng tôi là lấy lại đất đã bị lấn chiếm chứ không nhận lại
giá trị đất. Yêu cầu ông N1, bà H3 phải tháo bỏ hàng rào này và phải trả lại đất
cho gia đình chúng tôi. Hàng rào này là hàng rào kho không kiên cố nên việc phá
bỏ hàng rào không ảnh hưởng gì đến kết cấu ngôi nhà đang ở. Tôi xin tòa án chấp
nhận nguyện vọng gia đình chúng tôi.
Người làm chứng ông Y Lợi N2 trình bày:
Vào đầu tháng 02 âm lịch tôi có làm công phụ hồ cho nhà chị H3 và cũng
có anh em có chặt hàng rào chè tàu để đào móng nhà và có mặt hai ông bà ở đó,
tôi thấy mặt ông bà cũng tầm tuổi trung niên. Trong quá trình làm việc chúng tôi
là người làm công cũng có thấy ông Lục Văn N ra chỉ mốc cột hàng rào.
Công trình làm năm 2017, tôi chứng kiến và cũng là người phụ hồ làm việc
ở đó có thấy hai bên chỉ cho ranh giới đất làm tường rào đó. Tôi cam kết nội dung
kê khai là đúng, tôi sẽ chịu hoàn toàn trước pháp luật.
Người làm chứng ông Nguyễn Kim C1 trình bày:
Tôi có chơi thân với bị đơn từ năm 2009 đến nay. Tôi không nhớ cụ thể
ngày, vào đầu năm 2017, bản thân tôi có phụ giúp gia đình chị Nguyễn Thị H và
5
anh Đặng Văn N1 xây dựng hàng rào. Bản thân tôi có phụ giúp xây dựng hàng
rào. Trong quá trình làm tôi có chứng kiến việc chặt cây chè tàu và tháo dỡ hàng
rào cũ cho tới khi đào móng xây dựng hàng rào bản thân tôi thấy gia đình chị H
và ông bà Lục Văn N hướng dẫn chúng tôi dọn dẹp cây, lưới B40 sau đó tôi có
tham gia đào móng. Trong quá trình làm (Xây hàng rào), gia đình ông Lục Văn N
không nói gì. Tôi cam đoan lời khai trên là đúng sự thật và chịu trách nhiệm trước
pháp luật.
Người làm chứng ông Trần Văn T1 trình bày:
Vào chiều 02/6/2017, tôi có chở ông Lục Văn N đi huyện Đ, tỉnh Đắk Nông
vì cha ông Nam mất, đến đó tôi trở về.
Người làm chứng bà Võ Thị T2 trình bày:
Đầu tháng 6, cháu tôi là Võ Nhật P có nhờ tôi coi nhà cho gia đình ông N.
Tôi xác nhận lúc tôi coi nhà thì gia đình ông N không có ai ở nhà vì lý do đi đám
tang ở Đắk Nông. Tôi xin cam kết là thật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 334/2024/DSST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của
TAND thành phố Buôn Ma Thuột đã quyết định:
- Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 144, 147, 165, 166, 266 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
- Căn cứ Điều 97, Điều 164; Điều 166, 175, 189, 192 Bộ luật dân sự năm
2015
- Căn cứ vào các Điều 166, Điều 170; Điều 203 Luật đất đai năm 2013
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Lục Văn N.
Buộc ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị H phải trả cho ông Lục Văn N phần
đất đã lấn chiếm có diện tích 1,178 m
2
, phần đất có tứ cận như sau:
Phía Đông giáp phần đất của ông N1, bà H, cạnh dài 0,16m;
Phía Tây giáp phần đất của ông N, bà C, cạnh dài 0,16 m;
Phía Bắc giáp phần đất của ông N, bà C, cạnh dài 7,36 m;
Phía Nam giáp thửa đất ông N1, bà H, cạnh dài 7,36 m.
Bị đơn ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị H có trách nhiệm tháo dỡ công
trình xây dựng trên phần đất đã lấn chiếm là T3 xây gạch dài 7,36 m; Thưng tôn
diện tích 14,76 m
2
; Ống thoát nươc mưa dài 7,36m để trả lại hiện trạng đất cho
ông N.
- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc:
Yêu cầu ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị H trả lại phần diện tích đất đã
lấn chiếm là 0,14 m x 7,36m.
6
- Về chi phí thẩm định, định giá tài sản và chi phí đo đạc tài sản:
Buộc bị đơn ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị H phải thanh toán cho nguyên
đơn ông Lục Văn N 10.951.000 đồng tiền chi phí tố tụng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, quyền
và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.
Ngày 08/10/2024, bà Nguyễn Thị H kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm số
334/2024/DSST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của TAND thành phố Buôn Ma Thuột,
đề nghị cấp phúc thẩm bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi
kiện. Bị đơn bà H thay đổi rút một phần đơn kháng cáo về nội dung đề nghị Tòa
án cấp phúc thẩm bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chỉ đề nghị HĐXX xem
xét lại phần chi phí tố tụng theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa Đại diện VKSND tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Thẩm phán, các đương sự trong vụ án và Hội đồng xét xử
phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án, lời trình bày của các bên đương sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX
căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 – Chấp nhận một phần
kháng cáo của bà Nguyễn Thị H – Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số
334/2024/DSST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của TAND thành phố Buôn Ma Thuột
về chi phí tố tụng. Căn cứ Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử đối
với nội dung kháng cáo mà bà Nguyễn Thị H đã rút.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thu thập có trong hồ sơ vụ án, kết
quả tranh luận tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát
viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1]. Về tố tụng: Bị đơn bà Nguyễn Thị H kháng cáo trong thời hạn luật
định và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên vụ án được giải quyết theo trình
tự phúc thẩm.
Tại phiên tòa bị đơn bà H đã rút một phần kháng cáo về đề nghị bác toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. HĐXX thấy việc rút một phần kháng cáo
của bị đơn là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật, do đó
cần căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử
phúc thẩm đối với phần người kháng cáo đã rút.
[2]. Về nội dung: Xét nội dung kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị H đề
nghị xem xét lại về chi phí tố tụng thì thấy rằng:
Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên: “Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của nguyên
đơn ông Lục Văn N. Buộc ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị H phải trả cho ông
7
Lục Văn N phần đất đã lấn chiếm có diện tích 1,178 m
2
. Và không chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc: Yêu cầu ông Đặng Văn N1, bà
Nguyễn Thị H trả lại phần diện tích đất đã lấn chiếm là 0,14m x 7,36m”. Tuy
nhiên, về chi phí tố tụng lại buộc bị đơn phải chịu toàn bộ là không đúng với quy
định tại khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 165 của Bộ luật tố
tụng dân sự. Do đó cần chấp nhận kháng cáo của bị đơn về phần này, sửa án sơ
thẩm theo hướng buộc nguyên đơn và bị đơn cùng phải chịu chi phí tố tụng, mỗi
bên chịu ½ thì mới phù hợp với quy định của pháp luật.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do được chấp nhận một phần kháng cáo
nên bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 289; khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân
sự;
Đình chỉ một phần kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị H về yêu cầu bác toàn
bộ đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị H – Sửa một phần Bản
án dân sự sơ thẩm số: 334/2024/DSST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của TAND
thành phố Buôn Ma Thuột về phần chi phí tố tụng.
[2]. Tuyên xử
[2.1]. Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Lục Văn N.
Buộc ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị H phải trả cho ông Lục Văn N phần đất
đã lấn chiếm có diện tích 1,178 m
2
, phần đất có tứ cận như sau:
Phía Đông giáp phần đất của ông N1, bà H, cạnh dài 0,16m;
Phía Tây giáp phần đất của ông N, bà C, cạnh dài 0,16 m;
Phía Bắc giáp phần đất của ông N, bà C, cạnh dài 7,36 m;
Phía Nam giáp thửa đất ông N1, bà H, cạnh dài 7,36 m.
Bị đơn ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị H có trách nhiệm tháo dỡ công
trình xây dựng trên phần đất đã lấn chiếm là: Tường xây gạch dài 7,36m; Thưng
tôn diện tích 14,76 m
2
; Ống thoát nước mưa dài 7,36m để trả lại hiện trạng đất
cho ông N.
[2.2]. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về
việc:
Yêu cầu ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị H trả lại phần diện tích đất đã
lấn chiếm là 0,14 m x 7,36m.
[2.3]. Về chi phí tố tụng:
8
Nguyên đơn ông Lục Văn N và bị đơn ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị
H mỗi bên phải chịu 5.475.500 đồng tiền chi phí tố tụng.
Ông Lục Văn N được nhận lại 5.475.500 đồng khi thu được từ ông Đặng
Văn N1, bà Nguyễn Thị H.
[2.4]. Về án phí:
[2.4.1]. Án phí dân sự sơ thẩm
Buộc bị đơn ông Đặng Văn N1, bà Nguyễn Thị H phải chịu 934.721 đồng
tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn ông Lục Văn N được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[2.4.2]. Án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được nhận lại
số tiền 300.000 đồng đã nộp theo biên lai số 0013894 ngày 21/10/2024 của Chi
cục THADS thành phố B.
[2.5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9
Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Đắk Lắk (02); THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện Tp. Buôn Ma Thuột;
- Chi cục THADS Tp. Buôn Ma Thuột;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ. Đã ký
Hoàng Kim Khánh
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 07/2025/DS-ST ngày 11/03/2025 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm