Bản án số 15/2025/DS-PT ngày 06/04/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 15/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 15/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 15/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 15/2025/DS-PT ngày 06/04/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hải Phòng |
Số hiệu: | 15/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Lê Quang T và Hoàng Văn C tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 15/2025/DS-PT
Ngày 06-4-2025
V/v tranh chấp kiện đòi tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Hữu Trường
Các Thẩm phán: Ông Bùi Duy Thạch
Bà Lê Thị Hải Yến
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thu Trang - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên
toà: Bà Vũ Thị Trang Nhung - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 86/2024/TLPT-DS ngày 29 tháng
11 năm 2024 v việc tranh chấp kiện đòi tài sản.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 23 tháng 10 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 11/2025/QĐ-PT ngày 10
tháng 02 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2025/QĐ-PT ngày 26 tháng
02 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Quang T, sinh năm 1971; nơi cư trú: Tổ 1, khu Nam
Sơn 2, phường Cẩm Sơn, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.
- Bị đơn: Anh Hoàng Văn C, sinh năm 1982; nơi cư trú: Tổ dân phố 12, thị
trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Lê Đức Bẩy – Luật sư
Văn phòng luật sư 19.8 thuộc Đoàn luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong Đơn khởi kiện ngày 18 tháng 7 năm 2023, trong quá trình giải quyết vụ
án, nguyên đơn ông Lê Quang T trình bày:
2
Vào cuối năm 2017 ông T và bà Bùi Thị Thanh Thúy, sinh năm 1971; địa chỉ:
Tổ 23, khu Đông Hải 1, phường Cẩm Sơn, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh sở
hữu chung 01 mảnh đất diện tích 135m
2
tại thửa đất số 9d, tờ bản đồ số 72, tại Tổ
dân phố 18, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng sau đó chuyển
nhượng mảnh đất trên cho Giám đốc Công ty TNHH Tin học truyn thông Cát Bà
do anh Hoàng Văn C là Giám đốc với số tin 9.400.000.000 đồng. Việc chuyển
nhượng hai bên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật, bà Thúy và ông T tạo
điu kiện hoàn thiện các thủ tục chuyển nhượng để ông C dùng chính mảnh đất trên
để thế chấp ngân hàng lấy tin trả cho bà Thúy và ông T.
Anh C đã thanh toán cho bà Bùi Thị Thanh Thúy đủ số tin là 4.700.000.000
đồng (bằng ½ giá trị mảnh đất). Phần tin của ông T là 4.700.000.000 đồng, anh C
mới thanh toán 3.350.000.000 đồng, số tin còn lại là 1.350.000.000 đồng, anh C
xin nợ lại và được ông T đồng ý. Tại nhà ông T, anh C tự tay viết Giấy vay tin thời
hạn vay 02 tháng, từ ngày 11 tháng 01 năm 2017 đến ngày 12 tháng 3 năm 2017, hai
bên thỏa thuận không tính lãi. Tuy nhiên đến thời hạn trả nợ, anh C không thực hiện
nghĩa vụ trả nợ, mặc dù ông T đã nhiu lần đòi.
Ông T yêu cầu Tòa án buộc anh C phải trả cho ông đủ số tin gốc là
1.350.000.000 đồng và tin lãi của số tin trên tạm tính từ ngày 13 tháng 3 năm 2017
đến ngày 30 tháng 5 năm 2024 là 07 năm 78 ngày theo mức lãi suất 10%/năm là
973.000.000 đồng. Tổng số tin ông T yêu cầu anh C phải trả là 2.323.000.000 (Hai
tỷ, ba trăm hai mươi ba triệu) đồng. Trong trường hợp anh C trả tin gốc thì ông T
sẽ không tính tin lãi.
Tại phiên tòa, nguyên đơn rút yêu cầu đối với khoản tin lãi và giữ nguyên
yêu cầu anh C trả số tin gốc 1.350.000.000 đồng. Ông T cũng trình bày thêm, do
tin tưởng, ông mới đồng ý cho anh C nợ số tin trên nhưng sau khi anh C vi phạm
nghĩa vụ trả nợ ông đã nhiu lần thúc giục, đến gặp cả bố mẹ, vợ con anh C để tác
động anh C trả nợ nhưng không những không có kết quả mà thực tế quan hệ của hai
bên ngày càng căng thẳng, anh C không những không có thiện chí trả nợ mà cố tình
chối bỏ trách nhiệm đối với số nợ trên.
* Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà sơ thẩm bị đơn, anh Hoàng
Văn C trình bày:
Năm 2016, anh C với tư cách là Giám đốc Công ty TNHH Tin học truyn
thông Cát Bà (gọi tắt là Công ty) có nhận chuyển nhượng của bà Bùi Thị Thanh
Thúy, sinh năm 1971; địa chỉ: Tổ 23, khu Đông Hải 1, phường Cẩm Sơn, thành phố
Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh và ông Nguyễn Quang T, sinh năm 1971; địa chỉ: Tổ 1,
khu Nam Sơn 2, phường Cẩm Sơn, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh 01 mảnh
đất, diện tích 135m
2
(giấy chứng nhận quyn sử dụng đất mang tên bà Thúy và ông
T) tại Tổ dân phố 18, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, Hải Phòng, giá chuyển nhượng
9,5 tỷ đồng nhưng thực tế trả cho nhau là 9,4 tỷ đồng. Việc chuyển nhượng được lập
thành Hợp đồng giữa Công ty, bà Thúy, ông T; giấy chứng nhận quyn sử dụng đất
đã được sang tên cho Công ty. Trước khi quyết định mua, anh C có thoả thuận bà
Thúy có trách nhiệm làm thủ tục thế chấp mảnh đất trên để vay Ngân hàng, số tin
vay được sẽ chuyển trực tiếp cho bà Thuý. Như vậy, việc chuyển nhượng mảnh đất
3
trên đã hoàn tất. V quan hệ với ông T chỉ đến ngày ký hợp đồng chuyển nhượng thì
anh C mới gặp, còn trước đó chỉ giao dịch với bà Thuý. V Giấy vay tin ngày 11
tháng 01 năm 2017 số tin vay là 1.350.000.000 đồng, anh C cho biết do chị Đào
bảo đến nhà ông T vay tin trả nợ nhưng khi viết giấy xong thì ông T không chuyển
tin cho anh. Việc ký vào Giấy vay tin gần như bị ép buộc. Sự việc có chị Đào là
nhân viên của chị Thuý làm chứng. Thời gian sau này ông T nhiu lần đe dọa anh
và những người thên trong gia đình anh ép anh trả số tin trên. Nay trước yêu cầu
khởi kiện của ông T buộc trả tin gốc 1.350.000.000 đồng và tin lãi, quan điểm của
anh C là anh không không vay tin của ông T nên không có trách nhiệm trả.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 26 tháng 8 năm 2024, người làm chứng chị
Nguyễn Thị Bích Đào trình bày: Vào thời điểm năm 2016, chị Đào là kế toán của
Công ty TNHH Đầu tư Thương mại Hoàng Gia Quảng Ninh, do bà Bùi Thị Thanh
Thuý làm Giám đốc. Tại thời điểm đó, bà Thuý và ông T đồng sở hữu 01 mảnh đất
diện tích 135m
2
tại thửa đất số 9d, tờ bản đồ số 72, tại Tổ dân phố 18, thị trấn Cát
Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Thửa đất trên sau đó được chuyển nhượng
cho Công ty TNHH Tin học truyn thông Cát Bà do anh Hoàng Văn C làm Giám
đốc, do chị Đào làm kế toán của chị Thuý nên được giao giúp làm một số thủ tục
cho việc chuyển nhượng trên.
V giấy vay tin ngày 11 tháng 01 năm 2017 giữa ông T và anh C, chị Đào là
người làm chứng nên nắm rõ, cụ thể: Khi thực hiện việc chuyển nhượng giữa ông T,
ông C và bà Thuý có thoả thuận với nhau do ông C không đủ tin nên các bên làm
Hợp đồng chuyển nhượng, sang tên Giấy chứng nhận quyn sử dụng đất để ông C
thế chấp ngân hàng. Tuy nhiên, khi Ngân hàng giải ngân không đủ số tin để ông C
thanh toán cho bà Thuý, ông T; cụ thể: Giá chuyển nhượng là 9.400.000.000 đồng,
ông C đã thanh toán cho bà Thúy đủ số tin là 4.700.000.000 đồng (bằng ½ giá trị
mảnh đất). Phần của ông T là 4.700.000.000 đồng ông C mới thanh toán
3.350.000.000 đồng. Chị Đào thừa nhận việc mua bán, thanh toán anh C và bà Thúy
giao dịch với nhau, số tin còn thiếu bà Thúy bảo chị dẫn anh C đến nhà ông T xin
nợ lại, sau khi được ông T đồng ý hai bên viết thành Giấy vay tin là 1.350.000.000
đồng, thời hạn từ ngày 11 tháng 01 năm 2017 đến ngày 12 tháng 3 năm 2017, việc
vay mượn không tính lãi. Giấy vay tin, anh C là người trực tiếp viết tại nhà ông T,
anh C và ông T ký nhận, chị Đào là người làm chứng việc nhận nợ trên, nên biết rõ
việc viết Giấy vay tin trên là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc.
Lời khai của bà Bùi Thị Thanh Thúy, sinh năm 1971; địa chỉ: Tổ 23, khu Đông
Hải 1, phường Cẩm Sơn, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Tại biên bản ghi lời
khai ngày 20 tháng 5 năm 2024, bà Thúy trình bày: Bà Thúy và ông T có chung 01
mảnh đất diện tích khoảng 130m
2
tại Tổ dân phố 18 thị trấn Cát Bà. Năm 2017, bà
và ông T chuyển nhượng cho ông Hoàng Văn C với giá 9,4 tỷ đồng và làm thủ tục
sang tên theo đúng quy định. Quá trình thanh toán tin, phần tin 4,7 tỷ đồng, bà đã
nhận đủ. Do anh C còn thiếu tin nên đã xin khất nợ và được ông T cho nợ lại số
tin 1,35 tỷ đồng. Việc vay mượn, nhận nợ là do ông C và ông T tự thỏa thuận với
nhau, bà Thúy không can thiệp và không tham gia.
4
Người bảo vệ quyn và lợi ích hợp pháp của bị đơn, Luật sư Lê Đức Bẩy trình
bày: Giấy vay tin ngày 11 tháng 01 năm 2017 do anh C tự viết, tự ký tuy nhiên mới
chỉ là điu kiện cần mà chưa đủ để thể hiện việc ông T cho anh C vay số tin
1.350.000.000 đồng, không có việc giao tin cho nhau. Để xác định nguồn gốc số
tin cần làm rõ việc chuyển nhượng đất để xác định số tin anh C còn nợ, vì vậy đ
nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Với nội dung nêu trên tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 23
tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc anh Hoàng Văn C phải
trả cho ông Lê Quang T số tin là 1.350.000.000 (Một tỷ, ba trăm năm mươi triệu)
đồng.
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của nguyên đơn v việc buộc bị đơn trả
tin lãi do vi phạm nghĩa vụ trả nợ.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên v án phí, quyn kháng cáo của đương sự và
các vấn đ khác.
Sau khi xét xử sơ thẩm,
bị đơn là ông Hoàng Văn C kháng cáo đối với Bản
án sơ thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 23 tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân dân
huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Các đương sự giữ nguyên ý kiến đã trình bày tại
phiên tòa sơ thẩm.
* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến:
- V thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc
thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự; các đương sự cơ bản thực hiện đầy đủ các quyn và nghĩa vụ của mình.
- V nội dung: Từ những phân tích nêu trên nhận thấy Bản án sơ thẩm số
03/2024/DS-ST ngày 23 tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cát Hải,
thành phố Hải Phòng là có căn cứ. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điu 308 BLTTDS; căn
cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội; Đ nghị HĐXX cấp phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo
của bị đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 23 tháng 10 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. V án phí: Bị đơn
phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, cũng như lời trình bày
của các đương sự và ý kiến của Viện Kiểm sát tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
- V tố tụng:
[1] V quan hệ pháp luật và thẩm quyn giải quyết: Đây là tranh chấp kiện đòi
tài sản, bị đơn là ông Hoàng Văn C có nơi cư trú tại: Tổ dân phố 12, thị trấn Cát Bà,
5
huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Vì vậy, vụ án tranh chấp nêu trên được Tòa
án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng giải quyết là đúng thẩm quyn.
[2] V sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Bị đơn vắng mặt, nhưng đã
có người bảo vệ quyn và lợi ích hợp pháp của bị đơn có mặt tại phiên toà. Căn cứ
khoản 3 Điu 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng
mặt những người này.
- V nội dung:
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Giấy vay tin ngày 11 tháng 01
năm 2017 được ký kết giữa ông Lê Quang T và anh Hoàng Văn C được ký kết với
nhau trên cơ sở tự nguyện và được lập thành văn bản, có người làm chứng. V bản
chất đây là khoản tin nhận nợ mà bị đơn còn thiếu từ Hợp đồng chuyển nhượng
quyn sử dụng đất, bị đơn còn thiếu nguyên đơn số tin 1.350.000.000 đồng, nên
các bên đã thống nhất chuyển sang hình thức vay nợ. Theo đó, các bên đã thỏa thuận
với nhau v số tin vay, thời hạn vay, phương thức trả gốc và lãi, quyn và nghĩa vụ
cả các bên, các điu khoản trong giấy vay tin không trái pháp luật và đạo đức xã
hội, thỏa mãn các điu kiện quy định tại các điu 463, 465, 466 của Bộ luật Dân sự
2015. Số tin thể hiện trong Giấy vay tin là 1.350.000.000 (một tỷ, ba trăm năm
mươi triệu) đồng nhằm xác nhận số tin anh Hoàng Văn C còn thiếu ông Lê Quang
T của giao dịch chuyển nhượng đất trước đó.
[4] Anh Hoàng Văn C viết, ký Giấy vay tin với ông T có đầy đủ năng lực
hành vi dân sự, các bên ký kết giấy vay nợ hoàn toàn tự nguyện, có người làm chứng.
Như vậy, Giấy vay tin ngày 11 tháng 01 năm 2017 giữa ông Lê Quang T và anh
Hoàng Văn C ký kết với nhau nhằm xác nhận số tin còn nợ nhau, việc anh không
nhận được tin trực tiếp từ ông T không làm thay đổi bản chất, bởi lẽ đây là việc anh
C đang nợ ông T số tin 1.350.000.000 đồng còn thiếu từ Hợp đồng chuyển nhượng
quyn sử dụng đất của ông C, bà Thuý. Xét thấy, Giấy vay tin ngày 11 tháng 01
năm 2017 xuất phát từ việc anh C thiếu tin đất của ông T và các bên đã xác lập
thành giao dịch dân sự khác, các bên tham gia xác lập giao dịch đu đầy đủ năng lực
hành vi dân sự, không bị ép buộc, phù hợp với quy định của pháp luật. Như vậy giấy
vay tin ngày 11 tháng 01 năm 2017 các bên ký kết là giao dịch dân sự hợp pháp.
[5] Quá trình thực hiện, anh Hoàng Văn C đã vi phạm nghĩa vụ, vi phạm nghĩa
vụ trả nợ theo Giấy vay tin làm ảnh hưởng đến quyn, lợi ích hợp pháp của bên cho
vay tài sản. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 23 tháng 10 năm 2024, anh Hoàng
Văn C còn nợ ông Lê Quang T tin gốc là 1.350.000.000 đồng. Vì vậy, ông Lê
Quang T khởi kiện buộc anh Hoàng Văn C trả nợ số tin trên là có căn cứ và đúng
quy định theo các Điu 463, 465, 466 của Bộ luật Dân sự nên cần chấp nhận.
[6] Toà án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc
anh Hoàng Văn C phải trả cho ông Lê Quang T số tin là 1.350.000.000 (Một tỷ, ba
trăm năm mươi triệu) đồng là đúng quy định của pháp luật.
[7] V việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện: Tại phiên tòa sơ thẩm
nguyên đơn rút yêu cầu bị đơn trả số tin lãi do vi phạm nghĩa vụ trả nợ, số tin tạm
tính đến ngày 30 tháng 5 năm 2024 là 973.000.000 đồng, xét việc nguyên đơn rút
6
một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện nên được chấp nhận, căn cứ khoản 2 Điu
244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử với yêu cầu trả lãi
của nguyên đơn là đúng quy định của pháp luật.
[8] Từ những phân tích trên, nhận thấy Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2024/DS-
ST ngày 23 tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cát Hải là có căn cứ nên
cần giữ nguyên bản án sơ thẩm, bác kháng cáo của anh Hoàng Văn C.
[9] Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
[10] V án phí: Do yêu kháng cáo của anh Hoàng Văn C không được chấp
nhận, nên anh C phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điu 26, điểm a khoản 1 Điu 35, điểm c khoản 1 Điu
39; khoản 3 Điu 296; khoản 1 Điu 308; Điu 313 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào khoản 3 Điu 26, điểm a khoản 1 Điu 35, điểm a khoản 1 Điu
39, khoản 1 Điu 147, khoản 2 Điu 229, Điu 244; Điu 271; Điu 273 của Bộ luật
Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các điu 116, 117, 280, 463, 465, 466 của Bộ luật Dân sự 2015;
Căn cứ vào khoản 2 Điu 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 v mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
Xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Hoàng Văn C. Giữ nguyên
bản án dân sự sơ thẩm:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc anh Hoàng Văn C phải
trả cho ông Lê Quang T số tin là 1.350.000.000 (Một tỷ, ba trăm năm mươi triệu)
đồng.
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của nguyên đơn v việc buộc bị đơn trả
tin lãi do vi phạm nghĩa vụ trả nợ.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn xin
thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tin, hàng tháng bên phải thi
hành án còn phải chịu khoản tin lãi của khoản tin gốc chưa thanh toán theo mức
lãi suất quy định tại Điu 357, Điu 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian
chưa thi hành án.
3. V án phí: Anh Hoàng Văn C phải chịu 52.500.000 (Năm mươi hai triệu
năm trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Án phí dân sự phúc thẩm: Anh Hoàng Văn C phải chịu 300.000 đồng (ba trăm
nghìn) án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai số 0007229 ngày 30 tháng 10 năm 2024
tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng.
7
Trả lại cho ông Lê Quang T số tin tạm ứng án phí đã nộp là 26.250.000 (Hai
mươi sáu triệu hai trăm năm mươi nghìn) đồng theo biên lai thu tin số 0007209
ngày 30 tháng 5 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cát Hải, thành
phố Hải Phòng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điu 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyn
thoả thuận thi hành án, quyn yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điu 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điu 30 Luật Thi hành
án dân sự./.
Nơi nhận:
- VKSND TP Hải Phòng;
- TAND huyện Cát Hải;
- Chi cục THADS huyện Cát Hải;
- Đương sự (để thi hành);
- Lưu: HCTP, HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
P hạm Hữu Trường

8
Gửi bưu điện Bản án số 33/2024/DS-PT ngày 30/3/2024
(Dũng -Sen)
1. Tòa án nhân dân huyện An Dương; địa chỉ: Số 7 thị trấn An Dương - - Huyện An Dương
- Hải Phòng;
2. Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương; địa chỉ: Số 12 ĐT351, thị trấn An
Dương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng
3. Ông Nguyễn Anh Vũ; địa chỉ: Số 52A Ngô Gia Tự, phường Cát Bi, quận Hải
An, thành phố Hải Phòng;
4. Bà Đào Thị Mỹ An, là Luật sư Công ty Luật 1-5;
Bà Nguyễn Thị Thúy An và bà Bùi Thị Thanh Hương, là Luật sư Công ty Luật
1-5;Địa chỉ:
Tươi Hs
9
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trần Thị Vân Thúy Vũ Quang Trung
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Hữu Trường
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm