Bản án số 62/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 62/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 62/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 62/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 62/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Bình |
Số hiệu: | 62/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hà Văn R - Lê Thị T Tranh chấp đất đồi lại QSD đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
Bản án số: 62/2024/DS-PT
Ngày: 09 - 12 - 2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và đòi lại đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Dương
Các Thẩm phán: Bà Từ Thị Hải Dương
Bà Hoàng Thị Thanh Nhàn
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thị Hương Giang - Thẩm tra viên Toà án
nhân dân tỉnh Quảng Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Lương Việt, Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 12 năm 2024, tại Phòng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Bình, mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
32/2024/TLPT-TCDS, ngày 24 tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đòi lại đất” theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 285/2024/QĐXXST - DS ngày ngày 22 tháng 02 năm 2024 giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hà Văn R và bà Lê Thị T, địa chỉ: Thôn L,
xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, anh Hà
Đức T1, địa chỉ: Thôn L, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; anh T1 chị N có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyên đơn:
+ Bà Bùi Thị X - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà
nước tỉnh Q, địa chỉ: Số 117b L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
+ Ông Lê Anh N1 - Luật sư Công ty L2, địa chỉ: Số D, ngõ E phố H,
phường C, quận H, thành phố Hà nội. Có mặt.
- Bị đơn: Bà Lê Thị T2, địa chỉ: Thôn L, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình,
vắng mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của Bị đơn: Ông Vũ Xuân H, địa chỉ: Số H
T, tổ dân phố A, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lê Văn T3 và bà Trần Thị K, địa chỉ: Thôn L, xã V, huyện Q, tỉnh
Quảng Bình, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T3, bà K: Ông Vũ Xuân H, địa chỉ:
Số H T, tổ dân phố A, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

2. Ông Lê Khánh T4 và bà Ngô Thị Quỳnh A, địa chỉ: Thôn L, xã V, huyện
Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T4, bà A: Ông Nguyễn Tiến T5, địa
chỉ: Số E, đường A, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt (có đơn
xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung Bản án sơ thẩm số 22/2024/DS – ST ngày 12 tháng 6 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh thì nội dung vụ án được tóm tắt như
sau: Ngày 14/01/2002, ông Hà Văn R được UBND huyện Q cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mang tên Hà Văn R tại thôn T, xã H, huyện Q để trồng rừng
thuộc lô đất số 58, tờ bản đồ K2, diện tích 42.000m
2
, mục đích sử dụng: Lâm
nghiệp, thời hạn sử dụng đến năm 2045. Ngày 20/01/2002 ông Hà Văn R viết giấy
chuyển nhượng lại thửa đất nói trên cho bà Lê Thị T2, địa chỉ: Thôn L, xã V,
huyện Q, tỉnh Quảng Bình.
Ngày 12/10/2015, ông Lê Văn T3 và bà Trần Thị K cùng với vợ chồng ông
R bà T viết giấy thỏa thuận với nội dung:
“1. Ông Hà Văn R và bà Lê Thị T đồng ý chuyển cho cháu Lê Thị T2 thửa
đất số S783192 cấp ngày 14/01/2002, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 17
QSDĐ 29400/UB địa điểm tại xã Hải Ninh-Quảng Ninh
2. Ông Lê Văn T3 và bà Trần Thị K đồng ý tặng cho cháu là Hà Đức T1(con
ông Hà Văn R) với diện tích 4 ha (Bốn héc ta) tại tờ bản đồ số 29 thửa đất số 291
thuộc Động Choại (thôn L, xã V)
Thời gian giao đất: - Ông Hà Văn R và bà Lê Thị T có trách nhiệm làm thủ
tục tặng cho cháu Lê Thị T2 (Phần lệ phí ông Hà Văn R chịu trách nhiệm)
- Ông Lê Văn T3 và bà Trần Thị K có trách nhiệm làm
thủ tục tặng cho cháu Hà Đức T1, sau khi ông Hà Văn R và bà Trần Thị T6 làm
thủ tục xong cho cháu Lê Thị T2 (phần lệ phí làm thủ tục tặng cho cháu Hà Đức
T1, ông Hà Văn R chịu trách nhiệm.
- Thời hạn giao đất của ông Lê Văn T3 và bà Trần Thị
K cho cháu Hà Đức T1 là cuối năm 2018”.
Tuy nhiên do ông T3 bà K không thực hiện theo thoả thuận, vì vậy, ông
Hà Văn R và bà Lê Thị T khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu: Hủy Giấy chuyển
nhượng đất ghi ngày 20/01/2002 giữa ông Hà Văn R và bà Lê Thị T2 do Giấy
chuyển nhượng có nhiều lỗi trái pháp luật dân sự và đất đai, giả tạo ghi lùi thời
gian 20/01/2012 về ngày 20/01/2002. Buộc bà Lê Thị T2 trả lại 42.000m
2
đất tại
địa bàn xã H. Hủy Giấy chuyển nhượng đất ghi ngày 20/01/2002. Hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền trên đất số CG
628446, thửa đất số 122, tờ bản đồ số 11, địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện Q, tỉnh
Quảng Bình, do Ủy ban nhân dân huyện Q cấp cho bà Lê Thị T2 ngày 23/6/2017;
Khôi phục giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 783192, thửa đất số 08, tờ
bản đồ số K2, địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, do Ủy ban nhân
dân huyện Q cấp cho ông Hà Văn R ngày 14/01/2002.
Tại Bản án sơ thẩm số 22/2024/DS-ST của Toà án nhân dân huyện Quảng
Ninh đã quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147,

Điều 157, Điều 165, Điều 227, khoản 2 Điều 229 và Điều 271 Bộ luật Tố tụng
dân sự; khoản 1 Điều 106, Điều 127 Luật Đất đai năm 2003; Điều 691 Bộ luật
dân sự năm 1995; Điều 129, điều 131, điều 133, điều 168, điều 502 của Bộ luật
dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hà Văn R và bà Lê Thị T:
- Tuyên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 20 tháng 01
năm 2002 giữa ông Hà Văn R với bà Lê Thị T2 tại thửa đất số 122, tờ bản đồ số
11, địa chỉ: thôn T, xã H, huyện Q với diện tích 42.000m
2
(Bốn mươi hai nghìn
mét vuông) là vô hiệu.
- Mặc dù giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân
sự khác cho người thứ ba ngay tình do đó các giao dịch sau không bị vô hiệu.
2. Xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Buộc bà Lê Thị T2 phải hoàn trả
cho ông Hà Văn R và bà Lê Thị T số tiền 1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng)
Ngoài ra bản án còn tuyên buộc các đương sự phải chịu án phí, chi phí tố
tụng, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo.
Ngày 15/6/2024 bà Lê Thị T2 kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án nói trên,
đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của ông Hà Văn R và bà Lê Thị T;
Ngày 15/6/2024 ông Lê Văn T3 và bà Trần Thị K có đơn kháng cáo đề nghị
xem xét bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hà Văn R và bà Lê Thị T;
Ngày 20/6/2024 ông Hà Văn R và bà Lê Thị T kháng cáo yêu cầu giữ
nguyên quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về việc tuyên Hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất lập ngày 20/01/2002 giữa ông Hà Văn R với bà Lê Thị T2 tại thửa
đất số 122, tờ bản đồ số 11, tại thôn T, xã H, huyện Q, tỉnh Quảng Bình với diện
tích 42.000. m2 là vô hiệu; Huỷ các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
cho bà Lê Thị T2 và các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà T2 đã chuyển
nhượng cho các tổ chức, cá nhân khác; Xử lý hậu quả của Hợp đồng vô hiệu, Buộc
bà Lê Thị T2 phải hoàn trả cho ông Hà Văn R và bà Lê Thị T quyền sử dụng đất
tại thửa số 122, tờ bản đồ số 11, tại thôn T, xã H, huyện Q, tỉnh Quảng Bình với
diện tích là 42.000m2.
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, ngày 12/8/2024 bà Nguyễn Thị N là
người đại diện cho ông Hà Văn R và bà Lê Thị T có đơn yêu cầu Toà án yêu cầu
tổ chức thẩm định giá tiến hành định giá tài sản đang tranh chấp; ngày 14/8/2024
Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã có công văn trả lời cho ông R, bà T và bà
N được biết là việc thu thập, cung cấp chứng cứ thuộc nghĩa vụ của đương sự;
Tại phiên toà phúc thẩm ngày 26/9/2024 các đương sự (đại diện nguyên
đơn, đại diện bị đơn) đều yêu cầu tạm ngừng phiên toà, đồng thời đề nghị Toà án
quyết định chọn Trung tâm thẩm định giá để định giá lại tài sản đang tranh chấp.
Ngoài ra các đương sự không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ gì và giữ nguyên
yêu cầu kháng cáo.
* Đại diện của bị đơn - ông Vũ Xuân H trình bày: Vào ngày 20/01/2002,
bà Lê Thị T2 có nhận chuyển nhượng của gia đình ông Hà Văn R một diện tích
đất rừng trồng sản xuất là 42.000m
2
thuộc thửa đất số 08, tờ bản đồ số K2 xã H,

nguồn gốc diện tích đất này là ông Hà Văn R được UBND huyện Q cấp đất. Quá
trình chuyển nhượng bà T2 đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho gia đình ông R,
ông R đã bàn giao toàn bộ diện tích đất cho bà T2.
Sau khi nhận chuyển nhượng, bà T2 đã quản lý và sử dụng diện tích đất
này để trồng rừng và kể từ đó đến nay sử dụng liên tục, ổn định cho đến khi tranh
chấp với gia đình ông R từ đầu năm 2020. Trong quá trình sử dụng đất, bà T2 đã
làm hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất này,
Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Q đã có văn bản thông báo cho gia
đình ông R, bà T biết việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T2
nhưng hộ ông R, bà T không có ý kiến gì, sau đó bà Lê Thị T2 được UBND huyện
Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, bà T2 đã chuyển nhượng quyền sử sụng đất lại cho vợ chồng
ông Lê Khánh T4 và bà Ngô Thị Quỳnh A theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất số công chứng 293, quyển số 01/2020 TP/CC-SCC/HĐGD ngày
10/3/2020 tại Văn phòng C.
Vì vậy, Hợp đồng có hiệu lực, đề nghị bác đơn khởi kiện của ông Hà Văn
R và bà Lê Thị T, đồng thời đề nghị áp dụng thời hiệu để đình chỉ giải quyết vụ
án.
* Ý kiến của đại diện theo ủy quyền của ông T3, bà K: Vào ngày
20/01/2002, bà Lê Thị T2 (con gái ông T3) có nhận chuyển nhượng của gia đình
ông Hà Văn R một diện tích đất rừng trồng sản xuất là 42.000m
2
thuộc thửa đất
số 08, tờ bản đồ số K2 xã H, nguồn gốc diện tích đất này là ông Hà Văn R được
UBND huyện Q cấp đất. Quá trình chuyển nhượng bà T2 đã thực hiện nghĩa vụ
thanh toán cho gia đình ông R, ông R đã bàn giao toàn bộ diện tích đất cho bà T2.
Gia đình ông R đã hoàn thành việc chuyển nhượng đất cho bà T2 nên việc ông R
khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng đất với bà T2 là không có cơ sở.
Sau khi nhận chuyển nhượng, bà T2 đã quản lý và sử dụng diện tích đất này để
trồng rừng kể từ đó đến nay liên tục, ổn định cho đến khi tranh chấp với gia đình
ông R từ đầu năm 2020, trong quá trình sử dụng đất, bà T2 đã làm hồ sơ xin cấp
đất và đã được UBND huyện Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
23/6/2017. Sau đó, bà T2 đã chuyển nhượng quyền sử sụng thửa đất này cho vợ
chồng ông Lê Khánh T4 và bà Ngô Thị Quỳnh A theo Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất số công chứng 293, quyển số 01/2020 TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 10/3/2020 tại Văn phòng C. Vì vậy, Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất
giữa ông Hà Văn R và bà Lê Thị T2 có hiệu lực, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình bác yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn - ông Hà Văn R và công nhận
Hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà T2 và ông Hà Văn R vào ngày 20/01/2002
là có hiệu lực pháp lý.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm các đương sự và người tiến
hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Áp dụng Điều 104, Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều
17 TTLT số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/3/2014 đề
nghị HĐXX phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn sửa một
phần bản án sơ thẩm đối với việc xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Buộc bà

Lê Thị T2 phải hoàn trả cho ông bà Hà Văn R - Lê Thị T số tiền 3.003.000.000
đồng. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Lê Thị T2 và người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan ông bà Lê Văn T3 - Trần Thị Khương .
- Về án phí: Áp dụng Điều 148, 157, 165 BLTTHS; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
đề nghị tuyên án phí, lệ phí theo đúng quy định pháp luật.
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ngày 12 tháng 6 năm 2024 Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh
Quảng Bình xét xử và ban hành Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2024/DS – ST.
Ngày 15/6/2024, bị đơn bà Lê Thị T2 và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan vợ chồng ông Lê Văn T3 và bà TrầnThị K1 làm đơn kháng cáo; ngày
20/6/2024 nguyên đơn vợ chồng ông Hà Văn R và bà Lê Thị T làm đơn kháng
cáo. Đơn kháng cáo làm trong hạn luật định đúng theo quy định tại Điều 272 và
Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự nên chấp nhận để xét xử phúc thẩm.
[2] Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Ngày 02/12/1998, Ủy
ban nhân dân huyện Q có Quyết định số 443/QĐ/UB về việc giao đất lâm nghiệp
để sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp cho ông Hà Văn R với diện
tích 42.000m
2
tại xã H. Ngày 18/12/2001, Ủy ban nhân dân huyện Q có Quyết
định số 294/2001/QĐ-UB về việc cấp Ciấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm
nghiệp cho hộ gia đình. Theo quyết định trên, có 18 hộ gia đình được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có hộ ông Hà Văn R tại thửa đất số 08, tờ
bản đồ K2, diện tích 42.000m
2
. Ngày 14/01/2002, Ủy ban nhân dân huyện Q cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có số phát hành S 783192 mang tên người sử
dụng đất là ông Hà Văn R. Ngày 20/01/2002 ông Hà Văn R viết Giấy chuyển
nhượng thửa đất trên cho bà Lê Thị T2; ngày 18 tháng 4 năm 2017 Văn phòng
Đăng ký quyền sử dụng đất huyện Q ra Thông báo số 04/TB-VPĐK về việc niêm
yết công khai Thủ tục đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền đối với trường hợp đã chuyển quyền sử dụng
đất nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền theo quy định. Ngày 23 tháng 6
năm 2017, UBND huyện Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG
628446 tại thửa đất số 122, tờ bản đồ số 11 tại thôn T, xã H, huyện Q với diện
tích 42.000m
2
đất rừng sản xuất cho bà Lê Thị Trà .1 Sau khi nhận chuyển nhượng
đất, bà T2 là người quản lý, sử dụng thửa đất trên từ năm 2002 cho đến khi có
tranh chấp về quyền sử dụng đất với gia đình ông Hà Văn R vào đầu năm 2020.
Tại các bản tự khai của mình ông R, bà T đều thừa nhận từ năm 2012 gia đình bị
đơn sử dụng đất cho đến khi xảy ra tranh chấp. Trong quá trình sử dụng đất, năm
2017 bà T2 làm thủ tục xin cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa đất trên, sau khi được cấp đổi thửa đất trên có số thửa 122, tờ bản đồ số 11,

diện tích 42.000m
2
thì gia đình ông R không biết. Đến ngày 10/3/2020 bà T2 đã
chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 122, tờ bản đồ số 11 xã H với diện tích
42.000m
2
cho vợ, chồng ông Lê Khánh T4 - bà Ngô Thị Quỳnh A theo Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 293, quyển số 01/2020 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 10/3/2020 tại Văn phòng C. Sau đó vợ chồng ông Lê Khánh
T4 bà Ngô Thị Quỳnh A chuyển nhượng lại cho ông Nông Văn T7 và bà Hoàng
Thị H1 vào ngày 13/5/2020 tại Văn phòng C1. Tiếp đó ông Nông Văn T7 và bà
Hoàng Thị H1 chuyển nhượng lại cho Phạm Ngọc L và Nguyễn Thị L1 vào ngày
01/8/2020 tại Văn phòng C2 tỉnh Quảng Bình. Ông Phạm Ngọc L và bà Nguyễn
Thị L1 tiếp tục chuyển nhượng cho ông Hoàng Văn Đ và bà Nguyễn Thị T8 vào
ngày 13/8/2022 tại Văn phòng C3.
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chuyển nhượng
đất giữa ông Hà Văn R với bà Lê Thị T2, Hội đồng xét xử thấy: Tại thời điểm này
Bộ luật dân sự năm 1995 đang có hiệu lực thi hành. Giấy chuyển nhượng đất giữa
ông R và bà T2 lập ngày 20/01/2002 cho thấy về hình thức, nội dung chưa đúng
với quy định của pháp luật, cụ thể: Chưa có chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp
có thẩm quyền, giấy chuyển quyền sử dụng đất nhưng không ghi giá trị cụ thể,
mặt khác Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên ông Hà Văn R nhưng
vào thời điểm đó đất được cấp cho hộ gia đình để trồng cây lâm nghiệp, như vậy
trong giấy chuyển nhượng chỉ một mình ông R quyết định chuyển nhượng cho bà
T2 mà không có ý kiến của các thành viên khác trong hộ gia đình là không đúng,
xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp của các thành viên trong hộ gia đình, hơn nữa
năm 2002 ông R viết giấy chuyển nhượng đất cho bà T2, nhưng đến năm 2015 vợ
chồng ông R bà T và vợ chồng ông T3 bà K1 (Bố mẹ của bà T2) lại lập giấy thoả
thuận trao đổi thửa đất mà ông R đã chuyển chượng cho bà T2 trước đây, chứng
tỏ năm 2002 ông R đã chuyển nhượng cho bà T2, nhưng không thực hiện được
nên năm 2015 mới có giấy thoả thuận này, nếu việc chuyển nhượng giữa ông R
bà T2 đã hoàn thành thì không thể làm giấy thoả thuận đất giữa hai gia đình vào
năm 2015. Do đó giao dịch này là vô hiệu.
[4] Đối với yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu khôi phục
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 783192, thửa đất số 08, tờ bản đồ số K2,
địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, do Ủy ban nhân dân huyện Q
cấp cho ông Hà Văn R ngày 14/01/2002:
Mặc dù giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự
khác cho người thứ ba ngay tình do đó các giao dịch sau không bị vô hiệu và
không thể hoàn trả được bằng hiện vật nên tính trị giá thành tiền để hoàn trả. Căn
cứ lời khai của các đương sự, các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn giao nộp, Biên
bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 04/10/2022, Biên bản định giá tài sản ngày
04/10/2022, kết quả của Chứng thư thẩm định giá của trung tâm Đ1 thuộc Công
ty cổ phần T10 ngày 24/10/2024 thì tài sản đang tranh chấp có trị giá là
6.006.000.000 đồng, tuy nhiên cần xác định lỗi của các bên tham gia giao dịch
thì:

Đối với ông Hà Văn R là người viết giấy chuyển nhượng cho bà Lê Thị T2
thửa đất nói trên, nhưng không được sự thống nhất và nhất trí của các thành viên
trong hộ gia đình nên ông R phải chịu phần lỗi trong giao dịch này;
Đối với bà Lê Thị T2 là người được ông R viết giấy chuyển nhượng từ năm
2002, nhưng không liên hệ với cơ quan chức năng có thẩm quyền để làm các thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến năm 2017 mới yêu cầu UBND
huyện Q làm các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó
chuyển nhượng cho người khác, vì vậy bà T2 cũng phải chịu trách nhiệm đối với
phần lỗi của mình;
Việc UBND huyện Q căn cứ vào hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông R
bà T2 năm 2002 để làm các thủ tục niêm yết và cấp giấy chứng nhận cho bà Lê
Thị T2 là không đúng với quy định của pháp luật, bởi vì thửa đất này đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Hà Văn R, mặt khác nội dung hợp
đồng chuyển nhượng không đúng theo quy định của pháp luật, việc UBND huyện
Q cấp giấy CNQSDĐ cho bà Lê Thi T9, sau đó bà T9 đã chuyển nhượng sang cho
người khác ngay tình, nên Hội đồng xét xử không xem xét, Tuy nhiên cũng phân
tích, đánh giá để rút kinh nghiệm.
Do đó cần buộc bị đơn hoàn trả giá trị bằng tiền theo kết quả thẩm định
định giá là có căn cứ, nhưng do phía nguyên đơn cũng có lỗi. Sau khi thảo luận
nghị án Hội đồng xét xử xét thấy lỗi của ông R gây ra được xác định là 50%. Vì
vậy, cần buộc bị đơn phải hoàn trả phần tiền còn lại là ½ giá trị thữa đất đã được
thẩm định giá là 3.003.000.000 đồng.
[5] Đối với yêu cầu của đại diện cho bị đơn về việc áp dụng thời hiệu vì
cho rằng hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 20/01/2002 giữa ông R và bà T9 là
có vi phạm về hình thức, nên đề nghị áp dụng thời hiệu để đình chỉ giải quyết vụ
án, Hội đồng xét xử thấy rằng: Giấy chuyển nhượng đất giữa ông R và bà T9 được
lập ngày 20/01/2002 vi phạm cả về hình thức và nội dung, nên giao dịch này vô
hiệu toàn bộ (Như phân tích ở mục [3]).
[Đối với Biên bản họp gia đình về việc tặng cho đất Lâm nghiệp giữa ông
Lê Văn T3, bà Trần Thị K với ông Hà Văn R, bà Lê Thị T: Hội đồng xét xử xét
thấy, đây là Giao dịch dân sự có điều kiện, nếu các bên không thoả thuận được thì
khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác.
[6] Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc căn cứ chứng thư thẩm định
giá mà đương sự đã nộp cho Toà án để giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu:
Hội đồng xét xử thấy rằng, sau khi các đương sự có kháng cáo, người được nguyên
đơn uỷ quyền có yêu cầu Toà án yêu cầu tổ chức thẩm định giá tiến hành định giá
tài sản đang tranh chấp ngày 12/8/2024; ngày 14/8/2024 Toà án nhân dân tỉnh
Quảng Bình đã có công văn trả lời cho ông R, bà T và bà N được biết là việc thu
thập, cung cấp chứng cứ thuộc nghĩa vụ của đương sự;
Xét thấy, việc thẩm định giá phía nguyên đơn tự hợp đồng với trung tâm
định giá để thẩm định giá, bị đơn không đồng ý, ngoài ra tại phiên toà phúc thẩm
ngày 26/9/2024 các bên đương sự đã yêu cầu Toà án quyết định chọn Trung tâm
thẩm định giá để định giá nên Hội đồng xét xử không chấp nhận đối với thẩm định
giá mà nguyên đơn cung cấp.

Từ những nhận định, đánh giá trên, xét thấy yêu cầu kháng cáo của nguyên
đơn, bị đơn là không có cơ sở, không được chấp nhận. Tuy nhiên, cần sữa số tiền
hoàn trả đối với giao dịch dân sự vô hiệu của Bản án sơ thẩm số 22/2024/DS-ST
ngày 12 tháng 6 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Quảng Ninh.
[7] Đối với chi phí tố tụng (Thẩm định giá tại cấp phúc thẩm) hết
30.000.000 đồng, do cả hai bên đương sự đều có yêu cầu nên mỗi bên phải chịu
15.000.000 đồng.
[8]. Về án phí phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 272, Điều 273; khoản 1 Điều 308; khoản 3 Điều 26, khoản 1
Điều 148, Điều 157, Điều 165, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều
106, Điều 127 Luật Đất đai năm 2003; Điều 691,707,708 Bộ luật dân sự năm
1995; Điều 123, Điều 131, Điều 133, Điều 502 của Bộ luật dân sự năm 2015;
Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí, lệ phí Tòa án, xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hà Văn R và bà Lê Thị T:
- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 20 tháng
01 năm 2002 giữa ông Hà Văn R với bà Lê Thị T2 tại thửa đất số 122, tờ bản đồ
số 11, địa chỉ: thôn T, xã H, huyện Q với diện tích 42.000m
2
(Bốn mươi hai nghìn
mét vuông) là vô hiệu.
- Giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác
cho người thứ ba ngay tình do đó các giao dịch sau không bị vô hiệu.
2. Xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Buộc bà Lê Thị T2 phải hoàn trả
cho ông Hà Văn R và bà Lê Thị T số tiền 3.003.000.000 đồng.
3. Chi phí tố tụng: Bà Lê Thị T2 phải hoàn trả cho ông Hà Văn R và bà Lê
Thị T số tiền 6.300.000 đ (Sáu triệu ba trăm nghìn đồng) chi phí định giá, thẩm
định tại chỗ và chi phí giám định chữ ký và chữ viết số tiền 4.170.000 đồng (Bốn
triệu một trăm bảy mươi nghìn đồng), tổng cộng là 10.470.000 đồng (Mười triệu
bốn trăm bảy mươi nghìn đồng).
Ông Hà Văn R và bà Lê Thị T phải chịu 15.000.000 đồng chi phí thẩm định
giá (ông bà đã nộp đủ); bà Lê Thị T2 phải chịu 15.000.000 đồng chi phí thẩm định
giá (Bà T2 đã nộp đủ).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả cho
bên được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi
suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian
chưa thi hành án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
4. Về án phí:
- Bà Lê Thị T2 phải chịu 92.060.000 đồng (Chín mươi hai triệu không trăm
sáu mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch để sung vào Ngân sách
Nhà nước, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí kháng cáo 300.000 đồng đã nộp
tại biên lai số 3879 ngày 24/6/2024 của Chi cục thi hành án huyện Quảng Ninh,
tỉnh Quảng Bình.
- Ông Hà Văn R và bà Lê Thị T, ông Lê Văn T3 bà Trần Thị K không phải
chịu án phí phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. (09/12/2024).
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- TAND huyện Quảng Ninh;
- CCTHADS h.Quảng Ninh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã Ký)
Nguyễn Văn Dương
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 32/2025/DS-ST ngày 07/03/2025 của TAND TP. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp đất đai
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm