Bản án số 189/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 189/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 189/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 189/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 189/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 189/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngày 12 tháng 11 năm 2024, nguyên đơn ông Lê Thành N có đơn kháng cáo và ngày 17/3/2025 ông N có đơn kháng cáo bổ sung, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số:189/2025/DS-PT
Ngày: 18 - 3 - 2025
V/v tranh chấp“Thực hiện nghĩa
vụ tài sản do người chết để lại”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trương Thị Tuyết Linh
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Đạt
Bà Nguyễn Ái Đoan
- Thư ký phiên tòa: Bà Lưu Thị Loan- Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang
tham gia phiên tòa:
Bà Hà Ngọc Thư Trúc - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 71/2024/TLPT-DS ngày 14 tháng 02
năm 2025 về việc tranh chấp “Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 332/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 766/2025/QĐ-PT ngày
25 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: ông Lê Thành N, sinh năm 1941 (Có mặt);
Địa chỉ: G ấp T, xã T, thành phố M Tiền Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: anh Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1996 (Có
mặt);
Địa chỉ: A, N, phường C, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
- Bị đơn:
1. Bà Lê Thị Kim H, sinh năm 1953 (Vắng mặt);
Địa chỉ: ấp T, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
2. Ông Lê Văn D1, sinh năm 1961 (Vắng mặt);
Địa chỉ: ấp T, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
2
Người đại diện theo ủy quyền của bà H, ông D1: chị Nguyễn Thị Huỳnh
N1, sinh năm 1988 (Có mặt);
Địa chỉ: ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Lê Thành N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm, nguyên đơn ông Lê Thành N trình bày: Phần đất tranh
chấp diện tích 1.747,8 m
2
thuộc thửa số 30, tờ bản đồ số 29 tại ấp T, xã T, thành
phố M có nguồn gốc của bà Lê Thị Kiều . Năm 1997 bà K có bán phần diện tích
đất này cho ông với giá là 27.000.000đồng. Ông đã trả tiền nhiều lần cho bà K
đã trả xong số tiền 27.000.000đồng và ông đã quản lý, sử dụng phần đất này từ
năm 1997 đến nay. Ông có nhiều lần làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nhưng không được do Ủy ban nhân dân xã T xác định phần đất này là
đất công, không phải của bà K. Ông đã nhiều lần khiếu nại, khởi kiện nhưng các
cấp Tòa án xét xử không chấp nhận đơn của ông.
Nay ông yêu cầu bà Lê Thị Kim H và ông Lê Văn D1 là người hưởng
thừa kế của bà K có nghĩa vụ hoàn trả lại tiền cho ông đối với phần đất diện tích
1.747,8 m
2
với giá trị là 3.296.400.000đồng.
Bị đơn bà Lê Thị Kim H và người đại diện theo ủy quyền của bà H là chị
Nguyễn Thị Huỳnh N1 trình bày:
Bà Lê Thị K có 03 phần đất tổng diện tích là 10.885 m
2
tọa lạc tại xã T,
thành phố M. Năm 1978 bà K có đưa đất ruộng diện tích 9.200m
2
vào hợp tác
xã, năm 1996 rã hợp tác xác đã cấp lại cho bà K 9.681m
2
, sau đó bà K có bán
phần diện tích đất mà hợp tác xã đã cấp cho nhiều người. Tất cả những người
mà bà K đã bán đất đều đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong
phần diện tích 9.681m
2
. Hiện nay diện tích trên còn lại 2.481m
2
trong đó cho bà
diện tích 1.003m
2
. Bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông N. Việc mua
bán đất là giữa bà K với ông N đối với phần đất tại thửa số 30, bà không có liên
quan. Do đó, việc giải quyết trả lại tiền cho ông N thì lấy từ thửa số 30 để giao,
bà không có ý kiến gì.
Khi bà K chết có để lại phần đất tại thửa số 122 tờ bản đồ số 28 diện tích
500,1m
2
tại ấp T, xã T, phần đất này đã chia cho ông Lê Văn D1 đứng tên.
Ngoài ra còn có phần đất tại thửa số 686 diện tích 134,2 m
2
, thửa số 687
diện tích 297,6 m
2
thuộc bản đồ số 29 tại ấp T, xã T, phần đất này đã chia cho bà
đứng tên. Hiện bà đã chuyển nhượng một phần cho bà Trần Thị Bích T và chị
Phan Ngọc Y. Phần đất này bà K đã cho bà canh tác từ năm 1992 nhưng chưa
3
sang tên qua cho bà. Đến khi bà K chết thì các anh em thống nhất chia cho bà
đứng tên.
Bị đơn ông Lê Văn D1 và người đại diện theo ủy quyền của ông D1 là chị
Nguyễn Thị Huỳnh N1 trình bày: Phần đất diện tích 1.747,8 m
2
nguồn gốc là của
bà Lê Thị K, sau khi rã hợp tác xã thì phần đất này tổ trưởng hợp tác xã lấy để
canh tác, gia đình bà K có làm đơn xin lại nhưng không được giải quyết và từ đó
đến nay Ủy ban nhân dân xã T quản lý đối với phần diện tích đất này. Ông N
được bà K cho về cất chòi ở trên phần đất này để chăm sóc bà K khi bà K tuổi
già. Đến khi bà K chết thì ông N chiếm phần đất. Sau đó ông N có lừa đảo bà H
nói là có người quen biết có thể lấy lại phần đất công này cho gia đình nên mới
giúp ông N ký các giấy tờ. Còn việc ông N khai bà K có bán đất cho ông N là
không có căn cứ vì bà K đã già và đất này là đất công thì không thể mua bán
được, mọi việc là do ông N lừa đảo.
Nay đối với yêu cầu khởi kiện của ông N thì ông không đồng ý.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 285/2024/DS-ST ngày 12 tháng 11 năm
2024 của Toà án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang đã căn cứ khoản
1 Điều 637, khoản 1 Điều 281 của Bộ luật Dân sự năm 2005; điểm c khoản 1
Điều 217, khoản 2 Điều 244, Điều 157, Điều 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự
2015.
Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thành N đối với bà Lê
Thị Kim H và ông Lê Văn D1 về việc yêu cầu bà Lê Thị Kim H và ông Lê Văn
D1 trả cho ông Lê Thành N số tiền 3.296.400.000 đồng (ba tỷ hai trăm chín
mươi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng).
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông Lê Thành N về việc yêu cầu
ông Lê Văn Ố thực hiện nghĩa vụ của cụ Lê Thị Kiều C để lại.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 12 tháng 11 năm 2024, nguyên đơn ông Lê Thành N có đơn kháng
cáo và ngày 17/3/2025 ông N có đơn kháng cáo bổ sung, yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết: Sửa toàn bộ bản án sơ thẩm.
oTại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang tại phiên tòa phát biểu ý
kiến về việc tuân theo pháp luật từ khi thụ lý phúc thẩm cho đến khi xét xử
4
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã tuân
thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Đề nghị
Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông N, giữ nguyên án
sơ thẩm.
Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được
thẩm tra tại phiên tòa, nội dung yêu cầu kháng cáo của ông Lê Thành N, lời trình
bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến phát
biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật trong vụ
án là tranh chấp “Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” là có căn cứ
và phù hợp.
Ngày 23/02/2024, ông Lê Thành N có đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện là
ông rút lại phần khởi kiện đối với ông Lê Văn Ố chỉ kiện bà Lê Thị Kim H và
ông Lê Văn D1, vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào khoản 2 điều 244 Bộ luật
tố tụng dân sự để đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này của ông N là có căn cứ.
[2] Về nội dung vụ án: Theo lời trình bày của ông Lê Thành N, vào năm
1997 cụ Lê Thị K có bán cho ông phần đất có diện tích 1.747,8m
2
thuộc thửa số
30, tờ bản đồ số 29 tại ấp T, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang với giá là
27.500.000đồng, có viết giấy tay mua bán đất nhưng trong giấy bán đất ghi giá
là 27.000.000đồng, ông đã quản lý sử dụng diện tích đất trên từ năm 1997 cho
đến nay, đã nhiều lần ông xin được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhưng không được do Ủy ban nhân dân xã T xác định đây là đất công. Ông yêu
cầu bà Lê Thị Kim H và ông Lê Văn D1 là những người hưởng thừa kế của cụ
Lê Thị K có nghĩa vụ trả cho ông số tiền 3.296.400.000đồng, giá trị của phần
diện tích 1.747,8m
2
đất mà cụ K đã bán cho ông vào năm 1997.
Tòa án cấp sơ thẩm xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N,
ông N không đồng ý nên có yêu cầu kháng cáo.
[3] Xét nội dung kháng cáo và yêu cầu kháng cáo của ông Lê Thành N,
Hội đồng xét xử nhận thấy:
Tại “Giấy mua bán đất” ngày 10/01/1997 có nội dung: “Tôi tên Lê Thị K
sinh năm 1915, cư ngụ ấp T xã T, thành phố M tỉnh Tiền Giang. Nay tôi có bán
miếng đất khoảng 1200m
2
nhưng chưa có đo lời ăn, lỗ chịu cho ông Lê Thành
N2 sinh năm 1951 với số tiền là 27.000.000đồng có sự đồng ý của con tôi và rể
tôi. Nay tôi viết giấy này làm bằng chứng cho ông N2 nếu có ai tranh cãi tôi
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước ông N2 và nhà nước”, người mua ký tên và
5
viết họ tên Lê Thành N2, người bán ghi tên Lê Thị K và chỉ ghi dấu (+). Giấy
mua bán đất có ký và ghi họ tên người làm chứng là Nguyễn Văn T1, con chứng
kiến ký và ghi họ tên Lê Thị Kim H và con rễ ký ghi họ tên Phan Ngọc C1 ký
tên xác nhận của ông Nguyễn Văn G và ông Phan Văn D2.
[3.1] Xét về nội dung của “Giấy mua bán đất” nhận thấy: nội dung giấy
mua bán đất không thể hiện thửa đất cụ K bán cho ông N là thửa đất nào, tọa lạc
tại đâu, số tiền bán đất là 27.000.000đồng nhưng không thể hiện cụ K đã được
ông N (ông N2) trả chưa đối với số tiền này, ông N cho rằng ông là người mua
đất của cụ K nhưng trong giấy mua bán đất thì lại ghi ông Lê Thành N2 sinh
năm 1951. Tại mục người bán thì không có chữ ký cũng như dấu vân tay điểm
chỉ của cụ K chỉ ghi dấu (+). Tuy giấy mua bán đất bà Lê Thị Kim H có ký tên
chứng kiến nhưng không thể hiện bà H chứng kiến nội dung giao dịch gì. Đối
với nội dung xác nhận của ông Nguyễn Văn G nguyên là Trưởng ấp T trước
năm 2009 “Qua đơn xin xác nhận mua bán đất của bà Lê Thị K sinh năm 1915
hiện cư ngụ ấp T xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang cho ông Lê Thành N2 sinh
năm 1951 trước đây ở xã T huyện C tỉnh Tiền Giang là thật”, tính về thời gian
thì ông G ký xác nhận sau ngày có việc mua bán đất giữa cụ K và ông N là trên
14 năm lúc này cụ K đã chết (cụ K chết năm 2007) và người mua đất của cụ K là
Ông Lê Thành N2 sinh năm 1951 trước đây ở xã T huyện C tỉnh Tiền Giang
trong khi đó ông N sinh năm 1941 và ông cho rằng từ khi mua đất của cụ K năm
1997 ông đã quản lý và sinh sống ổn định tại thửa đất này. Mặc dù trong giấy
mua bán đất không ghi địa chỉ thửa đất nhưng ngày 06/3/2014 (17 năm sau) ông
Phan Văn D2 có xác nhận “Thửa đất nêu trong đơn tọa lạc tại Tổ N ấp T, xã T".
[3.2] Ông N khai nhận “Giấy mua bán đất” lập ngày 10/01/1997 được viết
tại thời điểm năm 1997 là bản chính ông đã nộp cho Tòa án. Hội đồng xét xử
nhận thấy, tại (BL 271) bản chính “Giấy mua bán đất” mẫu giấy là giấy tập học
sinh bên dưới có ghi dòng chữ “It is an ill bird that fouls its own nest: Tốt khoe,
xấu che VIBOOK”. Theo Công văn số 02/CV-TATG-2024 của Công ty cổ phần
G1 xác nhận: Mẫu nhãn hiệu VIBOK được Cục sở hữu Công nghệ - Bộ K1 cấp
cho Hợp tác xã V (nay là Công ty Cổ phần G1) theo giấy chứng nhận nhãn hiệu
hàng hóa số 26582 kèm theo Quyết định số 0587/QĐNH ngày 16/3/1998. Giấy
tập học sinh bên dưới có ghi dòng chữ như dưới đây được sản xuất vào tháng 7
năm 2004: It is an ill bird that fouls its own nest: Tốt khoe, xấu che VIBOOK.
Như vậy việc ông N cho rằng giấy mua bán đất được viết tại thời điểm năm
1997 là không có căn cứ và không phù hợp.
[4] Từ những phân tích và chứng cứ nêu trên nhận thấy việc ông N cho
rằng giấy mua bán đất lập ngày 10/01/1997 là cụ K bán cho ông thửa đất số 30,
6
tờ bản đồ 29, diện tích 1.747,8m
2
tại ấp T, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang là
không có thật. Tại phiên tòa sơ thẩm ông N cho rằng cụ K cầm cố cho ông
nhưng sau đó không tiền chuộc nên cụ K bán luôn nhưng ông không có chứng
cứ gì chứng minh cho lời trình bày của mình. Hơn nữa thửa đất số 30, tờ bản đồ
số 29 tại ấp T, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang là đất công do Ủy ban nhân
dân xã T quản lý, ông N có hành vi lấn chiếm đất công, ngày 20/3/2015 Chủ tịch
Ủy ban nhân dân thành phố M ban hành Quyết định số 2719/QĐ-KPHQ áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả đối với ông Lê Thành N đối với thửa đất số 30,
ông N không đồng ý và đã khởi kiện hành chính và đã được Tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Tiền Giang xét xử bằng bản án có hiệu lực pháp luật số 09/HC-PT ngày
15/12/2015.
[5] Xét thấy yêu cầu khởi kiện của ông N là không có cơ sở, Tòa án cấp
sơ thẩm xử không chấp nhận là có căn cứ, ông N kháng cáo nhưng không bổ
sung được chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình,
Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông N, giữ nguyên án
sơ thẩm.
[6] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm dịnh và định giá tài sản với
số tiền là 18.700.000đồng, do yêu cầu khởi kiện của ông N không được chấp
nhận, vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông N chịu toàn bộ số tiền trên là có căn
cứ và phù hợp.
[7] Xét đề nghị của của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định
của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.
[8] Về án phí: Ông N là người cao tuổi nên được miễn án phí theo quy
định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 1 điều 308, khoản 2 điều 244, điều 156 và điều 165 Bộ luật
tố tụng dân sự.
Căn cứ điều 281, điều 637 Bộ luật dân sự năm 2005. Điều 615 Bộ luật dân
sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Lê Thành N. Giữ nguyên
bản án dân sự sơ thẩm số 285/2024/DS-ST ngày 12/11/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
7
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông Lê Thành N về việc yêu cầu
ông Lê Văn Ố thực hiện nghĩa vụ của cụ Lê Thị Kiều C để lại.
3. Không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Thành N yêu cầu bà Lê Thị Kim
H và ông Lê Văn D1 có nghĩa vụ trả cho ông số tiền là 3.296.400.000đồng (ba
tỷ hai trăm chín mươi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng).
4. Về án phí: Ông Lê Thành N được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm và án
phí dân sự phúc thẩm.
5. Về chi phí tố tụng: Ông Lê Thành N phải chịu số tiền là
18.700.000đồng chi phí tố tụng, ông N đã nộp xong.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND thành phố Mỹ Tho;
- Chi cục THADS thành phố Mỹ Tho;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trương Thị Tuyết Linh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 32/2025/DS-ST ngày 07/03/2025 của TAND TP. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp đất đai
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm