Bản án số 127/2025/DS-PT ngày 19/03/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 127/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 127/2025/DS-PT ngày 19/03/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Tháp
Số hiệu: 127/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Hứa Hòa T - Trang Văn L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐỒNG THÁP Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 127/2025/DS-PT
Ngày: 19/3/2025
V/v tranh chấp về quyền sử dụng đất
và yêu cầu huỷ một phần giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
Thành phần Hội đồng xét xử phc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Hồng Nước
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Phú Th
Bà Phạm Thị Liên Hiệp
Thư phiên tòa: Huỳnh Thị Ngọc Trang Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Tháp.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Được - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, tiến
hành xét xử phúc thẩm ván dân sự thụ lý số 585/2024/TLPT-DS ngày 26 tháng
11 năm 2024 về việc “Tranh chấp về quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy một phần
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 97/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2024,
của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 52/2025/QĐXXPT-DS
ngày 24/01/2025 quyết định hoãn phiên tòa số 104/2025/QĐPT-DS ngày
21/02/2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hứa Hòa T, sinh năm 1963; Địa chỉ: Số C, T B, ấp A,
xã M, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T: Luật sư Huỳnh Văn B,
Văn phòng Luật Huỳnh Văn B, thuộc Đoàn Luật tỉnh A; Địa chỉ: Số 3i9,
khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.
- Bị đơn: Ông Trang Văn L, sinh năm 1963; Địa chỉ: Số D, p A, xã M,
huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông L: Luật Văn P, Công
2
ty L4, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H; Địa chỉ: Số I, L, Phường E, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh
Đồng Tháp; Đa chỉ: Quốc lộ H, khóm B, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Trương Thị D Quyền Chủ tịch.
Ông T, luật sư B, ông L, luật sư P có mặt tại phiên tòa; Bà Trương Thị D
có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG V ÁN:
- Trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên toà, nguyên đơn Hứa Hòa T
trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 36, tờ bản đồ số 02 do ông Trang Văn L đứng tên
QSDĐ, được Uỷ ban nhân dân (UBND) huyện L cấp ngày 05/8/2013 từ 02 thửa
đất số 318a, tờ bản đồ số 01a, diện tích 544m
2
thửa đất số 318b, tờ bản đồ số
01a, diện ch 1.518m
2
do ông L đứng tên QSDĐ, được UBND huyện L cấp cùng
ngày 29/12/2010.
Thửa đất số 36 có một cạnh giáp kênh T, một cạnh giáp đất bà Trương Th
Bích N, mt cạnh giáp đất Hứa Thị L1, một cạnh giáp đất ông Trần Văn T1,
một cạnh giáp đường đan, một cạnh giáp đất bà Nguyễn Thị Ngọc D1. Tuy nhiên,
một phần của thửa đất số 36 khi ông L đi đăng ký kê khai cấp giấy thì cấp chồng
lấn lên phần đất trước đây cha ông Thượng ông Hứa Hòa L2 quản lý, sử
dụng. Trên phần diện tích đất tranh chấp hiện nay vẫn còn 03 bụi tre do ông L2
trồng trước năm 1975 và ông L2 đào con đường mương bề ngang khoảng 03m
làm ranh với bên phần đất của Bạch B1 (mông L) trước đây đứng tên.
Đồng thời, việc cấp đổi giấy chứng nhận cho ông L từ 02 thửa đất số 318a
318b, thì không có stên xác định ranh giới, mốc giới với bên phần đất của bà
L1 (thửa đất số 29, tờ bản đồ số 02). Hơn nữa, 02 thửa đất s318a 318b nếu
cộng diện tích của 02 thửa đất này lại tkhông thể lên tới diện tích 4.643,3m
2
được.
Con lộ đan trước khi giải phóng năm 1975 con lộ đất bề ngang
khoảng 02m, nhưng đến khoảng năm 2019 thì UBND xã M cải tạo, mở rộng, trải
đan bngang khoảng 03m. Đồng thời, trong quá trình hòa giải M thì
ông T thống nhất giao phần diện tích con mương bề ngang khoảng 03m cho
ông L và ông L xác nhận trả lại cho ông T phần diện tích còn lại bên phía mé
mương hướng giáp lộ đan.
3
Nay ông T yêu cầu Tòa án hủy một phần giấy chứng nhận QSDĐ đối với
thửa đất số 36, tbản đồ số 02, diện tích theo giấy chứng nhận là 4.643,3m
2
(diện
tích theo đo đạc thực tế là 4.627,4m
2
), đất tọa lạc tại ấp A, M, huyện L, được
UBND huyện L cấp cho ông L vào ngày 05/8/2013 để trả cho ông T diện tích theo
đo đạc thực tế 385,1m
2
trong phạm vi các mốc M9, M10, M11, M12, M16 về
M9 theo đồ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 15/6/2022 của Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện L.
Ông T khẳng định hiện trạng phần diện tích đất tranh chấp không thay đổi
thống nhất với Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, đồ đo đạc hiện trạng
đất tranh chấp và Biên bản thẩm định giá.
- Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, người đại diện theo ủy
quyền của bị đơn Trang Văn L là anh Nguyễn Văn T2 trình bày:
Nguồn gốc thửa đất tranh chấp của ông của ông Trang Văn L để lại
ông L được nhà nước cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo đúng trình tự, thủ tục
quy định của pháp luật. Do đó, ông L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông
T.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 97/2024/DS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2024,
của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò đã xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hứa Hòa T.
(Kèm theo Biên bản xem xét thẩm định tại ch ngày 25/5/2022 của Tòa án
nhân dân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp và Sơ đđo đạc hiện trạng đất tranh
chấp ngày 15/6/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L, tỉnh
Đồng Tháp)
2. Về án phí tạm ứng án phí: Ông Hứa Hòa T được miễn án ptheo quy
định của pháp luật, nên hoàn trả số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)
ông T đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0002403, ngày 03/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân shuyện Lấp Vò, tỉnh
Đồng Tháp.
3. Về chi phí tố tụng và tạm ứng chi phí tố tụng: Ông Hứa Hòa T phải chịu
số tiền chi phí tố tụng tổng cộng 5.999.520 đồng (Năm triệu, chín trăm chín
mươi chín nghìn, năm trăm hai mươi đồng). Ông T đã nộp tạm ứng và chi xong.
Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
4
Ngày 30/9/2024, ông Hứa Hòa T yêu cầu giải quyết buộc ông Trang Văn L
trả cho ông T 385,1m² đất vườn tạp yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số a BM 429517, số vào sổ CH 03563, thửa đất 36, tờ bản
đồ số 2 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp cho ông Trang Văn L ngày 05/8/2013.
Tại cấp sơ thẩm ông T yêu cầu nhưng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét
cụ thể.
- Ti phiên tòa phúc thm
Ông T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Ông L không đồng ý theo yêu cầu kháng cáo của ông T.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T, luật Huỳnh Văn B
trình bày: Nguồn gốc đất của ông bà, cha mẹ để lại và cho ông T sử dụng từ năm
1975 đến năm 2016 để trồng tre, năm 2017 ông T đi khai, đăng quyền sử
dụng đất thì địa chính xã xác định trong sổ mục kê đứng tên Bạch B1 là m
của ông L nên không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xảy ra tranh
chấp cho đến nay. Đối với diện tích đất cấp cho bà B1 khoản 2.000m
2
nhưng khi
cấp đổi giấy chứng nhận quyền sdụng đất hơn 4.000m
2
; hồ cấp đất không có
tài liệu quan cấp đất trả lời đúng trình tự, thủ tục không phù hợp
pháp luật; Tòa án cấp thẩm không nói gì đến giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của ông L, trong khi đó ông T yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cấp cho ông L. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông
T; sửa bản án dân sự thẩm theo hướng buộc ông L trả lại cho ông T 385,1m
2
hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông L để cấp lại cho ông
T.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông L, luật sư Lê Văn P trình
bày: Ông L không đồng ý theo yêu cầu kháng cáo của ông T. các văn bản trả
lời của Ủy ban nhân dân huyện V đã xác định trong sổ mục đứng n
Bạch B1 mẹ của ông L nên Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào đây đkhông chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông T là phù hợp pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét
xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T; giữ nguyên bản án dân sự
thẩm.
- Đại din Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến:
V vic tuân theo pháp lut t tng
5
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán:
Từ khi thụ giải quyết vụ việc đến khi nghị án, Thẩm phán đã tuân thủ
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc tuân theo pháp luật ttụng của Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư
ký phiên tòa:
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định
Bộ luật Tố tụng dân sự về trình tự xét xử phúc thẩm.
Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:
Người tham gia tố tụng đã thực hiện quyền nghĩa vụ đúng theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
V vic gii quyết v án:
Xét kháng cáo của ông Hứa Hòa T yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết
buộc ông Trang Văn L trả cho ông T 385,1m
2
đất vườn tạp yêu cầu hủy một
phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 36, tờ bản đồ số 02
do Ủy ban nhân dân huyện L cấp cho ông L ngày 05/8/2013. Nhận thấy:
Về nguồn gốc đất tranh chấp: Ông T cho rằng nguồn gốc đất tranh chấp
diện tích 385,1m
2
thuộc một phần thửa đất số 36, tờ bản đồ số 2 diện tích theo đo
đạc thực tế 4.627,4m
2
, toạ lạc tại ấp A, A, huyện L, tỉnh Đồng Tháp nguồn
gốc của cha mẹ ông T để lại cho ông T, việc UND huyện L cấp giấy chứng
nhận QSD đất là cấp chồng lên đất của ông. Còn ông L cho rằng nguồn gốc đất
là của mẹ ông bà Lê Bạch B1 để lại cho ông và ông được Ủy ban nhân dân huyện
L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng theo quy định của pháp luật.
Về quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Thửa đất số 318a, diện tích 544m
2
(đất T) và thửa đất số 318b, diện ch
1.518m
2
(đất ĐM) cùng tờ bản đồ số 01a do UBND huyện T (nay huyện L) cấp
giấy chứng nhận QSDĐ lần đầu theo đơn kê khai đăng ký cho bà Lê Bạch B1 vào
ngày 17/10/1992. Ngày 29/12/2010, UBND huyện L cấp giấy chứng nhận QSDĐ
cho ông Trang Văn L (con của bà B1) cả 02 thửa đất nêu trên, cấp hết diện tích.
Đến ngày 24/11/2012, ông L đơn cấp đối giấy chứng nhận QSDĐ từ bản đồ
299 thửa 318a 318b cùng tờ bản đồ số 1a, với tổng diện tích 2.062m
2
, sang bản
đồ địa chính chính quy thành thửa 36, tờ bản đồ số 2, diện tích 4.643,3m
2
và được
UBND huyện L cấp ngày 05/8/2013.
6
Theo Công văn s2710/ CNVPĐKĐĐHLV-ĐKCG ngày 01/8/2023, Công
văn số 5108/CNVPĐKĐĐHLV-KTĐC ngày 14/12/2023, Công văn số
2858/CNVPĐKĐĐHLV-KTĐC ngày 07/6/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai huyện L Công văn số 120/UBND-NC ngày 10/7/2023 của UBND
huyện L cung cấp thông tin: Khi cấp giấy cho B1 ông L không đo đạc
thực tế và việc cấp giấy choB1 đảm bảo theo quy định tại thời điếm cấp giấy.
Khi ông L được cấp đổi giấy đối với thửa đất số 36 là đo đạc, nguyên nhân
diện tích tăng từ 2.062m
2
thành 4.643,3m
2
là do đo đạc theo ranh giới, mốc giới
các chủ sử dụng đất liền kề xác định. Việc cấp giấy cho ông L trên sở cấp
đổi, đảm bảo theo quy định tại thời điểm cấp giấy.
Ông T cho rằng phần đất này là của cha ông là ông L2 quản lý, sử dụng từ
trước năm 1975 và ông L2 có đào con mương bề ngang 3m làm ranh với phần đất
của Bách N1. Tại biên bản hoà giải của Ủy ban nhân dân M ngày
29/3/2017 ông L đồng ý giao phần diện tích đất tranh chấp cho ông T phía giáp
Bích N tgữa tim lộ An Bình tính vào 15,3 mét, phía giáp Ngọc D1 tính
vào 14,5 mét và hai bên đã thống nhất theo thoả thuận. Ông T cho rằng phần đất
ông L đi đăng ký kê khai cấp giấy là cấp chồng lấn lên phần đất của ông. Tuy
nhiên, không được ông L tha nhận, ông L cho rằng 03 bụi tre do ông bà của ông
trồng, việc ông vào biên bản hoà giải do ông L người đi tu, đi đi về về,
không quan tâm đến nên bị nhầm với phần đất đối diện của ông T nên ông không
đồng ý theo thoả thuận tại biên bản hoà giải ngày 29/3/2017.
Ông T cung cấp những người làm chứng gồm bà S, ông T3, ông L3, N
và bà L1 nhưng những người làm chứng chủ yếu là người thân của ông T, đã xác
định ông T phần đất canh tác trồng tre từ mé lộ tới mương ranh đất hương
hoả cha mẹ cho ông T để lại và ông T trước đây bán tre trên phần diện tích đất
tranh chấp cho họ, không biết được con mương tiếp giáp với phần diện tích đất
tranh chấp do ai đào. Ngoài lời khai của những người làm chứng thì ông T không
còn chứng cứ nào khác chứng minh nguồn gốc đất của ông T nhưng lời khai
của những người làm chứng không phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án.
Theo Công văn số 5108/CNVPĐKĐĐHLV-KRĐC ngày 14/12/2023 của
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L cung cấp thông tin: Phần diện tích
385,1m
2
trong phạm vi mốc M9, M10, M11, M12, M16 về M9 theo Sơ đồ đo đạc
hiện trạng đất tranh chấp ngày 15/6/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất
7
đai huyện L qua đối chiếu với hệ thống bản đồ địa chính chính quy là thuộc thửa
đất số 36, tờ bản đồ sổ 02 do ông L đứng tên trên giấy chứng nhận QSDĐ.
Tại Công văn số 3932/ CNVPĐKĐĐHLV-KTĐ của Chi nhánh Văn phòng
đăng đất đai huyện L Công văn 258/UBND-NC ngày 23/8/2024 của
UBND huyện L cung cấp thông tin và tài liệu kèm theo thể hiện như sau:
Thửa đất số 36, tờ bản đồ số 02 được UBND huyện L cấp giấy chứng nhận
QSDĐ cho ông L vào ngày 05/8/2013 là được cấp đổi thuộc phạm vi các thửa đất
số 318a, 318b cùng tờ bản đồ số la và thửa đất số 329, tờ bản đồ số 01a và thửa
đất số 326, tờ bản đồ số 01.
Về thành phần hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp giấy cho ông L tại thửa đất s36,
tờ bản đồ số 02 là đúng theo quy định tại thời điểm cấp giấy. Qua kiểm tra bản đồ
địa chính chính quy tại thửa đất số 36, tờ bản đồ số 02 (theo hồ kỹ thuật thửa
đất được lập năm 2009) so với bản đồ 299 thì phần diện tích này nằm trong phạm
vi các thửa đất số 318a, 318b cùng tờ bản đồ số 01 (02 thửa đất này được cấp giấy
cho ông L); thửa đất số 329, tờ bản đồ số 01a và thửa đất số 326, tờ bản đồ số 01
(02 thửa đất này chưa được cấp giấy, theo sổ mục kê thể hiện tên chủ sử dụng đất
Lê Bạch B1).
Như vậy, căn cứ xác định phần đất tranh chấp của ông L được ch
tặng cho, ông L được UBND huyện L cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông L vào
ngày 05/8/2013 thửa đất số 36 là từ 04 thửa đất là thửa đất gồm thửa đất số 318a,
318b, cùng tờ bản đs01 thửa đất số 329, tờ bản đồ số 01a thửa đất số
326, tờ bản đồ số 01 (thửa 326 và thửa 329 do B1 đứng tên sổ mục kê), khi cấp
đổi giấy có đo đạc thực tế nhưng không tranh chấp. Ông T cho rằng nguồn gốc
đất là của cha mẹ ông để lại nhưng ông không có chứng cứ chứng minh.
Việc ông T cho rằng ông T vẫn còn phần diện tích đất khoảng 300m
2
đối
diện với phần diện tích đất tranh chấp (nằm bên phía bên kia con đường đan), do
trước đây khi nhà nước làm con lộ nên đã cắt ngang miếng đất của ông T miếng
đất của ông T chạy dài, cả hai cạnh tiếp giáp với đường đan của cả hai phần đất
của ông T thẳng hàng, ngang nhau. Tuy nhiên, theo đồ giải thửa khu vực
của phần diện ch đất tranh chấp kèm theo Công văn số 2858/CNVPĐKĐĐHLV-
KTĐC ngày 07/6/2024 của Chi nhánh Văn phòng đãng đất đai huyện L thể
hiện đối diện với thửa đất s 36, tờ bản đồ số 02 thửa đất số 30 thửa đất chưa
có số thửa đều không nằm thẳng hàng, ngang nhau tiếp giáp lộ đan với nhau. Do
đó, lời trình bày của ông T là không phù hợp với hiện trạng thực tế.
8
Xét kháng cáo ca ông Hứa Hòa T là không có căn cứ chấp nhận.
Từ những phân tích trên, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân s
năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án thẩm s:
97/2024/DS-ST ngày 17/9/2024 của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được xem
xét tại phiên toà, lời trình bày của các luật sư li phát biu ca Kim sát viên
tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Hứa Hòa T là nguyên đơn kháng cáo trong hạn
luật định. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm thụ xét xử theo trình tự phúc thẩm là
đúng với Điều 273, 293 Bộ luật tố dân sự năm 2015.
[2] Ông Hứa Hòa T kháng cáo yêu cầu giải quyết buộc ông Trang Văn L
trả cho ông T 385,1m² đất vườn tạp yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số a BM 429517, số vào sổ CH 03563, thửa đất 36, tờ bản
đồ số 2 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp cho ông Trang Văn L ngày 05/8/2013.
Hội đồng xét xử xét thấy: Nguồn gốc đất tranh chấp ông T cho rằng là cha
mẹ ông T cho ông T. Còn ông L cho rằng nguồn gốc thửa đất số 36, tờ bản đồ số
02 của ông L là được Lê Bạch B1 (mẹ ông L) cho và ông L. Tại Công văn số
2710/ CNVPĐKĐĐHLV-ĐKCG ngày 01/8/2023, ng văn số
5108/CNVPĐKĐĐHLV-KTĐC ngày 14/12/2023, Công văn số
2858/CNVPĐKĐĐHLV-KTĐC ngày 07/6/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai huyện L Công văn số 120/UBND-NC ngày 10/7/2023 của UBND
huyện L cung cấp thông tin:
Thửa đất số 318a 318b do bà Lê Bạch B1 đứng tên trên sổ mục kê. Thửa
đất số 318a, diện tích 544m
2
(đất T) thửa đất số 318b, diện tích 1.518m
2
(đất
ĐM) cùng tờ bản đồ số 01a do UBND huyện T (nay là huyện L) cấp giấy chứng
nhận QSDĐ lần đầu theo đơn khai đăng cho Bạch B1 vào ngày
17/10/1992, khi cấp giấy không có đo đạc thực tế và việc cấp giấy cho bà B1 đảm
bảo theo quy định tại thời điểm cấp giấy.
Ngày 29/12/2010, UBND huyện L cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông
Trang Văn L (con của bà B1) cả 02 thửa đất nêu trên, cấp hết diện tích, không có
9
đo đạc thực tế việc cấp giấy cho ông L đảm bảo theo quy định tại thời điểm
cấp giấy.
Ngày 24/11/2012, ông L có đơn cấp đổi giấy chứng nhận QSDĐ từ bản đồ
299 thửa 318a 318b cùng tờ bản đồ số 1a, với tổng diện tích 2.062m
2
, sang bản
đồ địa chính chính quy thành thửa 36, tờ bản đồ số 2, diện tích 4.643,3m
2
và được
UBND huyện L cấp ngày 05/8/2013. Việc cấp giấy cho ông L trên sở cấp
đổi, đảm bảo theo quy định tại thời điểm cấp giấy. Khi ông L được cấp đổi giấy
đối với thửa đất số 36 là có đo đạc, nguyên nhân diện tích tăng từ 2.062m
2
thành
4.643,3m
2
do đo đạc theo ranh giới, mốc giới các chủ sử dụng đất liền kề xác
định.
Theo Công văn số 3932/ CNVPĐKĐĐHLV-KTĐC ngày 29/7/2024 của
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L Công văn số 258/UBND-NC
ngày 23/8/2024 của UBND huyện L cung cấp thông tin tài liệu kèm theo thể
hiện như sau:
Thửa đất số 36, tờ bản đồ s02 được UBND huyện L cấp giấy chứng nhận
QSDĐ cho ông L vào ngày 05/8/2013 là được cấp đổi thuộc phạm vi các thửa đất
số 318a, 318b cùng tờ bản đồ số 1a và thửa đất số 329, tờ bản đồ số 01a và thửa
đất số 326, tờ bản đồ số 01.
Thửa đất số 329, tờ bản đồ s 01a và thửa đất số 326, tờ bản đồ số 01 chưa
được cấp giấy chứng nhận QSDĐ, sổ mục kê thể hiện tên chủ sử dụng đất
Bạch B1.
Vị trí thửa đất số 329, tờ bản đồ số 01a và thửa đất số 326, tờ bản đồ số 01
nằm trong một phần diện tích 385,1m
2
thuộc phạm vi các mc M9, M10, M11,
M12, M16 về M9 theo đồ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 15/6/2022 của
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L.
Về thành phần hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp giấy cho ông L tại thửa đất số 36,
tờ bản đồ số 02 là đúng theo quy định tại thời điểm cấp giấy. Qua kiểm tra bản đồ
địa chính chính quy tại thửa đất số 36, tờ bản đồ số 02 (theo hồ kỹ thuật thửa
đất được lập năm 2009) so với bản đồ 299 thì phần diện tích này nằm trong phạm
vi các thửa đất số 318a, 318b cùng tbản đồ số 01 (02 thửa đất này được cấp giấy
cho ông L); thửa đất số 329, tờ bản đồ số 01a và thửa đất số 326, tờ bản đồ số 01
(02 thửa đất này chưa được cấp giấy, theo sổ mục kê thể hiện tên chủ sử dụng đất
Bạch B1). Nguồn gốc các thửa đất số 329, tờ bản đồ số 01a thửa đất số
10
326, tờ bản đồ số 01 đều do bà Bạch B1 (mẹ của ông L) đứng tên Sổ mục kê
Do đó có căn cứ xác định QSDĐ và được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho ông
L là phù hợp với quy định. Đồng thời tại giai đoạn phúc thẩm ông T cũng không
cung cấp được chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có
căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Hứa
Hòa T.
Đối với ông T yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số a BM 429517, số vào sổ CH 03563, thửa đất 36, tờ bản đồ s2 do Ủy ban
nhân dân huyện L cấp cho ông Trang Văn L ngày 05/8/2013 để cấp lại cho ông T
diện tích đất 385,1m
2
. Tòa án cấp thẩm không xem xét thiếu sót. Tuy
nhiên, việc thiếu sót này không ảnh hưởng đến nội dung vụ án.
[3]. Từ những nhận định nêu trên xét thấy bản án dân sự thẩm số
97/2024/DS-ST ngày 17/9/2024, ca Tòa án nhân dân huyện Lấp xử là căn
cứ phù hợp với quy định pháp luật nên giữ nguyên.
[4]. Xét lời trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông
T là không có căn cứ nên không chấp nhận như nhận định trên.
[5]. Xét lời trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông
L là có căn cứ nên chấp nhận như nhận định.
[6]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp là có
căn cứ nên chấp nhận như nhận định trên.
[7]. Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Hứa Hòa T nên ông T
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định. Tuy nhiên, ông Hứa Hòa T
người cao tuổi nên miễn án phí theo quy định.
[8]. Các phn khác ca Bn án dân s thẩm s 97/2024/DS-ST ngày
17/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp không có kháng
cáo, kháng ngh có hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng
ngh.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca Ủy ban Thường V Quc
Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
11
Tuyên xử:
1. Không chp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo ca ông Hứa Hòa T.
2. Giữ nguyên Bản án dân s sơ thẩm số 97/2024/DS-ST ngày 17/9/2024
của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
2.1. Không chấp nhận toàn b yêu cầu khởi kiện của ông Hứa Hòa T.
(Kèm theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 25/5/2022 của Tòa án
nhân dân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp và Sơ đđo đạc hiện trạng đất tranh
chấp ngày 15/6/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện L, tỉnh
Đồng Tháp).
2.2. Về án phí tạm ứng án phí: Ông Hứa Hòa T được miễn án phí theo
quy định của pháp luật, nên hoàn trả số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)
mà ông T đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án
số 0002403, ngày 03/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò, tỉnh
Đồng Tháp.
2.3. Về chi phí tố tụng tạm ứng chi phí tố tụng: Ông Hứa Hòa T phải
chịu stiền chi phí tố tụng tổng cộng 5.999.520 đồng (Năm triệu, chín trăm
chín mươi chín nghìn, năm trăm hai ơi đồng). Ông T đã nộp tạm ứng chi
xong.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Hứa Hòa T được miễn án phí dân sự phúc
thẩm.
4. Các phn khác ca Bn án dân s thẩm s 97/2024/DS-ST ngày
17/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp không kháng
cáo, kháng ngh có hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng
ngh.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Phòng TT, KT và THA TAT;
- VKSND Tỉnh;
- TAND huyện Lấp Vò;
- Chi Cục THADS huyện Lấp Vò;
- Đương sự;
- Lưu: VT, HSVA, TDS (Trang).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký tên đóng dấu
Lê Hng Nưc
12
Tải về
Bản án số 127/2025/DS-PT Bản án số 127/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 127/2025/DS-PT Bản án số 127/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất