Bản án số 190/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 190/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 190/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 190/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 190/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 190/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngày 09 tháng 9 năm 2024, nguyên đơn Phan Văn T có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết bao gồm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 190 /2025/DS-PT
Ngày: 18-03-2025
V/v tranh chấp Đòi tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Văn Đạt
Các Thẩm phán: Bà Trương Thị Tuyết Linh
Bà Nguyễn Ái Đoan
- Thư ký phiên tòa: Bà Lưu Thị Loan - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa:
Bà Mai Thị Đào Quyên - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 03 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 685/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng
12 năm 2024 về tranh chấp “Đòi tài sản”
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 303/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm
2024 của Toà án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 773/2024/QĐ-PT
ngày 26 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phan Văn T, sinh năm 1963;
Địa chỉ: ấp A, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện ủy quyền của ông T: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1957
(Có mặt);
Địa chỉ: ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Bị đơn: Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang;
Địa chỉ: số A, Rạch G, Phường A, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị T1, chức vụ: Chấp hành viên-
Trưởng phòng phụ trách Phòng Nghiệp vụ và Tổ chức thi hành án (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Võ Thị T2, sinh năm 1946 (Xin vắng mặt);
2
2. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1957 (Xin vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1977 (Có mặt);
- Anh Ung Minh C, sinh năm 1978 (Xin vắng mặt);
- Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1973 (Xin vắng mặt);
- Bà Nguyễn Thị T3, sinh năm 1975 (Xin vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Ủy ban nhân dân tỉnh T.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn V – Chủ Tịch;
Đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn T4 – Phó Chủ Tịch (Xin vắng
mặt);
Địa chỉ: số B, đường C, phường A, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
- Ông Hồ Văn Đ (Võ Văn C1) sinh năm 1930, chết năm 2022.
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Đ:
+ Anh Võ Văn T5, sinh năm 1962 (Xin vắng mặt);
Địa chỉ: Tổ A ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
+ Chị Hồ Thị Đ1, sinh năm 1964 (Xin vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước.
+ Chị Hồ Thị H1, sinh năm 1969 (Xin vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước.
+ Anh Hồ Văn N, sinh năm 1971 (Xin vắng mặt);
+ Chị Hồ Thị B1 sinh năm (Xin vắng mặt);
+ Anh Hồ Văn T6, sinh năm 1974 (Xin vắng mặt);
+ Chị Hồ Thị Kim L, sinh năm 1976 (Xin vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Phan Văn T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông
Nguyễn Văn H trình bày: Vào năm 1991 bà Võ Thị T2 chấp hành bản án hình sự
số 924/HS-PT ngày 04/11/1991 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
thành phố Hồ Chí Minh. Để bồi thường cho các bị hại trong vụ án trên, Ủy ban
nhân dân tỉnh T có quyết định số 36/QĐ-UBND ngày 17/11/1991 kê biên phát
mãi tài sản của bà T2 gồm nhà, đất, công trình trên đất và các tài sản khác trong
nhà. Khi đó ông có bà con với bà T2 nên có đưa cho ông T 43.200.000đồng để
3
hùn vốn với ông C1 là anh ruột của bà T2 để mua tài sản phát mãi theo quyết
định số 36/QĐ-UBND ngày 17/11/1991. Đến ngày 13/7/1991 ông T và ông C1
làm tờ thỏa thuận ông T hùn 43.200.000đ để mua tài sản còn ông C2 đứng tên
hồ sơ mua, sau đó đã mua được tài sản phát mãi theo danh mục tài sản vụ án bà
Võ Thị T2 ngày 26/3/1991 với số tiền trúng đấu giá 43.200.000đồng, trong đó
có phần đất diện tích 2.736,22m
2
tại ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang cùng
các tài sản khác trên đất.
Ngày 21/5/1992 cơ quan thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
tiến hành cưỡng chế thi hành án giao đất và tài sản trong vụ án của bà T2, ông T
là người đứng ra nhận tài sản là căn nhà số H tại ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền
Giang gắn với phần đất thổ cư có diện tích 392m
2
nhưng thực tế phần đất chỉ có
300m
2
. Sau khi nhận tài sản thì ông T đã giao cho ông quản lý sử dụng cho đến
nay vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và căn nhà trên đất.
Nay ông T yêu cầu Tòa án buộc Cục thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang
phải tiếp tục cho ông T phần diện tích đất còn thiếu là 2.436,22m
2
thuộc thửa đất
số 338 nay là theo diện tích thực đo của các thửa đất số 504, 503, 502 và một
phần thửa số 170, tờ bản đồ số 7 tại tổ A ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang
và các tài sản gồm nhà tắm, tủ búp phê, tủ đứng, bàn tròn cây xoài, kính các loại,
hồ nước, nhà sản xuất nước đá.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Nguyễn Trọng T7 trình bày:
Tại bản án hình sự số 924/HS-PT ngày 04/11/1991 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tuyên xử về dân sự buộc bà Võ Thị
T2 phải trả cho 33 bị hại trong vụ án với số tiền 156.233.750 đồng, tại thời điểm
đó Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang là cơ quan trực tiếp tổ chức thi hành bản án
trên. Quá trình thi hành án, Tòa án tỉnh Tiền Giang kê biên định giá nhà, tài sản
và đất vườn của bà T2 tại ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang vào ngày
26/3/1991. Đến ngày 12/7/1991, tổ chức đấu giá tài sản trên và người mua thành
công là ông C1 cư ngụ ấp D, xã T với giá 43.200.000đồng.
Ngày 21/5/1992, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang tiến hành giao nhà, tài
sản và phần đất gắn liền có diện tích 392m
2
cho ông T (người được ông C1 ủy
quyền) trực tiếp nhận. Tại thời điểm bàn giao công tác từ Tòa án tỉnh chuyển
sang vào tháng 7/1993 thì nhà đất, tài sản gắn liền với đất đã được bàn giao
xong cho người mua chỉ còn lại phần đất vườn có diện tích 2.736,22m
2
đã được
định giá, bán đấu giá nhưng chưa giao cho người mua do đây là đất hương hỏa
trên đất có mồ mả. Theo quy định tại thời điểm này chưa có hướng dẫn cụ thể
việc xử lý phần đất vườn nêu trên thì Phòng thi hành án dân sự thuộc Sở tư pháp
trước đây nay là Cục thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang đã làm việc và được
ông C1 thống nhất nhận lại số tiền 7.524.000đồng theo phiếu chi số 10 ngày
4
19/01/1994 tương ứng với giá trị phần đất vườn có diện tích 2.736,22m
2
đã kê
biên trước đó do vướn quy định cơ quan thi hành án không giao được cho người
mua.
Toàn bộ hồ sơ thi hành án đã thể hiện đầy đủ quá trình kê biên xử lý tài
sản thể hiện ông C1 là người mua tài sản và trực tiếp nộp tiền tại Tòa án nên có
quyền nhận lại số tiền đã nộp và tại thời điểm nhận lại tiền thỏa thuận mua bán
quyền sử dụng phần đất vườn của bà T2 ngày 19/01/1994 giữa Tòa án với ông
C1 đã chấm dứt không còn hiệu lực.
Do đó ông T không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc mua bán tài
sản nêu trên nên Cục thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của ông, việc ông cho rằng có thỏa thuận hùn mua tài sản với ông
C1 đây là quan hệ dân sự khác nếu ông có tranh chấp thì khởi kiện ông C1 tại
Tòa án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn B trình bày:
Không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn.Về giá đất và các tài sản trên đất thì
thống nhất với giá mà Hội đồng đã định vào ngày 03/7/2020; còn các tài sản
gồm nhà tắm, tủ búp phê, tủ đứng, bàn tròn cây xoài, kính các loại, hồ nước, nhà
sản xuất nước đá do hiện nay không còn nên đề nghị Toá án căn cứ vào biên bản
thi hành án ngày 10/01/1995 và các quyết định Cục thi hành án dân sự tỉnh Tiền
Giang để giải quyết.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Ung Minh C trình bày: Vào
năm 2010, anh được bà Võ Thị T2 (mẹ vợ) chia cho phần đất có diện tích
85,8m
2
, thuộc thửa đất số 503, tờ bản đồ số 7 tại ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền
Giang. Anh đã xây nhà ở và phần đất này anh đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liến với đất có số vào
sổ cấp giấy chứng nhận: CH 00117 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày
01/02/2016. Những gì xảy ra trước đây giữa ông T với Cục thi hành án dân sự
tỉnh Tiền Giang cũng như đối với bà T2 thì anh không biết.
Nếu bị đơn thua kiện thì phải bồi thường toàn bộ các công trình xây dựng
trên thửa đất số 503 với giá trị tài sản ước tính 1.000.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T3 trình bày: Vào
năm 2017, bà có nhận chuyển nhượng đất và nhà của bà Nguyễn Thị Bé S đối
với thửa đất số 502, tờ bản đồ số 7 tại ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Những gì xảy ra trước đây giữa ông T với Cục thi hành án dân sự tỉnh Tiền
Giang cũng như đối với bà T2 thì chị không biết.
Nếu bị đơn thua kiện thì phải bồi thường toàn bộ các công trình xây dựng
trên thửa đất số 502 với giá trị tài sản ước tính 1.800.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hồ Văn Đ (Võ Văn C1) có
5
trình bày: Vào tháng 7/1991, ông và ông T có hùn mua căn nhà của bà Võ Thị
T2 theo bản án số 924/HSPT ngày 04/11/1991 của Tòa án nhân dân tối cao. Sau
khi đấu giá ngày 12/7/1991 ông đã đặt cọc số tiền 5.000.000 đồng cho hội đồng
định giá. Ngày 21/5/1992 Tòa án tiến hành bàn giao căn nhà của bà T2, ông có
ủy quyền cho ông T đứng ra nhận. Nhưng sau đó ông thấy ông T có dấu hiệu
không thực hiện đúng theo giấy tay hai bên thỏa thuận. Ngày 19/01/1994 nhận
lại toàn bộ số tiền trước đây chỉ chừa lại phần tiền bằng đúng giá trị nhà và đất
thổ cư là 300m
2
. Mặt khác, toàn bộ đất và vườn không thuộc quyền sở hữu của
bà T2 nên ông đã đồng ý và ký vào biên bản của thi hành án.
Ngày 01/10/1995 Thi hành án tiến hành đo đạc, xác định lại cột mốc và
giao lại toàn bộ phần đất cho ông Nguyễn Thanh H2. Ông T đã đồng ý và ký tên
vào biên bản. Nên ông yêu cầu bác đơn khiếu nại của ông T về việc yêu cầu giao
thêm phần đất vườn 2.436,22m
2
là không có cơ sở, đo đạc lại phần đất mà ông H
(anh ông T) đã xây dựng trái phép theo biên bản lập ngày 10/01/1995.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hồ Văn N trình bày: Anh là
con của ông Hồ Văn Đ (tên thường gọi là Võ Văn C1) đã chết vào tháng
01/2022. Mẹ anh là bà Nguyễn Thị S1 chết năm 2006. Cha mẹ anh có tất cả 07
người con, gồm anh T5, chị Đ1, chị H1, chị B1, anh, anh T6 và chị L. Ngoài ra
cha mẹ anh không có cha mẹ nuôi và con nuôi. Anh yêu cầu được vắng mặt
trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân tỉnh T trình bày:
Theo Bản án hình sự phúc thẩm số 924/HSPT ngày 04/11/1991 của Tòa án nhân
dân tối cao tuyên xử bà Võ Thị T2 phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản công dân”, về trách nhiệm dân sự buộc bà T2 trả cho 33 bị hại với tổng số
tiền 156.233.750 đồng. Ngày 17/01/1991 Ủy ban nhân dân tỉnh T ban hành
Quyết định số 36/QĐ.UB thành lập Hội đồng định giá để phát mãi nhà ở, tài sản
và đất vườn của bà T2 tọa lạc ấp D, xã T, huyện C vào ngày 26/3/1991 và tổ
chức bán đấu giá vào ngày 12/7/1991. Qua đấu giá người trúng đấu giá là ông
Võ Văn C1, ngụ tại ấp D, xã T, huyện C với giá 43.200.000 đồng.
Ngày 21/5/1992, Tòa án nhân dân tỉnh đã giao căn nhà, tài sản và phần
đất gắn liền có diện tích 392m
2
cho ông T (người được ông C1 ủy quyền) trực
tiếp nhận. Chỉ còn lại phần đất vườn diện tích 2.736,22m
2
chưa giao cho người
mua do là đất hương hỏa, trên đất có mồ mả.
Qua làm việc với ông C1 đã thống nhất nhận lại số tiền 7.524.000 đồng
theo phiếu chi số 10 ngày 19/01/1994 tương ứng với giá trị phần quyền sử dụng
đất vườn đã nộp tại Tòa án nhưng Cơ quan thi hành án không giao được cho
người mua.
Toàn bộ quá trình thi hành án, kê biên, xử lý tài sản cho thấy ông Võ Văn

6
C1 là người mua tài sản và trực tiếp nộp tiền tại Tòa án, nên có quyền nhận lại
số tiền đã nộp và nhận lại tiền thỏa thuận mua đấu giá quyền sử dụng đất vườn
của bà T2 giữa Tòa án và ông C1 đã chấm dứt, không còn hiệu lực.
Tại Bản án dân sơ thẩm số 303/2024/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang áp dụng khoản 14 Điều 26,
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 1
Điều 157, khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 166 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 09 tháng 9 năm 2024, nguyên đơn Phan Văn T có đơn kháng cáo
với nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết bao gồm: Chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm:
-Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng
quy định của pháp luật. Các đương sự cũng chấp hành theo đúng quy định của
pháp luật.
- Về nội dung vụ án và yêu cầu kháng cáo: Án sơ thẩm đã thu thập chứng
cứ đầy đủ và xét xử đúng quy định của pháp luật; Đối với phần đất vườn là đất
hương quả, do không giao được đất nên Cục Thi hành án dân sự đã hoàn trả lại
giá trị bằng tiền cho ông C1. Ông T kháng cáo nhưng không cung cấp thêm
chứng cứ gì mới để chứng minh. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ
khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được
thẩm tra tại phiên tòa, nội dung yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn lời trình bày
của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến phát biểu
của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Tòa án sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp “Đòi tài sản”
là có căn cứ , đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm thì nguyên đơn kháng cáo
bản án trong thời hạn luật, ông T được miễn nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
7
Đối với những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có
đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt
những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo quy định tại khoản 2 Đều
296 của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng anh B có mặt tại phiên tòa.
[2] Về nội dung vụ án: Bà Võ Thị T2 bị xét xử hình sự về tội “Lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân”. Tại bản án hình sự số 924/HS-PT
ngày 04/11/1991 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ
Chí Minh tuyên xử về dân sự buộc bà Võ Thị T2 phải trả cho 33 bị hại trong vụ
án với số tiền 156.233.750 đồng, tại thời điểm đó Tòa án nhân dân tỉnh Tiền
Giang là cơ quan trực tiếp tổ chức thi hành bản án trên. Quá trình thi hành án,
Tòa án tỉnh Tiền Giang kê biên định giá nhà, tài sản và đất vườn của bà T2 tại ấp
D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang vào ngày 26/3/1991. Đến ngày 12/7/1991, tổ
chức đấu giá tài sản trên và người mua thành công là ông C1 cư ngụ ấp D, xã T
với giá 43.200.000đồng. Ông T cho rằng ông là người hùn tiền cùng với ông Võ
Văn C1 để mua tài sản đấu giá với số tiền 43.200.000đồng, trong đó có phần đất
diện tích 2.736,22m2 tại ấp D, xã T, huyện C cùng các tài sản khác trên đất.
Ngày 21/5/1992 cơ quan thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang tiến
hành cưỡng chế thi hành án giao đất và tài sản trong vụ án của bà T2, ông T là
người đứng ra nhận tài sản là căn nhà số H tại ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền
Giang gắn với phần đất thổ cư có diện tích 392m
2
nhưng thực tế phần đất chỉ có
300m
2
. Nay ông T yêu cầu Tòa án buộc Cục thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang
phải tiếp tục cho ông T phần diện tích đất còn thiếu là 2.736,22m
2
thuộc thửa đất
số 338 nay là theo diện tích thực đo của các thửa đất số 504, 503, 502 và một
phần thửa số 170, tờ bản đồ số 7 tại tổ A ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang
và các tài sản gồm nhà tắm, tủ búp phê, tủ đứng, bàn tròn cây xoài, kính các loại,
hồ nước, nhà sản xuất nước đá. Tòa án sơ thẩm đã xét xử không chấp nhận tòan
bộ yêu cầu khởi kiện của ông T , ông T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
[3] Xét đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn T8, Hội đồng xét xử phúc
thẩm nhận thấy:
[3.1]Tài liệu có trong hồ sơ thể hiện :Biên bản về việc tổ chức đấu giá nhà
cửa, tài sản của bà Võ Thị T2 ngày 12/7/1991 (bút lục 141) thì ông Võ Văn C1
là người trúng đấu giá toàn bộ tài sản của bà T2 với số tiền 43.200.000đồng (bút
lục 141); Ngày 12/7/1991 chính ông Võ Văn C1 là người nộp số tiền
43.200.000đồng để mua tài sản đấu giá (bút lục 269); Ngày 21/5/1992 Cơ quan
thi hành án thuộc Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang tiến hành giao căn nhà số H
tại ấp D, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang cho người mua đấu gía là ông C1, ông
C1 làm văn bản ủy quyền cho ông Phan Văn T đến nhận tài sản (Bút lục
143,144) do ông C1 bệnh không đến nhận nhà được. Như vậy, đã có đủ cơ sở để

8
xác định ông C1 là người mua đấu giá tài sản của bà T2, ông C1 là người nộp
tiền và nhận tài sản, việc ông T đến nhận tài sản (căn nhà số H) là do ông C1 ủy
quyền nhận tài sản. Do đó, các tài sản còn lại cơ quan thi hành án không bàn
giao cho ông T là đúng . Đối với phần đất vườn còn lại 2.736,22m
2
thì cơ quan
thi hành án xác định không thể bàn giao được do đây là đất hương quả, có mồ
mã gia tộc có phát sinh tranh chấp, thời điểm này pháp luật chưa hướng dẫn thi
hành đối với loại đất này nên Cơ quan Thi hành án đã hoàn trả lại số tiền
7.524.000đồng cho ông C1 (trị giá đất không bàn giao được) cho ông C1, ông
C1 là người nhận tiền theo phiếu chi ngày 19/01/1994. Vấn đề này cũng phù hợp
với tờ tự khai của ông Võ Văn C1 giao nộp cho Tòa án (bút lục 133). Xét nội
dung bản án sơ thẩm đã bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T là có căn cứ,
đúng pháp luật. Ông T kháng cáo cũng không cung cấp thêm chứng cứ gì mới
để chứng minh nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng
cáo của ông T, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1
Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3.2] Đối với việc ông T cho rằng ông hùn tiền với ông C1 để mua tài sản
của bà T2 thì Tòa án sơ thẩm xác định đây là quan hệ giao dịch riêng giữa ông T
và ông C1 là có căn cứ. Nếu các bên có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án
khác.
[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến
đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
[5] Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo của ông T và giữ nguyên
bản án sơ thẩm. Đáng lẽ ra ông T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy
định nhưng ông T là người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử
miễn toàn bộ án phí phúc thẩm cho ông T.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 296, khoản 1 Điều 308, Điều 148 của Bộ luật tố
tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 166 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội.
Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phan Văn T. Giữ nguyên
bản án dân sự sơ thẩm số 303/2024/DS-ST ngày 29/8/2024 của Tòa án nhân dân
huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
9
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T về việc khởi
kiện đòi Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang phải tiếp tục giao phần đất có
diện tích 2.736,22m
2
thuộc thửa đất số 338 nay là theo diện tích thực đo của các
thửa đất số 504, 503, 502 và một phần thửa số 170, tờ bản đồ số 7 tại tổ A, ấp D,
xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang và các tài sản gồm nhà tắm, tủ búp phê, tủ đứng,
bàn tròn cây xoài, kính các loại, hồ nước, nhà sản xuất nước đá.
3. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm cho ông
Phan Văn T. H3 lại ông Phan Văn T 2.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo
biên lai thu số 0002819 ngày 12/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Cái Bè.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang;
- Chi cục THADS huyện Cái Bè,tỉnh Tiền Giang
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Văn Đạt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm