Bản án số 183/2024/DS-ST ngày 04/11/2024 của TAND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 183/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 183/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 183/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 183/2024/DS-ST ngày 04/11/2024 của TAND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bình Đại (TAND tỉnh Bến Tre) |
Số hiệu: | 183/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà K khởi kiện yêu cầu chị T, anh H trả nợ hụi |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BÌNH ĐẠI
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 183 /2024/DS-ST
Ngày: 04/11/2024
V/v “Tranh chấp hụi”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Long Hồ.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Bùi Tuấn Khanh;
2. Ông Đặng Hoàng Mích.
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Minh Trọng là Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre: Bà
Nguyễn Thị Thảo Loan – Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 11 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Đại,
xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án dân sự thụ lý số:
212/2024/TLST-DS, ngày 29 tháng 5 năm 2024 về việc “Tranh chấp hụi” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 295/2023/QĐXX-ST ngày 30 tháng 9 năm
2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 221/2024/QĐST-DS ngày 16 tháng 10
năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1942 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp V, xã V, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Bà Nguyễn Thị K có yêu cầu giải quyết vắng mặt ngày 27/9/2024.
- Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp bà K: Ông Hồ Tấn P – Trợ giúp
viên Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh B.
Địa chỉ: Số A, đường T, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Ông Hồ Tấn P có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Bị đơn: Bà Huỳnh Kim T, sinh năm 1973 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp V, xã V, huyện B, tỉnh Bến Tre.
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Sơn H, sinh năm 1971
(Vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp V, xã V, huyện B, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo Đơn khởi kiện ngày 05/4/2024, Biên bản lấy lời khai ngày
27/9/2024 và những lời trình bày tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn bà Nguyễn Thị K trình bày như sau:
Bà là chỗ quen biết với chị Huỳnh Kim T, biết chị T làm chủ hụi nên bà
có chơi hụi và mua hụi của chị T, cụ thể như sau:
Dây hụi thứ 01: Hụi khui ngày 25/12/2021 âm lịch nhằm ngày , hụi
mệnh giá 2.000.000 đồng/phần, hụi gồm 24 phần, mỗi tháng khui 01 lần vào
ngày 25 âm lịch hàng tháng, bà tham gia chơi 01 phần, mỗi tháng các hụi viên
kêu hụi 260.000 nên bà đóng hụi sống số tiền 1.740.000 đồng/kỳ, đóng được 23
kỳ, đến kỳ 24 ngày 25/10/2023 âm lịch là kỳ hụi cuối, bà là người được hốt thì
chị T tuyên bố bể hụi.
Do dây hụi đã mãn, bà đóng đến kỳ cuối nên yêu cầu chị T trả tiền hụi
theo mệnh giá cụ thể 2.000.000 đồng x 23 kỳ = 46.000.000 đồng.
Chị T có trả bà được 5.000.000 đồng và bà cũng chấp nhận trả cho chị T
1.000.000 đồng tiền đầu thảo nên dây hụi này chị T còn nợ lại bà số tiền hụi là
40.000.000 đồng.
Dây hụi thứ 02: Hụi khui ngày 30/9/2022 âm lịch, hụi mệnh giá
2.000.000 đồng/phần, hụi gồm 20 phần, mỗi tháng khui 01 lần vào ngày 30 âm
lịch hàng tháng, bà chơi 01 phần và mua 01 phần, cụ thể:
Phần 1: Bà chơi 01 phần, đóng được 14 kỳ hụi, mỗi lần kêu hụi 260.000
đồng nên bà đóng mỗi kỳ 1.740.000 đồng, với số tiền 1.740.000 đồng x 14 kỳ =
24.360.000 đồng thì chị T tuyên bố bể hụi nên bà không đóng nữa.
Phần 2: Bà mua 01 phần hụi của bà Nguyễn Thị Diệu H1, bà cũng đóng
được 14 kỳ hụi, với số tiền 1.740.000 đồng x 14 kỳ = 24.360.000 đồng thì chị T
tuyên bố bể hụi nên bà không đóng nữa.
Dây hụi này, chị T có trả cho bà được 3.000.000 đồng nên còn nợ lại bà
số tiền cụ thể là: 24.360.000 đồng x 02 phần – 3.000.000 đồng = 45.720.000
đồng.
3
Tổng cộng 02 dây hụi, chị Huỳnh Kim T còn nợ bà số tiền là 40.000.000
đồng + 45.720.000 đồng = 85.720.000 đồng.
So với yêu cầu khởi kiện ban đầu với số tiền hụi 93.000.000 đồng thì bà
rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu trả số tiền hụi là 85.720.000
đồng.
Anh Trần Sơn H là chồng chị Huỳnh Kim T biết chị T làm chủ hụi, biết
tôi có chơi hụi của chị T mở, quan hệ hôn nhân anh H, chị T vẫn còn nên bà yêu
cầu anh Trần Sơn H có nghĩa vụ liên đới cùng chị Huỳnh Kim T cùng trả nợ.
Do đó, bà khởi kiện yêu cầu anh Trần Sơn H, chị Huỳnh Kim T có nghĩa
vụ liên đới trả cho bà số tiền hụi 85.720.000 đồng (T1 mươi lăm triệu bảy trăm
hai mươi nghìn đồng) và không yêu cầu tính lãi số tiền trên.
* Tại Bản tự khai, Đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, người bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là ông Hồ Tấn P, trình bày như sau:
Bà K có tham gia chơi hụi do chị T làm chủ, quá trình giải quyết vụ án
nguyên đơn cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ phía bị đơn không đến là từ bỏ
quyền, nghĩa vụ hợp pháp. Do đó, đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của
nguyên đơn.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Bình Đại đã
tống đạt hợp lệ cho chị Huỳnh Kim T các văn bản tố tụng nhưng chị Huỳnh Kim
T vắng mặt không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải cũng như xét xử nên Tòa án không thu thập được lời
khai của chị Huỳnh Kim T.
* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 27/9/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là anh Trần Sơn H có ý kiến như sau:
Anh thừa nhận có biết việc bà Nguyễn Thị K tham gia chơi hụi do vợ anh
là chị Huỳnh Kim T làm chủ. Anh biết chị T bể hụi và có nợ bà K. Tuy nhiên,
việc chơi hụi cụ thể thế nào, số tiền hụi ra sao thì anh không biết. Việc chơi hụi
của chị T có thu nhập cũng dùng để trang trải cuộc sống gia đình chung, quan hệ
hôn nhân giữa anh và chị T vẫn còn, anh cũng đồng ý cùng chị T trả nợ.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại phát biểu ý kiến về
việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm
phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, kể
từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu
ý kiến về việc giải quyết vụ án:
4
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Đối với Thẩm phán có chấp hành tốt
theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, thực hiện
đúng các nguyên tắc do pháp luật quy định. Đối với những người tham gia tố
tụng thì nguyên đơn có chấp hành tốt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ
nhưng vẫn vắng mặt là vi phạm nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại khoản
16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Áp dụng các Điều 288, 468, 471 Bộ luật dân sự
năm 2015; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP
ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về hụi, họ, biêu, phường; Điều 147,
227, 228, 238, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-
UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K đối với số tiền
hụi 7.280.000 đồng (Bảy triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng).
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K. Buộc chị
Huỳnh Kim T có nghĩa vụ liên đới trả số tiền hụi 85.720.000 đồng (T1 mươi lăm
triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng). Ghi nhận sự tự nguyện bà Nguyễn Thị K
không yêu cầu tính lãi số tiền trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến đề nghị của Đại
diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về thủ tục tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Nguyễn Thị K khởi kiện yêu cầu
chị Huỳnh Kim T, anh Trần Sơn H liên đới trả nợ hụi. Do đó, quan hệ pháp luật
tranh chấp trong vụ án này được xác định là “Tranh chấp hụi” theo quy định tại
Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ vào Đơn xác nhận địa chỉ nơi
cư trú bị đơn ngày 19/3/2024 của Công an xã V thì chị Huỳnh Kim T, anh Trần
Sơn H có đăng ký thường trú tại ấp V, xã V, huyện B, tỉnh Bến Tre và hiện đang
sinh sống tại địa phương. Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết vụ án theo trình tự
sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Bình Đại.
5
[3] Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Huỳnh Kim T đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử nhưng chị T vẫn vắng mặt không có lý do.
Bà Nguyễn Thị K, ông Hồ Tấn P, ông Trần Sơn H có yêu cầu giải quyết vắng
mặt. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt tất cả các đương sự là phù hợp quy định tại
Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[4] Quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị K rút một phần yêu cầu khởi
kiện đối với khoản tiền hụi, trước đây bà yêu cầu chị T, anh H có nghĩa vụ liên
đới trả số tiền hụi là 93.000.000 đồng (Chín mươi ba triệu đồng), nay bà chỉ yêu
cầu chị T, anh H có nghĩa vụ liên đới trả số tiền hụi là 85.720.000 đồng (T1
mươi lăm triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng), rút yêu cầu đối với số tiền hụi
7.280.000 đồng (Bảy triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng). Căn cứ khoản 2 Điều
244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử một phần yêu cầu
khởi kiện của bà Nguyễn Thị K.
- Về nội dung vụ án:
[5] Bà Nguyễn Thị K khởi kiện cho rằng có chơi hụi do chị Huỳnh Kim T
làm chủ và chị T còn nợ hụi vơi số tiền 85.720.000 đồng (T1 mươi lăm triệu bảy
trăm hai mươi nghìn đồng). Căn cứ khởi kiện là các Giấy hụi (bút lục 07-08).
Xét thấy, căn cứ các Giấy hụi (bút lục 07-08) đều thể hiện rõ bà K có tham
gia chơi hụi do chị T làm chủ. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, các lời
khai, chứng cứ của nguyên đơn cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa
án thu thập được.
Chị Huỳnh Kim T là chủ hụi nhưng không giao lại hụi cho bà Nguyễn Thị
K (đối với dây hụi thứ 1 đã mãn và các phần hụi đã góp) là vi phạm nghĩa vụ
chủ hụi.
Khoản 3 Điều 18 Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của
Chính phủ quy định về hụi, họ, biêu, phường quy định về “Nghĩa vụ của chủ họ”
“3. Giao các phần họ cho thành viên lĩnh họ tại mỗi kỳ mở họ.”
Quá trình giải quyết vụ án, chị Huỳnh Kim T đã được Tòa án đã triệu tập
hợp lệ đến Tòa án để trình bày ý kiến cũng như tham gia các phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như phiên tòa xét
xử vụ án nhưng chị Huỳnh Kim T vẫn vắng mặt không lý do, không có ý kiến,
thể hiện việc chị T đã tự từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Từ những phân tích trên, xét thấy yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K
buộc chị Huỳnh Kim T có nghĩa vụ trả số tiền nợ hụi 85.720.000 đồng (T1 mươi
6
lăm triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng) là có căn cứ và phù hợp với quy định
tại các Điều 288, 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 18 Nghị định số:
19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về hụi, họ, biêu,
phường nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Thấy rằng, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, Tòa án đã triệu tập hợp lệ
chị T nhiều lần để làm việc, lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa xét xử vụ án
nhưng chị T vắng mặt không lý do. Cho thấy, chị Huỳnh Kim T có thái độ
không hợp tác trong việc giải quyết vụ án, vi phạm quy định về quyền, nghĩa vụ
bị đơn theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
Xét thấy, chị Huỳnh Kim T có ý kiến phản đối đối với các yêu cầu, tài liệu,
chứng cứ của bà Nguyễn Thị K thì phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án
các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó nhưng chị Huỳnh Kim
T không đưa ra các tài liệu, chứng cứ nào do đó Hội đồng xét xử giải quyết vụ
việc theo những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc là
đúng quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự.
[7] Về yêu cầu liên đới trả nợ: Bà Nguyễn Thị K khởi kiện yêu cầu anh
Trần Sơn H có nghĩa vụ liên đới cùng chị Huỳnh Kim T trả nợ hụi.
Thấy rằng, tại Biên bản lấy lời khai ngày 27/9/2024, anh Trần Sơn H đồng
ý cùng chị Huỳnh Kim T trả nợ hụi. Vì vậy, yêu cầu chị Huỳnh Kim T có nghĩa
vụ liên đới trả nợ của bà Nguyễn Thị K là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp
nhận.
[8] Về yêu cầu tính lãi suất: Bà Nguyễn Thị K không yêu cầu tính lãi số
tiền trên nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[9] Lời đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với quy định pháp luật và
nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[10] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Do rút một phần yêu cầu khởi kiện và được chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện và là người cao tuổi, có yêu cầu miễn giảm án phí nên bà Nguyễn Thị
K không phải chịu án phí. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp
nhận nên chị Huỳnh Kim T, anh Trần Sơn H phải liên đới chịu án phí theo quy
định.
Cụ thể:
7
85.720.000 đồng x 5% = 4.286.000 đồng (Bốn triệu hai trăm tám mươi sáu
nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 288, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147,
khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 244, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân
sự;
Căn cứ Điều 5, 6 Nghị quyết số: 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
Căn cứ Điều 18 Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của
Chính phủ quy định về hụi, họ, biêu, phường.
Căn cứ Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K đối với chị
Huỳnh Kim T về việc tranh chấp “hụi” đối với số tiền hụi 7.280.000 đồng (Bảy
triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K đối với
chị Huỳnh Kim T, anh Trần Sơn H về việc tranh chấp “hụi”.
Buộc chị Huỳnh Kim T, anh Trần Sơn H có nghĩa vụ liên đới trả cho bà
Nguyễn Thị K số tiền 85.720.000 đồng (T1 mươi lăm triệu bảy trăm hai mươi
nghìn đồng).
Ghi nhận sự tự nguyện bà Nguyễn Thị K không yêu cầu tính lãi số tiền
trên.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan
thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả
cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
8
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Buộc chị Huỳnh Kim T, anh Trần Sơn H phải có nghĩa vụ liên đới chịu số
tiền án phí là 4.286.000 đồng (Bốn triệu hai trăm tám mươi sáu nghìn đồng).
Bà Nguyễn Thị K được miễn án phí theo quy định.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị K có quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Chị Huỳnh Kim T, anh
Trần Sơn H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
(mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo
quy định pháp luật.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bến Tre;
- VKSND huyện Bình Đại;
- Chi cục THADS huyện Bình Đại;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Phạm Long Hồ
Tải về
Bản án số 183/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 183/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 470/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 04/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 04/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm