Bản án số 17/2024/DS-ST ngày 14/08/2024 của TAND huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 17/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 17/2024/DS-ST ngày 14/08/2024 của TAND huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Cù Lao Dung (TAND tỉnh Sóc Trăng)
Số hiệu: 17/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị V tranh chấp HĐMB tài sản với ông Đ, bà P
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CÙ LAO DUNG
TỈNH SÓC TRĂNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 17/2024/DS-ST
Ngày: 14-8-2024
V/v tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Phước Tuấn.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Văn Giáp.
Bà Lê Thị Thanh Nhã.
- Thư ký phiên tòa: Bà Hà Thị Thu TrânThư Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng
tham gia phiên tòa: Ông Đỗ Minh Hiền - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung,
tỉnh Sóc Trăng xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 40/2024/TLST-DS ngày
21 tháng 6 năm 2024, về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 21/2024/QĐXXST-DS, ngày 25 tháng 7 năm 2024 giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Thạch Thị Sa V Chủ hộ kinh doanh T.
Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1967;
2. Bà Trần Thị P, sinh năm 1975.
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Hoài P1, sinh năm
1987.
Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
Tất cả đều có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Tại đơn khởi kiện lập ngày 12 tháng 4 năm 2024 các lời khai trong quá
trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa thẩm nguyên đơn chị Thạch Thị
Sa V Chủ hộ kinh doanh T trình bày:
Từ năm 2015, chị Thạch Thị Sa V Chủ hộ kinh doanh T (sau đây gọi tắt là
chị V) hợp đồng bằng lời nói để bán thức ăn nuôi tôm, vôi, thuốc và hoá chất
cho ông Nguyễn Văn Đ và vợ là bà Trần Thị P. Đến ngày 02/02/2020, hai bên mới
lập hợp đồng bằng văn bản, theo hợp đồng chị V giao thức ăn nuôi tôm, vôi,
thuốc hoá chất cho vchồng ông Nguyễn Văn Đ để nuôi tôm theo đúng thỏa
thuận.
Trong quá trình nuôi tôm thì vchồng ông Nguyễn Văn Đ không trả tiền
đầy đủ, rồi nợ lại. Sau đó, vợ chồng ông Đ hứa hẹn vụ sau sẽ trả đủ và xin chị V
tiếp tục đầu nhiều vnuôi tiếp theo, chị V cũng đầu tiếp nhiều vụ nữa.
Nhưng vợ chồng ông Đ vẫn không thực hiện đúng hợp đồng. Đến ngày
12/01/2022 vợ chồng ông Đ còn nợ lại chị V số tiền là 361.209.000 đồng ông
Nguyễn Văn Đ đại diện ký xác nhận nợ.
Sau khi xác nhận nợ và thỏa thuận mua bán, chị V tiếp tục bán thức ăn nuôi
tôm, vôi, thuốc hoá chất cho vợ chồng ông Đ tiếp thêm nhiều vụ nữa. Do vợ chồng
ông Đ nuôi tôm không hiệu quả dẫn đến nợ chị V thêm số tiền là 56.730.000 đồng.
Cho đến ngày 20/11/2022, vchồng ông Đ đã xác nhận còn nchị V tổng số
tiền là 417.939.000 đồng.
Do ông Nguyễn Văn Đ Trần Thị P nhiều lần vi phạm hợp đồng và
việc thỏa thuận trả nợ. Đồng thời k t ngày 20/11/2022, vợ chồng ông Đ đã
chuyển qua mua thức ăn nuôi m, vôi, thuốc hoá chất của cửa hàng khác và
không thỏa thuận được phương án trả nợ cho chị V.
Nay chị V yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Nguyễn Văn Đ Trần
Thị P trách nhiệm trả cho chị V Chủ hộ kinh doanh T số tiền nợ vốn gốc
417.939.000 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 21/11/2022 cho đến khi trả dứt nợ
với lãi suất là 1%/1 tháng theo thỏa thuận.
Tại biên bản hòa giải ngày 18 tháng 7 năm 2024 và các lời khai tại phiên tòa
sơ thẩm bị đơn ông Nguyễn Văn Đ trình bày:
Từ năm 2015 đến năm 2022, vợ chồng ông Đ, P có mua và trả tiền nhiều
lần đối với thức ăn nuôi tôm, vôi, thuốc hchất để nuôi thủy sản của Đại
thức ăn thủy sản T do chThạch Thị Sa V làm chủ. Tính đến ngày 20/11/2022, chị
V chốt nợ với vợ chồng ông Đ, thì vợ chồng ông Đ còn nợ lại chị V tổng cộng
417.939.000 đồng. Nay ông Đ đồng ý trả nợ tiền mua thức ăn nuôi tôm, vôi, thuốc
hoá chất để nuôi thủy sản cho chị V số tiền 417.939.000 đồng, ông Đ không
đồng ý trả lãi suất vì theo hợp đồng không có thỏa thuận trả lãi suất.
Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Trần Thị P trình bày:
P thống nhất với lời trình bày của ông Đ. Tính đến ngày 20/11/2022,
P với ông Đ còn nợ Đại thức ăn thủy sản Tư Tâm do chị Thạch Thị Sa V làm
chủ với số tiền tổng cộng 417.939.000 đồng. P đồng ý cùng với ông Đ trả cho
3
chị V số tiền còn nợ 417.939.000 đồng, P không đồng ý trả lãi suất vì theo hợp
đồng không có thỏa thuận trả lãi suất và khi bán đã có lãi rồi.
Tại phiên tòa sơ thẩm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Hoài
P1 trình bày:
Anh P1 chồng của chị Thạch Thị Sa V, chị V chủ hộ kinh doanh
Tâm, Trong nội dung hợp đồng mua bán lập ngày 02/02/2020, ghi bên bán
anh P1 vợ anh P1 đại diện đại thức ăn thủy sản T hợp đồng với ông
Nguyễn Văn Đ Trần Thị P. Tiền kinh doanh là tài sản chung của vợ chồng
nên khi lập hợp đồng có ghi tên anh P1 nhưng điều hành và đại diện cho việc kinh
doanh do chị V người điều hành làm chủ. Anh P1 thống nhất với yêu cầu
khởi kiện của chị V, không có ý kiến gì thêm.
* Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án
của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư Tòa án việc chấp hành pháp luật của
những người tham gia tố tụng các đương sự, kể tkhi thụ vụ án cho đến
trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung giải quyết vụ án: Xét thấy, yêu cầu của nguyên đơn chị Thạch
Thị Sa V Chủ hộ kinh doanh T có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc các bị đơn phải nghĩa vụ trả
nợ cho nguyên đơn số tiền còn nợ mua thức ăn nuôi tôm, vôi, thuốc và hoá chất để
nuôi thủy sản 417.939.000 đồng tiền lãi phát sinh từ ngày 21/11/2022, cho
đến khi trả dứt nợ với lãi suất là 1%/1 tháng.
Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên các bị đơn phải chịu toàn bộ
án phí dân sự thẩm có giá ngạch, nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm, hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử nghị án và tuyên án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về thủ tục thụ việc khởi kiện của nguyên đơn
thẩm quyền giải quyết: Khi chị Thạch Thị Sa V Chủ hộ kinh doanh T nộp đơn
khởi kiện, thì người bị kiện ông Nguyễn Văn Đ Trần Thị P, cùng trú tại
ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Chị V có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc
ông Đ, P phải trả số tiền mua thức ăn nuôi tôm, vôi, thuốc, hóa chất còn nợ
tiền lãi suất. Chị V đã nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung,
tỉnh Sóc Trăng và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Tòa án nhân dân huyện Cù Lao
Dung đã thụ lý đơn khởi kiện và thông báo cho chị V nộp tiền tạm ứng án phí theo
quy định của pháp luật chị V đã thực hiện việc nộp tiền tạm ứng án pđúng
quy định. Như vậy, Tòa án nhân dân huyện Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng thụ
đơn khởi kiện của chị V là đúng thẩm quyền đúng theo trình tự thủ tục tố tụng
4
theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; Điều 191 và Điều 195 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[3] Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu các bị đơn trả
cho nguyên đơn số tiền đã mua thức ăn nuôi tôm, vôi, thuốc hoá chất để nuôi
thủy sản là 417.939.000 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 21/11/2022, cho đến khi
trả dứt nợ với lãi suất là 1%/1 tháng.
[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình
giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa thẩm, bị đơn ông Nguyễn Văn Đ
Trần Thị P đều thừa nhận có ký hợp đồng mua bán với chị Thạch Thị Sa V Chủ
hộ kinh doanh Tâm vào ngày 02/02/2020, các biên bản xác nhận nợ lập
ngày 12/01/2022, ngày 03/4/2024 xác nhận công nợ lập ngày 20/11/2022, thì
ông Đ P còn nợ chị Thạch Thị Sa V Chủ hộ kinh doanh T (sau đây gọi tắt
chị V) số tiền 417.939.000 đồng. Theo khoản 2 Điều 92 Bluật Tố tụng dân sự
quy định “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự
kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa
ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”, căn cứ vào quy định này, Hội
đồng xét xử công nhận ông Nguyễn Văn Đ và Trần Thị P còn nợ chị V số tiền
mua thức ăn nuôi tôm, vôi, thuốc hoá chất để nuôi thủy sản 417.939.000
đồng là sự thật. Tuy nhiên, tại phiên tòa, ông Đ, bà P đồng ý trả số tiền nợ vốn gốc
cho nguyên đơn, không đồng ý trả tiền lãi cho nguyên đơn trong hợp đồng
không có thỏa thuận trả lãi.
[5] Căn cứ vào Điều 430 Bộ luật Dân sự quy định “Hợp đồng mua bán tài
sản sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản
cho bên mua bên mua trả tiền cho bên bán” Điều 440 Bộ luật Dân sự quy
định về nghĩa vtrả tiền, thì tại khoản 1 quy định: “Bên mua nghĩa vụ thanh
toán tiền theo thời hạn, địa điểm mức tiền được quy định trong hợp đồng”.
Thỏa thuận theo hợp đồng, thì “Bên mua nghĩa vụ thanh toán bằng tiền mặt
100% trước hoặc ngay sau khi thu hoạch tôm”. Tuy nhiên, sau khi thu hoạch tôm
xong bên mua ông Đ, P không thanh toán dứt điểm toàn bộ công nợ cho n
bán chị V. Do đó, chị V yêu cầu các bị đơn ông Đ và P phải trả số tiền mua
thức ăn nuôi tôm, vôi, thuốc hoá chất còn nợ 417.939.000 đồng căn cứ,
đúng quy định của pháp luật.
[6] Xét về yêu cầu của nguyên đơn về tính lãi suất từ ngày 21/11/2022, cho
đến khi trả dứt số tiền nợ với lãi suất là 1%/1 tháng trên số tiền nợ gốc
417.939.000 đồng. Tuy nhiên tại phiên tòa sơ thẩm các bị đơn không đồng ý trả số
tiền lãi theo yêu cầu của nguyên đơn cho rằng khi bán nguyên đơn đã lãi
hợp đồng mua bán không có thỏa thuận lãi suất, Hội đồng xét x xét thấy, tại Hợp
đồng mua bán lập ngày 02/02/2020 giữa nguyên đơn với bị đơn, thì tại Điều 4
quy định: “Trường hợp bên B (bên mua) không thanh toán đủ sẽ không được chiết
khấu, đồng thời phần nợ còn lại sẽ tính lãi suất 1%/tháng cho đến khi bên B thanh
toán hết”; tại các biên bản xác nhận nợ lập ngày 12/01/2022, ngày 03/4/2024 giữa
nguyên đơn bị đơn đều thỏa thuận trả lãi suất cho nguyên đơn 1%/tháng/ số
5
tiền kể từ ngày nhận ntại văn bản xác nhận công nợ ngày 20/11/2022, bị đơn
xác nhận còn nợ nguyên đơn số tiền vốn gốc tổng cộng 417.939.000 đồng. Căn
cứ vào Điều 440 Bộ luật Dân sự quy định về nghĩa vụ trả tiền, thì tại khoản 3 quy
định: “Trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi
trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này”, theo khoản 2
Điều 357 Bộ luật Dân sự quy định về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả
tiền như sau: “Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận
của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1
Điều 468 của Bộ luật này…”. Theo khoản 1 Điều 468 quy định “Lãi suất vay do
các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo
thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật
khác có quy định khác…”. Căn cứ vào các quy định nêu trên, nguyên đơn yêu cầu
bị đơn nghĩa vụ trả số tiền lãi suất 1%/1 tháng trên số tiền nợ gốc 417.939.000
đồng tính từ ngày 21/11/2022 cho đến khi trả dứt nợ là sở và đúng quy định
của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Số tiền lãi tính từ ngày
21/11/2022 đến ngày 14/8/2024 20 tháng 25 ngày x 417.939.000 đồng x
1%/tháng = 87.070.625 đồng.
[7] Từ những nhận định tại các đoạn [4], [5], [6], Hội đồng xét xử chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc các bị đơn phải nghĩa vụ
trả cho nguyên đơn tiền mua thức ăn nuôi tôm, vôi, thuốc hóa chất còn nợ với
số tiền 417.939.000 đồng số tiền lãi 87.070.625 đồng. Tổng cộng số tiền nợ
gốc và lãi là 505.009.625 đồng
[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ,
đúng quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về án phí dân sự thẩm: Do chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án nên các bị đơn ông Nguyễn Văn Đ bà Trần Thị P phải chịu toàn bộ án
phí dân sự thẩm giá ngạch 24.200.385 đồng án phí dân sự thẩm (ông
Nguyễn Văn Đ nộp 12.100.193 đồng, bà Trần Thị P nộp 12.100.192 đồng).
[10] Nguyên đơn V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, nguyên đơn
được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí, lệ phí đã nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
- Khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 357; Điều 430; khoản 1, 3 Điều 440 Bộ luật Dân sự;
- Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng
12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
6
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Thạch Thị Sa V
Chủ Hộ kinh doanh T đối với các bị đơn ông Nguyễn Văn Đ và bà Trần Thị P.
2. Xử buộc các bị đơn ông Nguyễn Văn Đ Trần Thị P phải nghĩa
vụ trả cho nguyên đơn chị Thạch Thị Sa V Chủ Hộ kinh doanh T tiền mua thức
ăn thủy sản, vôi, thuốc hóa chất còn nợ vốn gốc với số tiền 417.939.000 đồng
và số tiền lãi là 87.070.625 đồng. Tổng cộng nợ vốn gốc và tiền lãi là 505.009.625
đồng (năm trăm linh năm triệu không trăm linh chín nghìn sáu trăm hai mươi lăm
đồng). Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xthẩm (từ ngày 15/8/2024), ông Đ
P còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi theo thỏa thuận 1%/tháng của số tiền
nợ vốn gốc chưa thanh toán cho đến khi thanh toán xong số tiền nợ vốn gốc trên.
3. Về án phí:
3.1. Các bị đơn ông Nguyễn Văn Đ Trần Thị P phải chịu stiền án
phí dân sự thẩm giá ngạch 24.200.385 đồng (ông Nguyễn Văn Đ nộp
12.100.193 đồng, bà Trần Thị P nộp 12.100.192 đồng).
3.2. Nguyên đơn chị Thạch Thị Sa V Chủ Hộ kinh doanh T không phải
chịu án phí dân sự thẩm nên được hoàn trả số tiền tạm tạm ứng án phí thẩm
10.425.000 đồng theo biên lai thu tiền số: 0004437 ngày 19 tháng 6 năm 2024 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.
4.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ
ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự
phúc thẩm.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Đặng Phước Tuấn
Tải về
Bản án số 17/2024/DS-ST Bản án số 17/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 17/2024/DS-ST Bản án số 17/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất