Bản án số 15/2018/DS-ST ngày 15/01/2018 của TAND Q. Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 15/2018/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 15/2018/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 15/2018/DS-ST ngày 15/01/2018 của TAND Q. Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng tín dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tín dụng |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND Q. Gò Vấp (TAND TP. Hồ Chí Minh) |
Số hiệu: | 15/2018/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/01/2018 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp hợp đồng tín dụng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số:15/2018/DS-ST
Ngày: 15-01-2018
V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Tưởng Công Sơn
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Nguyễn Kim Thủy
Ông Lê Bá Hợp
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Trang – Thư ký Tòa án nhân
dân quận G.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân quận Gò Vấp tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Bá Nghĩa – Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 434/2017/DSST ngày 21 tháng 7 năm
2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số: 29/2017/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 12 năm 2017; Quyết định hoãn
phiên tòa số: 35/2017/QĐST-DS ngày 22 tháng 12 năm 2017, giữa các đương
sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần AC; Trụ sở: Số 442 đường K,
Phường 5, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; Chi nhánh: Lầu 8, Tòa nhà ACB
Tower, số 444A – 446 đường C, Phường H, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn:
Ông Đỗ Minh Toàn – Tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần AC.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
Bà Nguyễn Phan Bảo Ngân, sinh năm 1982; Địa chỉ: Lầu 8, Tòa nhà ACB
Tower, số 444A – 446 đường C, Phường H, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
(Có mặt).
(Theo giấy ủy quyền số: 154/UQ-QLN.17 ngày 26/6/2017)
Bị đơn: Ông P, sinh năm 1951; Địa chỉ: Số 48 đường L, Phường A, quận G,
Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Tại đơn khởi kiện ngày 26 tháng 6 năm 2017, bản tự khai và các lần làm
việc tại Tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Phan Bảo Ng
trình bày:
Ngày 28/12/2007, ông P có ký hợp đồng tín dụng trả góp số
TAT.CN.02281207/UIL với Ngân hàng thương mại cổ phần AC (Gọi tắt là ngân
hàng), cụ thể như sau:
- Số tiền vay: 45.000.000(Bốn mươi lăm triệu đồng).
- Thời hạn vay: 36 tháng kể từ ngày Bên được cấp tín dụng nhận tiền vay.
- P thức vay: Trả vốn và lãi hàng tháng.
- Mục đích: Tiêu dùng.
- Lãi suất vay được quy định như sau:
+ Lãi suất trong hạn: 0.88%/tháng.
+ Lãi suất quá hạn: 150% lãi suất trong hạn.
Trong quá trình vay vốn, ông P có trả cho Ngân hàng được 14 kỳ gồm cả
vốn và lãi là 23.044.000 đồng. Kể từ ngày 28/02/2009, ông P vi phạm nghĩa vụ
trả nợ. Do đó, ngày 03/08/2009 Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số nợ vay còn
thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 11/10/2017, ông P còn nợ Ngân hàng các
khoản sau:
- Vốn gốc: 27.500.000 đồng.
- Lãi trong hạn: 2.046.000 đồng.
- Lãi quá hạn: 34.775.000 đồng.
- Tổng cộng: 64.321.400 đồng.
Vì vậy, Ngân hàng thương mại cổ phần AC khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc
ông P thanh lý hợp đồng trả khoản tiền bao gồm: trả tổng dư nợ còn thiếu (gồm
vốn gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn) tính đến ngày 16/06/2017 là: 64.321.400
đồng và ông P phải tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất quá hạn do
các bên thỏa thuận trong các Hợp đồng tín dụng kể từ ngày 17/06/2017 cho đến
khi ông P trả dứt nợ. Ông P phải trả nợ theo thứ tự sau: vốn gốc, lãi quá hạn, lãi
trong hạn.
Tại phiên tòa hôm nay Ngân hàng thương mại cổ phần AC yêu cầu Tòa án
buộc ông P thanh lý hợp đồng trả khoản tiền bao gồm: trả tổng dư nợ còn thiếu
(gồm vốn gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn): vốn gốc 27.500.000 đồng, lãi trong
hạn: 2.046.000 đồng, lãi quá hạn 37.352.700 đồng tính đến ngày 15/01/2018,
tổng cộng là 66.898.700 đồng (Sáu mươi sáu triệu tám trăm chín mươi tám ngàn
bảy trăm đồng) trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật và ông P phải
tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất quá hạn do các bên thỏa thuận
trong Hợp đồng tín dụng kể từ ngày 16/01/2018 cho đến ngày ông P trả dứt nợ,
thứ tự thanh toán như sau: vốn gốc, lãi quá hạn, lãi trong hạn.
Tòa án đã tống đạt hợp lệ và triệu tập ông Ph đến Tòa án để lấy lời khai
nhưng ông Ph không đến Tòa án. Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú của ông
P tại địa chỉ 48 đường L, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, ông P đã
bán nhà đi khỏi địa P từ trước năm 2013, chuyển về tạm trú tại 468 đường Tân
Chánh H, phường Tân Chánh H, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Tòa án tiếp
tục tiến hành xác minh nơi tạm trú của ông P tại địa chỉ 468 đường Tân Chánh
H, phường Tân Chánh H, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, theo trả
3
lời xác minh của Công an phường Tân Chánh H ngày 10/10/2017 thì “ Tòa án
nhân dân quận G cung cấp tổ dân phố, khu phố để Công an phường rà soát xác
minh. Ngày 11/10/2017, Tòa án nhân dân quận G yêu cầu Công an Phường 1,
quận G cung cấp tổ dân phố, khu phố địa chỉ tạm trú của ông P tại 468 đường
TC, phường TC, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên ông P trình báo
khi chuyển đi chuyển về tạm trú tại : 468 đường TC, phường TC, Quận 12,
Thành phố Hồ Chí Minh, ngoài ra Công an Phường 1, quận G không có thông
tin cụ thể tổ dân phố, khu phố nào. Ngày 13/10/2017, Tòa án nhân dân quận G
yêu cầu Công an Phường TC, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh xác minh địa
chỉ tạm trú của ông P tại 468 đường TC, phường TC, Quận 12, Thành phố Hồ
Chí Minh. Theo trả lời xác minh số 376/BC-CAP ngày 24/10/2017 của Công an
phường TC cho biết: “ Phường TC được thành lập năm 1997, khi đó chỉ có một
số đường có tên nhân vật lịch sử như: Tô Ký, Nguyễn Ảnh Thủ, Dương Thị
Mười, Lâm Thị Hố, Nguyễn Thị Búp, Huỳnh Thị Hai. Còn lại là đặt tên đường
theo ký hiệu: TCH01, TCH02,… TCH36, không có tên đường TC hoặc TCH mà
không có số đi kèm. Theo thông tin dữ liệu quản lý tại Công an phường thì chỉ
có địa chỉ số 468 đường Tô Ký, tổ 33, KP2 (hiện nay là tổ 9 KP5), phường TC,
Quận 12, trong hộ này không có ai tên P, sinh năm 1951 thường trú hay tạm trú,
trên địa bàn phường không có địa chỉ 468 TC, phường TC, Quận 12.”. Ngày
25/10/2017, Tòa án yêu cầu Nguyên đơn cung cấp địa chỉ nơi ở mới hiện nay
của ông P, tuy nhiên đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn cho biết tại thời
điểm vay vốn của Ngân hàng ông P có sinh sống tại 487/6 đường L, Phường 1,
quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, Nay Ngân hàng không liên lạc được với ông P
và ông P chuyển đi địa chỉ mới không thông báo cho Ngân hàng. Vì vậy ngoài
địa chỉ trên Ngân hàng không biết địa chỉ khác của ông P đống thời đại diện
Ngân hàng cũng yêu cầu Tòa án niêm yết tại nơi cư trú cuối cùng của ông P tại
địa chỉ 487/6 đường L, Phường 1, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử. Do
đó,Tòa án tống đạt, niêm yết cho ông P tại địa chỉ số 487/6 đường L, Phường 1, quận
G, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử .
Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng
cứ và hòa giải nhưng ông P không đến vì vậy Tòa án không tiến hành hòa giải
được. Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng của tòa án cho ông P hợp lệ theo
quy định pháp luật nên Tòa án đưa vụ kiện ra xét xử theo pháp luật quy định
Tòa án đã tiến hành mở phiên tòa lần thứ nhất vào ngày 22 tháng 12 năm
2017 nhưng ông P không đến, vì vậy Tòa án đã hoãn phiên tòa và tống đạt các
văn bản tố tụng của Tòa án cho ông P hợp lệ theo quy định pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận G phát biểu ý kiến:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử:
-Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải
quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi xét xử thấy rằng Thẩm phán đã thực hiện
đúng và đầy đủ nội dung quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Trong quá trình giải quyết vụ án về thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật
tranh chấp, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa nhưng người tham gia
tố tụng, đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ
4
và hòa giải. Thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp, tống đạt các
văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng .
- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử : Tại phiên tòa hôm nay Hội
đồng xét xử đã thực hiện đúng các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về
phiên tòa sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn buộc ông P phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần AC số nợ còn thiếu
(gồm vốn gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn) tính đến ngày 15/01/2018 là:
66.898.700 đồng (Sáu mươi sáu triệu tám trăm chín mươi tám ngàn bảy trăm
đồng), trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật và ông P phải tiếp tục
chịu tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất quá hạn do các bên thỏa thuận trong các
Hợp đồng tín dụng kể từ ngày 16/01/2018 cho đến khi ông P trả dứt nợ theo thứ
tự sau: vốn gốc, phạt chậm trả, lãi quá hạn, lãi trong hạn.
Bị đơn phải chịu án phí theo quy định. Hoàn lại tiền nộp án phí cho nguyên
đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN :
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết :
Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần AC khởi kiện bị đơn ông P về
yêu cầu trả nợ còn thiếu từ hợp đồng tín dụng số TAT.CN.02281207/UIL ngày
28/12/2007 được ký kết giữa hai bên. Bị đơn ông P có nơi cư trú cuối cùng tại
số 487/6 L, Phường 1, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, đây là vụ án “Tranh chấp
hợp đồng tín dụng” thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận G,
Thành phố Hồ Chí Minh được quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1
Điều 35, điểm b khoản 2 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần
thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét
xử vắng mặt ông P theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 và khoản 3 điều
228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2]. Về nội dung tranh chấp:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Căn cứ
vào đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng số TAT.CN.02281207/UIL ngày
28/12/2007 đã ký giữa Ngân hàng thương mại cổ phần AC với ông P cũng như
trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay cho thấy
việc giao kết hợp đồng tín dụng giữa các bên là có thật. Nội dung các bên thỏa
thuận trong hợp đồng phù hợp với các quy định của pháp luật tại các Điều 91 và
95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
Ngay sau khi ký hợp đồng ông P đã nhận đủ tiền vay 45.000.000 đồng.
Về tiền vốn gốc: Theo thỏa thuận trong hợp đồng đã ký ông P phải thanh
toán cho Ngân hàng 36 tháng. Tuy nhiên, trong quá trình vay vốn, ông P đã
thanh toán cho Ngân hàng AC được 14 lần được 17.500.000 đồng tiền vốn gốc
còn lại 27.500.000 đồng ông P chưa thanh toán. Ông P đã vi phạm nghĩa vụ về
5
thời gian thanh toán nợ gốc theo như hợp đồng đã ký kết vì vậy yêu cầu của
Ngân hàng thương mại cổ phần AC buộc ông P phải trả số tiền nợ gốc là
27.500.000 đồng là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về tiền lãi suất:
Căn cứ khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày
17/6/2010 quy định “… Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về
lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo
quy định của pháp luật”.
Căn cứ tại Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 hướng dẫn Tổ
chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất
thỏa thuận.
Căn cứ vào phần 4 của hợp đồng tín dụng trả góp mà hai bên ký thì lãi suất
trong hạn là 0.88%/tháng; lãi suất quá hạn là 150%/tháng. Thực hiện hợp đồng
vay, ông P đã thanh toán được 14 lần với số tiền lãi là 5.544.000 đồng vì vậy
Nguyên đơn tiếp tục yêu cầu bị đơn phải trả cho số tiền lãi trong hạn là
2.046.000 đồng và lãi quá hạn còn thiếu là 37.352.700 đồng tính đến ngày
15/01/2018. Tổng cộng là 39. 398.000 đồng và ông P phải tiếp tục thanh toán
khoản lãi phát sinh trên số nợ gốc kể từ ngày 16/01/2018 cho đến khi thanh toán
xong theo mức lãi suất thoả thuận được quy định trong hợp đồng tín dụng trả
góp số TAT.CN.02281207/UIL được ký kết ngày 28/12/2007. Hội đồng xét xử
nhận thấy việc thỏa thuận lãi suất giữa các bên phù hợp với quy định của pháp
luật có cơ sở nên chấp nhận.
Xét việc nguyên đơn yêu cầu trả số tiền trên làm một lần ngay sau khi bản
án có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử nhận thấy số tiền trên bị đơn nợ
nguyên đơn đã lâu đến nay chưa trả là gây thiệt hại rất nhiều cho nguyên đơn.
Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải thanh
toán số tiền trên một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về nghĩa vụ nộp án phí và
Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án yêu cầu của nguyên đơn được chấp
nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí. Hoàn trả 1.608.035 (Một triệu sáu
trăm lẻ tám ngàn không trăm ba mươi lăm) đồng tiền tạm nộp án phí cho nguyên
đơn. Bị đơn phải chịu án phí tương đương với phần yêu cầu của nguyên đơn đối
với bị đơn được Tòa án chấp nhận là 66.898.700 đồng (Sáu mươi sáu triệu tám
trăm chín mươi tám ngàn bảy trăm đồng). Do đó bị đơn phải chịu án phí là
3.344.935 (Ba triệu ba trăm bốn mươi bốn ngàn chín trăm ba mươi lăm đồng).
Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có cơ sở
nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ vào Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a
khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 220, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228,
Điều 235, Điều 271, Điều 273, Điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
6
- Căn cứ vào Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12
ngày 17/6/2010;
- Căn cứ Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010;
- Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự năm 2008;
- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc ông P có trách nhiệm trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần AC số
tiền nợ còn thiếu gồm: Vốn gốc: 27.500.000 đồng, lãi trong hạn: 2.046.000
đồng, lãi quá hạn: 37.352.700 đồng, tính đến ngày 15/01/2018. Tổng cộng là:
66.898.700 đồng (Sáu mươi sáu triệu tám trăm chín mươi tám ngàn bảy trăm
đồng)
Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ông P còn phải chịu thêm tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc kể từ ngày 16
tháng 01 năm 2018, thứ tự như sau: vốn gốc, lãi quá hạn, lãi trong hạn cho đến
khi thanh toán xong theo mức lãi suất thỏa thuận được quy định trong hợp đồng
tín dụng trả góp số TAT.CN.02281207/UIL được ký kết ngày 28/12/2007.
Việc giao nhận tiền được thực hiện tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm
quyền.
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.344.935 (Ba triệu ba trăm bốn
mươi bốn ngàn chín trăm ba mươi lăm đồng).
Hoàn lại số tiền 1.608.035 (Một triệu sáu trăm lẻ tám ngàn không trăm ba
mươi lăm) đồng tiền tạm nộp án phí cho Ngân hàng thương mại cổ phần AC
theo biên lai thu số AA/2017/0027111 ngày 21/7/2017 của Chi cục Thi hành án
dân sự quận G.
3.Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7 và 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết tại địa P.
7
Nơi nhận :
- VKSND quận G;
- Chi cục Thi hành án quận G;
- Các đương sự (để thi hành);
- Lưu hồ sơ vụ án
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Tưởng Công Sơn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm