Bản án số 07/2024/LĐ-ST ngày 16/07/2024 của TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 07/2024/LĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 07/2024/LĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 07/2024/LĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 07/2024/LĐ-ST ngày 16/07/2024 của TAND TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Biên Hòa (TAND tỉnh Đồng Nai) |
Số hiệu: | 07/2024/LĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/07/2024 |
Lĩnh vực: | Lao động |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các nội dung sau |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA
TỈNH ĐỒNG NAI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 07/2024/LĐ-ST
Ngày: 16 - 7 - 2024
V/v: “Tranh chấp đơn
phương chấm dứt hợp đồng
lao động”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Vũ Bảo.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Phan Đăng Khoa;
2. Bà Thiều Thị Phi Loan.
- Thư ký phiên tòa: Ông Tôn Hoài Anh Tuyển - Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
tham gia phiên tòa: Bà Phan Thị Mai - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 117/2022/TLST-
LĐ ngày 18 tháng 10 năm 2022 về việc: “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2024/QĐXXST-LĐ
ngày 15 tháng 4 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số: 23/2024/QĐST-LĐ
ngày 10 tháng 5 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số: 31/2024/QĐST-LĐ
ngày 31 tháng 5 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số: 42/2024/QĐST-LĐ
ngày 21 tháng 6 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Giảng Thiên T, sinh năm: 1995.
Địa chỉ thường trú: A, khu phố H, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo uỷ quyền: Chị Phạm Thị Yến N, sinh năm 1998.
Địa chỉ: 5, khu phố D, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Công ty TNHH Đ.
Địa chỉ trụ sở: 6 N, phường T, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh;
2
Người đại diện theo pháp luật: Ông Long Nguyễn Quốc K - Chức vụ:
Giám đốc.
Địa chỉ: B N, phường B, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo uỷ quyền: Anh Nguyễn Minh T1, sinh năm 1986.
Địa chỉ hiện tại: 6 N, phường T, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bảo hiểm xã hội thành phố H.
Địa chỉ: A N, phường A, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Văn M – Chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hoàng Thị Khánh L – Chức vụ: Nhân
viên.
(Các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án,
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Chị Giảng Thiên T bắt đầu làm việc cho Công ty TNHH Đ (gọi tắt là
Công ty Đ) từ ngày 01 tháng 5 năm 2021, chức vụ là nhân viên chăm sóc khách
hàng. Khi vào làm việc tại Công ty, giữa chị T và Công ty không ký kết hợp
đồng lao động mà chỉ thỏa thuận miệng về công việc, thời gian làm việc và mức
lương hàng tháng.
Theo đó, mức lương hàng tháng của chị T khi làm việc tại Công ty Đ là
7.000.000 đồng, mức lương thực lãnh hàng tháng là 7.000.000 đồng đến
7.500.000 đồng. Tuy nhiên, trong quá trình làm việc thì số tiền mà Công ty Đ
đóng bảo hiểm cho chị T theo mức lương là 5.000.000 đồng/tháng.
Hàng tháng, Công ty Đ thanh toán tiền lương cho chị T thông qua chuyển
khoản Ngân hàng hoặc tiền mặt (kèm theo phiếu thông tin tiền lương). Tiền
lương Công ty Đ chuyển cho chị T qua số tài khoản 1012589906, tên chủ tài
khoản: Giảng Thiên T, mở tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần N1 - Chi nhánh
Đ1 - P, cụ thể như sau:
+ Ngày 09 tháng 8 năm 2021: Chuyển 6.490.909 đồng, nội dung chuyển
khoản là: “Cty Mining thanh toan luong T7.2021”.
+ Ngày 12 tháng 10 năm 2021: Chuyển 2.625.000 đồng, nội dung chuyển
khoản là “MN thanh toan luong T9.2021”.
Đến tháng 10 năm 2021, chị T bị Công ty Đ chấm dứt hợp đồng lao động.
Công ty Đ có gửi cho chị T Quyết định số: 01/QĐTV-2021 đề ngày 04 tháng 10
năm 2021 về việc cho thôi việc từ Công ty Đ với nội dung căn cứ là: “Đơn xin
nghỉ việc của chị Giảng Thiên T”. Trong quá trình làm việc tại Công ty Đ, chị T
3
chưa từng làm đơn xin nghỉ việc gửi lên Ban Lãnh đạo Công ty. Việc Công ty ra
quyết định cho chị T nghỉ việc với nội dung như trên là hoàn toàn không đúng
sự thật.
Trong quá trình làm việc tại Công ty Đ, chị T, luôn cố gắng làm việc,
chưa từng nộp đơn xin nghỉ việc nào đến Ban Lãnh đạo Công ty. Đến thời điểm
tháng 7 năm 2021 là thời điểm dịch COVID đang bùng phát trở lại tại Việt Nam,
Chính phủ ban hành các Chỉ thị hạn chế việc đi lại, các Doanh nghiệp phải
chuyển qua hình thức làm việc tại nhà, kinh tế khó khăn, việc người lao động
tìm công việc mới tại thời điểm dịch bệnh là gần như không có khả năng. Hơn
nữa, tại thời điểm này chị T đang mang thai, việc này Ban Lãnh đạo Công ty Đ
cũng biết nhưng vẫn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với chị T là trái
quy định của pháp luật.
Tại thời điểm cách ly do dịch bệnh phải làm việc tại nhà, chị T vẫn cố
gắng hoàn thành hết các công việc được giao. Việc Công ty Đ đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động với chị T đã gây ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích
của chị T.
Chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các nội dung sau:
+ Buộc Công ty Đ thanh toán tiền lương cho chị T từ tháng 10 năm 2021
cho đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử, tạm tính đến tháng 10 năm 2022:
7.000.000 đồng x 12 tháng = 84.000.000 đồng và 02 tháng tiền lương theo quy
định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động là 14.000.000 đồng. Ngoài ra, yêu
cầu Công ty Đ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong
thời gian chị T không được làm việc.
+ Yêu cầu Công ty Đ nhận chị T trở lại làm việc, trong trường hợp Công
ty Đ không muốn nhận chị T trở lại làm việc thì yêu cầu Công ty phải bồi
thường cho chị T thêm 02 tháng tiền lương theo quy định tại khoản 3 Điều 41
Bộ luật Lao động là 14.000.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền Công ty Đ phải bồi thường cho chị T tạm tính là
112.000.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T rút yêu cầu khởi kiện đối với yêu
cầu Công ty Đ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong
thời gian chị T không được làm việc; rút yêu cầu Công ty Đ nhận chị T trở lại
làm việc, trong trường hợp Công ty Đ không nhận chị T trở lại làm việc thì yêu
cầu Công ty phải bồi thường cho chị T thêm 02 tháng tiền lương theo quy định
tại khoản 3 Điều 41 Bộ luật Lao động là 10.000.000 đồng; đồng thời thay đổi
yêu cầu khởi kiện như sau:
Buộc Công ty Đ thanh toán tiền lương cho chị T từ tháng 10 năm 2021
cho đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử (ngày 16 tháng 7 năm 2024): 5.000.000
đồng x 33 tháng = 165.000.000 đồng và 02 tháng tiền lương theo quy định tại
khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động là 10.000.000 đồng.
4
Như vậy, tổng số tiền Công ty Đ phải bồi thường cho chị Tâm T2 đến
ngày 16 tháng 7 năm 2024 là 175.000.000 đồng.
Theo bản tự khai, biên bản làm việc, người đại diện theo ủy quyền của
bị đơn trình bày:
Công ty TNHH Đ có ký hợp đồng lao đồng với chị Giảng Thiên T. Hợp
đồng lao động xác định thời hạn 06 tháng, bắt đầu từ ngày 01 tháng 5 năm 2021
đến ngày 30 tháng 10 năm 2021, với mức lương cơ bản là 5.000.000 đồng và
những trợ cấp khác là 2.550.000 đồng. Công ty đã nộp đầy đủ bảo hiểm xã hội
cho chị Giảng Thiên T.
Đối với việc chị T cho rằng chị không có đơn xin nghỉ việc là đúng.
Trong quyết định thôi việc Công ty có ghi nội dung căn cứ vào đơn xin nghỉ
việc của chị T là không đúng. Công ty cho chị T nghỉ việc là do chị T trong quá
trình làm việc không chấp hành tốt nội quy, quy chế của Công ty N2 làm việc
riêng, không theo dõi tin nhắn trên các group làm việc chung, làm ảnh hưởng
đến công việc của Công ty nên Công ty cho chị T thôi việc trước thời hạn 01
tháng. Công ty thấy việc không thông báo cho chị T về quyết định cho thôi việc
là chưa đúng quy định nên có trách nhiệm bồi thường 04 tháng lương cơ bản cho
chị T là 20.000.000 đồng.
Theo bản tự khai, người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trình bày:
Quá trình đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của
chị Giảng Thiên T, mã số BHXH: 7916417333, từ tháng 5 năm 2021 đến tháng
9 năm 2021 là 05 tháng; mức lương đóng là 5.000.000 đồng.
Đến thời điểm hiện tại, chị Giảng Thiên T đã nhận tiền trợ cấp một lần
theo Quyết định số 10699 ngày 05 tháng 10 năm 2022, số tiền 17.252.766 đồng;
Quyết định số 7181 ngày 11 tháng 6 năm 2019, số tiền 12.600.582 đồng.
Theo tra cứu dữ liệu của cơ quan Bảo hiểm xã hội thì đến thời điểm hiện
tại, chị Giảng Thiên T không tham gia bảo hiểm xã hội của Công ty nào khác.
Bảo hiểm xã hội Thành phố H không có ý kiến về việc tranh chấp đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động giữa nguyên đơn chị Giảng Thiên T với bị đơn
Công ty TNHH Đ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
phát biểu quan điểm tại phiên tòa:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm quyền, xác định tư cách đương sự, quan hệ
pháp luật và việc xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận các văn bản tố tụng đã
thực hiện đúng theo quy định; Quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được
bảo đảm theo quy định của pháp luật. Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp
5
luật của người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Công ty TNHH Đ đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động trái pháp luật đối với chị Giảng Thiên T nên đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Giảng Thiên T, buộc bị đơn
Công ty TNHH Đ có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn chị Giảng Thiên T
tổng số tiền 175.000.000đ (một trăm bảy mươi lăm triệu đồng), (trong đó tiền
lương trong những ngày chị T không được làm việc từ tháng 10 năm 2021 đến
ngày xét xử là 165.000.000 đồng và bồi thường 02 (hai) tháng tiền lương là
10.000.000 đồng).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về pháp luật tố tụng:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp, tư cách đương sự và thẩm quyền giải quyết:
Chị Giảng Thiên T khởi kiện Công ty TNHH Đ tranh chấp về đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật phát sinh từ quan hệ lao động được
xác lập giữa cá nhân người lao động với người sử dụng lao động và yêu cầu
Công ty TNHH Đ bồi thường thiệt hại, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp cho chị T trong những ngày không được làm việc nên căn cứ
theo quy định tại Điều 32 và Điều 68 của Bộ luật Tố dụng dân sự năm 2015 xác
định quan hệ tranh chấp là: “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động”, chị Giảng Thiên T là nguyên đơn, Công ty TNHH Đ là bị đơn và Bảo
hiểm xã hội Thành phố H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nguyên
đơn chị Giảng Thiên T có địa chỉ cư trú tại: A, khu phố H, phường A, thành phố
B, tỉnh Đồng Nai và đã có văn bản lựa chọn Tòa án nhân dân thành phố Biên
Hòa giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 1 Điều 32, khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
[1.2] Về thời hiệu khởi kiện:
Ngày 04 tháng 10 năm 2021, bị đơn Công ty TNHH Đ ban hành Quyết
định số: 01/QĐTV-2021 về việc chấm dứt hợp động lao động với nguyên đơn
chị Giảng Thiên T. Ngày 11 tháng 7 năm 2022, chị Giảng Thiên T nộp đơn khởi
kiện ra Tòa án yêu cầu Công ty TNHH Đ bồi thường do đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động trái pháp luật. Căn cứ khoản 3 Điều 190 Bộ luật Lao động thì
vụ án còn thời hiệu khởi kiện.
[1.3] Về việc tham gia phiên tòa của các đương sự:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người có quyền lợi,
6
nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt;
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai
nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các
đương sự theo quy định tại các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về pháp luật nội dung:
[2.1] Về pháp luật áp dụng: Các đương sự đều xác định chị Giảng Thiên T
vào làm việc tại Công ty TNHH Đ từ tháng 5 năm 2021. Ngày 04 tháng 10 năm
2021, Công ty TNHH Đ đã ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với chị T.
Đến ngày 11 tháng 7 năm 2022, chị T khởi kiện ra Tòa vì cho rằng Công ty
TNHH Đ chấm dứt hợp động lao động trái pháp luật. Vì vậy, áp dụng các quy
định của Bộ luật Lao động năm 2019 và các văn bản hướng dẫn để giải quyết vụ
án.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[2.2.1] Xét nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu
Công ty TNHH Đ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
trong thời gian chị T không được làm việc và rút yêu cầu Công ty Đ nhận chị T
trở lại làm việc, trong trường hợp Công ty Đ không nhận chị T trở lại làm việc
thì yêu cầu Công ty phải bồi thường cho chị T thêm 02 tháng tiền lương theo
quy định tại khoản 3 Điều 41 Bộ luật Lao động là 10.000.000 đồng. Việc rút
một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện nên Hội đồng xét xử
đình chỉ phần yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn. Đối với việc nguyên đơn
thay đổi yêu cầu khởi kiện về mức lương cơ bản để làm cơ sở tính tiền bồi
thường (từ 7.000.000 đồng/tháng thành 5.000.000 đồng/tháng) không trái quy
định của pháp luật nên chấp nhận.
[2.2.2] Xét tính hợp pháp của Hợp đồng lao động số: HĐLĐ/05/2021
(không ghi ngày, tháng, năm), do phía bị đơn cung cấp và việc xác lập quan hệ
lao động giữa các bên: Hợp đồng lao động nêu trên có chữ ký của người đại diện
theo pháp luật và có dấu mộc của Công ty TNHH Đ, tuy nhiên hợp đồng không
ghi rõ ngày, tháng, năm và không có chữ ký của người lao động là chị Giảng
Thiên T. Đồng thời, chị T cũng xác định giữa các bên không ký kết hợp đồng
lao động, chỉ thỏa thuận miệng về công việc, thời gian làm việc, mức lương
hàng tháng, không thỏa thuận về thời hạn làm việc. Do đó, hợp đồng lao động
do phía bị đơn cung cấp không hợp pháp.
Mặc dù, hợp đồng lao động nêu trên không là căn cứ để xác lập quyền và
nghĩa vụ giữa các bên nhưng phía chị T và Công ty TNHH Đ đều xác định quan
hệ lao động giữa các bên phát sinh từ ngày 01 tháng 5 năm 2021. Theo các tài
liệu, chứng cứ các bên cung cấp thể hiện Công ty TNHH Đ có trả lương cho chị
T từ tháng 5 năm 2021 đến tháng 9 năm 2021, với mức lương cơ bản đóng bảo
hiểm xã hội là 5.000.000 đồng và các khoản phụ cấp, hỗ trợ khác. Đồng thời,
phía Bảo hiểm xã hội Thành phố H cũng xác định Công ty TNHH Đ có đóng
7
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho chị T từ tháng 5 năm
2021 đến tháng 9 năm 2021, với mức lương đóng là 5.000.000 đồng. Từ những
căn cứ nêu trên thì có cơ sở để xác định giữa nguyên đơn và bị đơn có quan hệ
lao động từ ngày 01 tháng 5 năm 2021 đến thời điểm có quyết định cho chị T
thôi việc ngày 04 tháng 10 năm 2021.
[2.2.3] Xét tính hợp pháp của Quyết định về việc thôi việc số: 01/QĐTV-
2021 ngày 04 tháng 10 năm 2021: Căn cứ vào nội dung của quyết định thì Công
ty TNHH Đ cho chị T nghỉ việc từ ngày 04 tháng 10 năm 2021, với lý do nghỉ
việc là: Xét đơn xin nghỉ việc của chị Giảng Thiên T. Tuy nhiên, trong quá trình
giải quyết vụ án, chị T xác định chưa từng nộp đơn xin nghỉ việc gửi lên Ban
lãnh đạo Công ty. Bị đơn cũng thừa nhận việc Công ty có ghi nội dung căn cứ
vào đơn xin nghỉ việc của chị T là không đúng. Công ty cho chị T nghỉ việc là
do chị T không chấp hành tốt nội quy, quy chế của Công ty, làm ảnh hưởng đến
công việc của Công ty. Tuy nhiên, phía bị đơn không cung cấp được các tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho nội dung đã trình bày. Mặt khác, phía bị đơn cũng
thừa nhận không thông báo trước cho nguyên đơn mà ban hành Quyết định về
việc thôi việc số: 01/QĐTV-2021 ngày 04 tháng 10 năm 2021 là vi phạm thời
hạn báo trước theo quy định tại Điều 36 của Bộ luật Lao động năm 2019. Vì
vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị đơn đã đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động đối với nguyên đơn trái quy định pháp luật.
[2.2.4] Về yêu cầu bồi thường do đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao
động trái pháp luật.
Về yêu cầu bị đơn trả tiền lương trong những ngày nguyên đơn không
được làm việc kể từ tháng 10 năm 2021 đến ngày xét xử vụ án và bồi thường 02
(hai) tháng tiền lương:
Tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động quy định về nghĩa vụ của người sử
dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:
Người lao động phải trả tiền lương trong những ngày người lao động không
được làm việc và bồi thường thêm một khoản tiền và ít nhất bằng 2 (hai) tháng
tiền lương theo hợp đồng lao động. Do bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động trái pháp luật nên phải có nghĩa vụ trả lương cho nguyên đơn trong
những ngày nguyên đơn không được làm việc và bồi thường thêm 2 (hai) tháng
tiền lương là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận, cụ
thể như sau:
- Kể từ tháng 10 năm 2021 đến ngày xét xử vụ án (ngày 16 tháng 7 năm
2024), là những ngày nguyên đơn không được làm việc, tiền lương là: 33 tháng
x 5.000.000 đồng = 165.000.000đ (một trăm sáu mươi lăm triệu đồng).
- Bồi thường hai tháng tiền lương: 02 tháng x 5.000.000 đồng =
10.000.000đ (mười triệu đồng).
[3] Về án phí:
8
- Nguyên đơn được miễn đóng tiền tạm ứng án phí, án phí theo quy định
tại Điều 12 của nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Do yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên bị đơn phải chịu
án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016.
[4] Về quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên
Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và tài liệu, chứng cứ trong hồ
sơ nên chấp nhận.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo
quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các điều 32, 35, 40, 68, 147, 227, 228, 244, 271, 273 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các điều 36, 41, 190 của Bộ luật Lao động năm 2019;
Căn cứ Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của pháp luật về lãi, lãi suất phạt vi phạm;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với các yêu
cầu: Yêu cầu Công ty TNHH Đ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp trong thời gian chị T không được làm việc; Yêu cầu Công ty Đ nhận
chị T trở lại làm việc, trong trường hợp Công ty Đ không muốn nhận chị T trở
lại làm việc thì yêu cầu Công ty phải bồi thường cho chị T thêm 02 tháng tiền
lương theo quy định tại khoản 3 Điều 41 Bộ luật Lao động là 10.000.000 đồng.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Giảng Thiên T:
Buộc bị đơn Công ty TNHH Đ có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn
chị Giảng Thiên T tổng số tiền 175.000.000đ (một trăm bảy mươi lăm triệu
đồng), (trong đó tiền lương trong những ngày chị T không được làm việc tính từ
tháng 10 năm 2021 đến ngày xét xử sơ thẩm là 165.000.000 đồng và bồi thường
02 (hai) tháng tiền lương là 10.000.000 đồng).
9
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357, Điều 468
Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về án phí: Bị đơn Công ty TNHH Đ phải chịu án phí lao động sơ thẩm
là 8.750.000đ (tám triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được tống đạt
hợp lệ.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật
thi hành án dân sự và các điều 7, 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật thi hành án dân sự năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND TP. Biên Hòa;
- Chi cục THADS TP. Biên Hòa;
- Lưu HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Vũ Bảo
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm