Bản án số 370/2025/HC-PT ngày 08/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 370/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 370/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 370/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 370/2025/HC-PT ngày 08/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 370/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | y án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 370/2025/HC-PT
Ngày: 08 - 4 - 2025
V/v Khiếu kiện hành vi hành chính
về quản lý đất đai của Uỷ ban nhân
dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
trong trường hợp không ban hành
quyết định thu hồi và quyết định chi
trả tiền bồi thường về đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Phan Nhựt Bình
Các Thẩm phán: Ông Phan Tô Ngọc
Bà Hồ Thị Thanh Thúy
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Phú Cường - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa: Ông Hà Văn Hiến - Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số:
1078/2024/TLPT-HC ngày 20 tháng 11 năm 2024 về việc “Khiếu kiện hành vi
hành chính về quản lý đất đai của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
trong trường hợp không ban hành quyết định thu hồi và quyết định chi trả tiền
bồi thường về đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 08/2024/HC-ST ngày 16 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 361/2025/QĐPT-HC ngày
20 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Trần Thị H, sinh năm 1964 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp T, xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn T: Bà Lê Ngọc P, sinh
năm 1970 (có mặt).
Địa chỉ: Ấp Đ, xã P, huyện C, tỉnh Cà Mau.
2
- Người bị kiện:
1. Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu
Địa chỉ: Ấp Gò Cát, xã Điền Hải, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Tuấn K, chức vụ: Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu (xin vắng mặt)
- Người kháng cáo: Người khởi kiện là bà Trần Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, người đại diện
theo ủy quyền của người khởi kiện bà Trần Thị H là bà Lê Ngọc P trình bày:
Nguồn gốc đất là của bà Trần Thị M khai phá trước năm 1975. Ngày
14/12/2006, bà Trần Thị M và bà Trần Thị H đổi đất với nhau, có lập giấy tay về
việc đổi đất (Bút lục số 03) nội dung: Do không có đường sổ nước và để thuận
lợi cho việc canh tác thì bà M và H thỏa thuận đổi đất cho nhau để thuận việc
cho việc canh tác, cụ thể: Bà H lấy phần đất của bà M với diện tích 1.251m
2
thuộc thửa đất số 155 và bà M lấy phần đất bà H với diện tích 1.251m
2
thuộc
thửa đất số 154-155, bà H sử dụng từ năm 2006 cho đến nay nhưng chưa được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khi Ủy ban nhân dân huyện Đ làm con lộ đất đen vào năm 2004 ảnh
hưởng đến phần đất bà B diện tích ngang 6,5 dài 180m, loại đất trồng lúa nhưng
không có Quyết định thu hồi đất và bồi thường về đất. Từ trước đến nay bà Ba
K1 đồng ý hiến đất, có yêu cầu bồi thường về đất nhưng không được giải quyết.
Trong khi cũng trên tuyến đường đắp lộ đất đen thì Ủy ban nhân dân huyện Đ
ban hành quyết định thu hồi đất của hộ bà Lê Thị B1 với diện tích đất thu hồi
của bà B1 là 12.240m
2
, mục đích sử dụng đất nuôi trồng thủy sản và chi trả tiền
bồi thường, hỗ trợ cho bà B1 với tổng số tiền là 143.926.000 đồng (thu hồi hết
đất của bà B1) nhưng không xem xét bồi thường cho bà không thoả đáng. Đến
năm 2008, nhà nước tiếp tục làm lộ nhựa có chiều ngang 1,5m trên lộ đất đen
6,5m. Đến năm 2017, Ủy ban nhân dân huyện Đ thi công mở rộng lộ 3,5m trên
tuyến đường từ Đình thần N thuộc xã A A đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã A,
huyện Đ. Bà B xác định, những lần làm lộ bà đều không đồng ý vì Nhà nước
không bồi thường, bà cũng không có hiến đất, bà có khiếu nại nhưng không
được giải quyết.
Bà H có gửi đơn khiếu nại vào năm 2017 và được Văn phòng Chính phủ
3
trả lời bằng văn bản số 4245/VPCP-VI ngày 09/5/2018 về việc chuyển đơn đến
Ủy ban nhân dân tỉnh B giải quyết theo thẩm quyền và Phiếu hướng dẫn số
321/TTr-TDXLĐT ngày 13/6/2018 của Thanh tra Bộ trưởng Bộ T2 hướng dẫn
các hộ dân gửi đơn đến Ủy ban nhân dân huyện Đ để được xem xét, giải quyết.
Sau khi nhận được văn bản trên của Thanh tra Bộ T3 thì bà H có gửi đơn
đến Ủy ban nhân dân huyện Đ nhưng vẫn không được xem xét giải quyết. Đến
ngày 16/02020, bà H tiếp tục khiếu nại đến Ủy ban nhân dân huyện Đ và ngày
11/6/2020, Ủy ban nhân dân huyện Đ ban hành Công văn số 1715/CV-UBND
với nội dung Ủy ban không ban hành Quyết định thu hồi cũng như không xem
xét bồi thường đất, hoa màu, tài sản gắn liền trên đất khi thực hiện tuyến đưởng
nêu trên. Bà H tiếp tục khiếu nại, đến ngày 28/10/2022, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu
với nội dung bác yêu cầu của bà H. Sau đó, bà H tếp tục khiếu nại lần hai đến
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B nhưng không đươc giải quyết với lý do bà H
chưa được đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến ngày 10/7/2023,
Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Đ ban hành Quyết định số 2081/QĐ-UBND về
việc thu hồi, hủy bỏ các Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện Đ. Sau đó, bà H khởi kiện tại Tòa án.
Nay, bà Trần Thị H yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Đ và Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện Đ ban hành Quyết định thu hồi và Quyết định chi trả tiền
bồi thường về đất khi thực hiện dự án xây dựng tuyến đường từ Đình thần N đến
trụ sở Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu có ảnh hưởng đến phần
đất thuộc quyền sử dụng đất của bà nhưng không được bồi thường.
Người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện Đ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện Đ, người đại diện theo pháp luật là ông Trần Tuấn K (chủ tịch) trình bày
ý kiến:
Tuyến đường từ Đình thần N (xã A) đến Ủy ban nhân dân xã A được hình
thành từ khoảng năm 1980. Khoảng năm 1980, Nhà nước có chủ trương đắp đê
ngăn mặn nhằm phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp của người dân. Hưởng
ứng theo chủ trương của Nhà nước, các hộ dân trên tuyến đã hiến đất, sức lao
động để đắp đê ngăn mặn từ giáp với thị trấn H đến Ủy ban nhân dân xã A (mặt
đê khoảng 6m, chân đê mỗi bên 2m).
Đến khoảng năm 1997, do quá trình sản xuất nông nghiệp, đê ngăn mặn bị
xuống cấp, Nhà nước có chủ trương thuê cơ giới bồi đắp lại hiện trạng con đê đã
đào trước đây. Tất cả người dân trên tuyến đê thống nhất cao, không ai ngăn cản.
Nhằm phục vụ cho việc đi lại, lưu thông hàng hóa của người dân, khoảng
năm 2004, H1 chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã A (chưa chia tách xã) và các ngành
4
chức năng vận động người dân làm đường đất đen trên hiện trạng con đê đã đào,
đắp trước đây. Sau khi được người dân thống nhất, Ủy ban nhân dân huyện chỉ
đạo các ngành chức năng phối hợp với Ủy ban nhân dân xã A thực hiện dự án
thi công tuyến đường đất đen trên hiện trạng con đê đã đào đắp khoảng năm
1980, mặt đường hoàn chỉnh có chiều rộng là 6,5m.
Khi triển khai thực hiện làm lộ đất đen các hộ dân trên tuyến đếu thống
nhất, không ai ngăn cản. Tuy nhiên, khi thực hiện công trình đến phần đất của
hộ bà Lê Thị B1, gia đình bà B1 không thống nhất, cương quyết ngăn cản và đề
nghị thu hồi, bồi thường về đất khi thực hiện làm lộ đất đen. Tại thời điểm này,
nhằm phục vụ lợi ích chung và sự đi lại rất khó khăn, bức xúc của nhân dân
trong khu vực. Đồng thời, xét thấy chỉ có một hộ duy nhất nên Ủy ban nhân dân
huyện mới thực hiện thu hồi, bồi thường phần đất của bà Lê Thị B1. Diện tích
thu hồi đất của bà Lê Thị B1 12.240m
2
, mục đích sử dụng là đất nuôi trồng thủy
sản. Ngoài trường hợp của hộ bà Lê Thị B1 thì không còn trường hợp nào tương
tự.
Đến khi thành lập bản đồ địa chính chính quy (2006) xác lập đường đất do
Nhà nước quản lý. Từ khi hình thành đê ngăn mặn đến trước khi thực hiện dự án
lộ nhựa từ Đình thần Nguyễn Trung T1 đến Ủy ban nhân dân xã A không hộ dân
nào yêu cầu, khiếu nại đối với tuyến lộ này.
Đến năm 2008, do nhu cầu trong việc đi lại, vận chuyển hàng hóa của
người dân trên tuyến, H1 đã đầu tư tuyến lộ nhựa chiều rộng mặt đường nhựa
1,5m trên phần đường đất đen 6,5m. Các hộ dân trên toàn tuyến thống nhất,
không ai ngăn cản. Dự án xây dựng tuyến đường từ Đình thần N đến Ủy ban
nhân dân xã A triển khai thực hiện năm 2017, mặt đường nhựa 3,5m, lề mỗi bên
01m trong phạm vi đường đất đen 6,5m người dân đã thống nhất cho Nhà nước
thực hiện vào năm 2004. Do đó, việc thi công công trình không ảnh hưởng đến
nhà và đất của người dân. Ủy ban nhân dân tỉnh B thống nhất với chủ trương
không bồi thường về đất khi thi công gói thầu số 3 thuộc Dự án xây dựng đường
về trung tâm xã A (Công văn số 1486/UBND-KT ngày 12/4/2019 của Ủy ban
nhân dân tỉnh)
Từ các nội dung trên, Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân huyện Đ
đề nghị Tòa án xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Bà Trần Thị H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B
trình bày ý kiến: Đề nghị Tòa án xét xử theo đúng quy định pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 08/2024/HC-ST ngày 16 tháng 5 năm
2024, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã quyết định:
5
Bác yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H yêu cầu Toà án buộc Ủy ban
nhân dân huyện Đ ban hành quyết định thu hồi đất và chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện Đ ban hành quyết định chi trả tiền bồi thường giá trị đất khi thực hiện dự
án xây dựng tuyến đường từ Đình thần N đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã A,
huyện Đ.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của
đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/5/2024 người khởi kiện bà Trần Thị H
kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người khởi kiện là bà Trần Thị H (có bà Lê Thị P1 đại diện theo ủy quyền)
vẫn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của bà H vì khi Ủy ban nhân dân huyện Đ làm con lộ đất đen vào
năm 2004 ảnh hưởng đến phần đất bà H nhưng không có Quyết định thu hồi đất
và bồi thường về đất, từ trước đến nay bà H không đồng ý hiến đất như Ủy ban
nhân dân huyện Đ trình bày, bà có yêu cầu bồi thường về đất nhưng không được
giải quyết. Trong khi cũng trên tuyến đường đắp lộ đất đen thì Ủy ban nhân dân
huyện Đ ban hành quyết định thu hồi đất của hộ bà Lê Thị B1 với diện tích đất
thu hồi của bà B1 là 12.240m
2
và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho bà B1 với
tổng số tiền là 143.926.000 đồng (thu hồi hết đất của bà B1) nhưng không xem
xét bồi thường cho bà H là không thoả đáng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử phúc thẩm tuân thủ đúng các
quy định của pháp luật Tố tụng hành chính. Những người tham gia tố tụng đã
thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật.
- Về nội dung: Hồ sơ vụ án không có tài liệu thể hiện và người bị kiện
cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc người dân hiến đất, đắp
đê ngăn mặn. Tòa sơ thẩm không xem xét thẩm định tại chỗ, không thu thập bản
đồ địa chính chính quy, bản đồ 299 có đúng như trình bày của người bị kiện hay
không; không thu thập chứng cứ về việc ủy ban có bồi thường cho bà Lê Thị B1
hay không, mà chỉ căn cứ vào trình bày của người bị kiện để giải quyết vụ án là
thu thập chứng cứ chưa đầy đủ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
kháng cáo của người khởi kiện, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án
cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của
Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tòa án đã triệu tập hợp lệ, người bị kiện xin xét xử vắng mặt. Căn cứ
6
Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng
mặt đương sự này.
[2] Bà Trần Thị H (có bà Lê Ngọc P là người đại diện theo ủy quyền)
kháng cáo cho rằng: Khi Ủy ban nhân dân huyện Đ làm con lộ đất đen vào năm
2004 ảnh hưởng đến phần đất bà H nhưng không có Quyết định thu hồi đất và
bồi thường về đất, từ trước đến nay bà H không đồng ý hiến đất như Ủy ban
nhân dân huyện Đ trình bày, có yêu cầu bồi thường về đất nhưng không được
giải quyết. Trong khi cũng trên tuyến đường đắp lộ đất đen thì Ủy ban nhân dân
huyện Đ ban hành quyết định thu hồi đất của hộ bà Lê Thị B1 với diện tích đất
thu hồi của bà B1 là 12.240m
2
và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho bà B1 với
tổng số tiền là 143.926.000 đồng (thu hồi hết đất của bà B1) nhưng không xem
xét bồi thường cho bà H là không thoả đáng. Đến năm 2008, Nhà nước tiếp tục
làm lộ nhựa có chiều ngang 1,5m trên lộ đất đen. Năm 2017, tiếp tục làm lộ
nhựa ngang mặt đường 3,5m, lề mỗi bên 01m. Bà H xác định, những lần làm lộ
bà đều không đồng ý vì Nhà nước không bồi thường, bà cũng không có hiến đất,
bà có khiếu nại nhưng không được giải quyết.
[2] Hồ sơ vụ án thể hiện, phần đất hiện bà Trần Thị H đang yêu cầu, khởi
kiện có nguồn gốc hình thành từ con đê được đào đắp vào năm 1978. Thời điểm
này, người dân sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, vì để đảm bảo phục
vụ tưới tiêu, ngăn mặn và sử dụng đi lại nên người dân khu vực này cùng tiến
hành đào đắp hình thành con đê có vị trí song song với Kênh xáng Bạc Liêu –
Cà Mau thuộc địa phận từ ấp T, ấp T, xã A đến ấp T xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc
Liêu. Khoảng năm 1980, để ngăn nước mặn từ Kênh X Bạc Liêu - Cà Mau cũng
làm nơi lưu trữ nước tưới tiêu thì Nhà nước có chủ trương cùng với người dân
tiến hành đào đắp đất, hình thành con đê chạy dài từ Đình thần Nguyễn Trung
T1 đến Ủy ban nhân dân xã A, vị trí song song với Kênh X - Cà Mau (mặt đê
khoảng 6m, chân đê mỗi bên 2m).
Khoảng năm 1997, do quá trình sản xuất nông nghiệp, đê ngăn mặn bị
xuống cấp, Nhà nước có chủ trương thuê cơ giới bồi đắp lại hiện trạng con đê đã
đào trước đây. Nhằm phục vụ cho việc đi lại, lưu thông hàng hóa của người dân,
khoảng năm 2004, Ủy ban nhân dân huyện Đ thực hiện dự án thi công tuyến
đường đất đen trên hiện trạng con đê đã đào đắp khoảng năm 1978, mặt đường
hoàn chỉnh có chiều rộng là 6,5m. Từ khi hình thành đê ngăn mặn đến trước khi
thực hiện dự án lộ nhựa từ Đình thần Nguyễn Trung T1 đến Ủy ban nhân dân xã
A không hộ dân nào yêu cầu, khiếu nại đối với tuyến lộ này. Năm 2008, do nhu
cầu trong việc đi lại, vận chuyển hàng hóa của người dân trên tuyến, H1 đã đầu
tư tuyến lộ nhựa chiều rộng mặt đường nhựa 1,5m trên phần đường đất đến
6,5m. Các hộ dân trên toàn tuyến thống nhất, không ai ngăn cản. Năm 2017, Ủy
ban nhân dân huyện Đ thi công mở rộng lộ 3,5m trên tuyến đường từ Đình thần
N thuộc xã A A đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ. Khi thi công công
trình lộ mới vào năm 2017 có chiều ngang mặt lộ 3,5m, lề lộ mỗi bên 01 mét,
con lộ hiện nay nằm trong phạm vi lộ đất đen 6,5m.
[3] Khi Nhà nước có chủ trương đắp đê ngăn mặn nhằm phục vụ cho việc
7
sản xuất nông nghiệp của người dân vào năm 1978, hưởng ứng theo chủ trương
của Nhà nước, các hộ dân trên tuyến đã hiến đất, sức lao động để đắp đê ngăn
mặn, thời điểm này các hộ dân không ai khiếu nại hay phản đối về việc đắp con
đê này. Năm 2017, Ủy ban nhân dân huyện Đ tiếp tục thi công, xây dựng tuyến
đường lộ nhựa từ Đình thần Nguyễn Trung T1 đến Trụ sở Ủy ban nhân dân xã A
(có bề rộng 3,5m, lề mỗi bên 01m, tổng là 5,5m) nằm hoàn toàn trong phạm vi
6,5m lộ đất đen mà người dân đã thống nhất cho Nhà nước xây dựng vào năm
2004 cũng như quá trình thực hiện dự án, Nhà nước dựa trên mặt đường lộ cũ
(trong phạm vi, diện tích đất của tuyến đê có từ năm 1978). Vì vậy, việc thi công
không ảnh hưởng đến nhà, đất của các hộ dân (trong đó có gia đình bà H).
Theo bản đồ 299 thì Nhà nước đã quản lý tuyến đường này, được ghi
nhận là tuyến đê từ Đình thần Nguyễn Trung T1 đến Ủy ban nhân dân xã A song
song với Kênh X Bạc Liêu - Cà Mau đã hình thành. Hiện nay, tại Bản đồ chính
quy được lập vào năm 2005 (Theo Quyết định số 750/QĐ-UBND ngày
27/7/2004 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B về việc phê duyệt dự án lập lưới
địa chính, đo vẽ bản đồ địa chính và lập hồ sơ địa chính của hai thị trấn và
huyện Đ) thể hiện Nhà nước không công nhận quyền sử dụng đất trên toàn bộ
tuyến lộ cho bất cứ cá nhân, tổ chức nào. Mặt khác, tại Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất được Nhà nước cấp cho các hộ dân từ thời điểm năm 2005, nhà
nước chỉ công nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân ngoài phạm vi tuyến lộ.
Vậy, sau khi hoàn thành việc làm lộ đất đen vào năm 2004, Nhà nước đã quản lý
tuyến đường này nên không thu hồi, bồi thường đất đối với gia đình bà H là
đúng quy định pháp luật.
[4] Đối với việc bà H cho rằng không có hiến đất làm đường và có khiếu
nại nhưng không được giải quyết: Theo tài liệu do người bị kiện cung cấp thì từ
năm 2004 (làm lộ) đến 2017 (làm đường nhựa) thì không có tài liệu chứng minh
các hộ dân có khiếu nại việc Ủy ban nhân dân huyện Đ không bồi thường khi
làm tuyến lộ qua đất của các hộ dân, trong đó có hộ bà H. Mặt khác, bà H cũng
không cung cấp được tài liệu chứng minh đã có khiếu nại Ủy ban nhân dân
huyện Đ thu hồi đất và bồi thường cho hộ bà Lê Thị B1. Do đó, lời trình bày này
của bà H không có cơ sở để chấp nhận.
[5] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy bản án của Tòán
cấp sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc
thẩm, người khởi kiện kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ
nào mới để chứng minh nên bác kháng cáo và giữ nguyên bản án của Tòa án cấp
sơ thẩm. Lập luận này cũng là cơ sở để không chấp nhận đề nghị hủy bản án sơ
thẩm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa.
[6] Các phần quyết định khác của bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không
có kháng cáo, kháng nghị nên đã có hiệu lực pháp luật.
[7] Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Trần Thị H sinh năm 1960 là người
cao tuổi nên được miễn, theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.
8
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính,
Bác yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện là bà Trần Thị H; Giữ nguyên
bản án hành chính sơ thẩm số 08/2024/HC-ST ngày 16/5/2024 của Tòa án nhân
dân tỉnh Bạc Liêu.
Áp dụng Luật Khiếu nại năm 2011; Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H yêu cầu Toà án buộc Ủy ban
nhân dân huyện Đ ban hành quyết định thu hồi đất và chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện Đ ban hành quyết định chi trả tiền bồi thường giá trị đất khi thực hiện dự
án xây dựng tuyến đường từ Đình thần N đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã A,
huyện Đ.
2. Các phần quyết định khác của bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không có
kháng cáo, kháng nghị nên đã có hiệu lực pháp luật.
3. Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Trần Thị H được miễn.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND cấp cao tại TP . HCM;
- TAND tỉnh Bạc Liêu;
- VKSND tỉnh Bạc Liêu;
- Cục THADS tỉnh Bạc Liêu;
- Các đương sự;
- Lưu.
Phan Nhựt Bình
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm