Bản án số 134/2020/DS-ST ngày 31/08/2020 của TAND huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng dân sự - hụi
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
-
Bản án số 134/2020/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 134/2020/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 134/2020/DS-ST ngày 31/08/2020 của TAND huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng dân sự - hụi |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Chợ Mới (TAND tỉnh An Giang) |
Số hiệu: | 134/2020/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 31/08/2020 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị P và bị đơn bà Đặng Thị Ngọc Đ về việc “tranh chấp hợp đồng dân sự về hụi”. |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 134/2020/DS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - HỤI
Ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 36/2020/TLST-DS ngày 08 tháng 01 năm 2020 về việc “tranh chấp hợp đồng dân sự về hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 346/2020/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 7 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 338/2020/QĐST-DS ngày 12 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1975; địa chỉ: số A, tổ A, ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.
đơn Bà Đặng Thị Ngọc Đ, sinh năm 1992; địa chỉ: tổ B, ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông Huỳnh Tấn B, sinh năm 1990; địa chỉ: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 31/10/2019, nguyên đơn bà Nguyễn Th P cho rằng, bà P có tham gia 03 dây hụi tháng do bà Đặng Thị Ngọc Đ làm chủ, loại hụi hoa hồng. Đến kỳ mở hụi, hụi viên nào mở giá hụi cao nhất thì được lĩnh hụi. Chủ hụi có trách nhiệm thu tiền các hụi viên khác giao cho hụi viên được lĩnh hụi và được hưởng hoa hồng. Cụ thể:
+ Dây hụi thứ nhất: hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 20/01/2017 âm lịch, kết thúc ngày 20/01/2019, gồm 26 hụi viên, bà P tham gia 01 phần với tên trong danh sách hụi là “chị P”. Bà P góp hụi đầy đủ đến kỳ mở hụi 20/10/2018 âm lịch (được 23 lần) thì bà Đ ngưng mở hụi. Tổng số tiền hụi mà bà P đã góp là 34.580.000 đồng. Nếu tính tiền lãi hụi mỗi tháng thì bà Đ còn nợ bà P số tiền 46.000.000 đồng.
+ Dây hụi thứ hai: hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở ngày 10/11/2017 âm lịch, kết thúc ngày 10/10/2019, gồm 24 hụi viên, bà P tham gia 02 phần với tên trong danh sách hụi là “chị P”. Bà P góp hụi đầy đủ đến kỳ mở hụi 10/10/2018 âm lịch (được 12 lần) thì bà Đ ngưng mở hụi. Tổng số tiền hụi mà bà P đã góp của 01 phần hụi là 8.390.000 đồng; hai phần hụi là 16.780.000 đồng. Nếu tính luôn tiền lãi hụi mỗi tháng thì bà Đ còn nợ bà P số tiền của 02 phần hụi là 24.000.000 đồng.
+ Dây hụi thứ ba: hụi 1.000.000đồng/tháng, mở ngày 09/9/2018 âm lịch (chưa có giấy hụi), bà P tham gia 01 phần. Bà P góp hụi được 02 lần với số tiền 2000.000 đồng.
Tổng số tiền hụi mà bà Đ nợ bà P đối với 03 dây hụi này là 72.000.000 đồng. Sau đó, bà Đ có trả cho bà P được 6.000.000 đồng; còn nợ lại 66.000.000 đồng chưa trả. Do bà Đ và ông Huỳnh Tấn B là vợ chồng, hôn nhân vẫn tồn tại và bà Đ mở hụi lấy lợi nhuận phục vụ sinh hoạt gia đình của bà Đ, ông B nên bà P yêu cầu bà Đ, ông B liên đới trả cho bà P số tiền hụi còn nợ 66.000.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, vào ngày 05/3/2020, bà P rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, không tranh chấp dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở ngày 08/9/2018 âm lịch. Đến ngày 02/7/2020, bà P tiếp tục rút lại yêu cầu khởi kiện, không tiếp tục tranh chấp đối với đối với dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở ngày 10/11/2017 âm lịch. Đối với dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 20/01/2017 âm lịch, bà P rút lại yêu cầu trả lãi; chỉ yêu cầu bà Đ, ông B liên đới trả số tiền vốn 34.580.000 đồng Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện là: tờ tự khai của bà Nguyễn Thị P ngày 31/10/2019; các danh sách hụi viên (bản photo); đơn yêu cầu về việc rút lại một phần yêu cầu đơn khởi kiện ngày 02/7/2020.
- Bà Đặng Thị Ngọc Đ, ông Huỳnh Tấn B đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.
Tại phiên tòa, - Nguyên đơn trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử; xác định không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm; giữ nguyên việc rút một phần yêu cầu khởi kiện. Theo đó, chỉ yêu cầu bà Đ, ông B liên đới trả tiền vốn 34.580.000 đồng của dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 20/01/2017 âm lịch, không yêu cầu trả lãi. Số tiền 6.000.000 đồng mà bà Đ trả cho bà P là tiền nợ của dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở ngày 10/11/2017 âm lịch mà bà P đã rút một phần yêu cầu khởi kiện, không tranh chấp.
- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Đ, ông B là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Từ ngày 20/01/2017 đến ngày 09/9/2018, bà P tham gia 03 dây hụi do bà Đ làm chủ, đã chầu được tổng cộng 72.000.000 đồng. Bà Đ đã trả được 6.000.000 đồng, còn nợ 66.000.000 đồng. Nay bà P yêu cầu bà Đ, ông B liên đới trả 34.580.000 đồng; rút lại yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 31.420.000 đồng.
Bà Đ được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do.
Căn cứ để bà P khởi kiện là các giấy hụi do chính bà Đ lập và lời khai của những người làm chứng Nguyễn Thị Thanh T, Huỳnh Kim Đ, Mai Thị Xuân H và Nguyễn Thị H nên có cơ sở xác định giữa bà P, bà Đ có giao kết hợp đồng hụi. Do bà Đ tự ý ngưng hụi, vi phạm nghĩa vụ thanh toán của chủ hụi nên bà P khởi kiện là phù hợp với Điều 471 Bộ luật Dân sự.
Đồi với ông B, tuy không trực tiếp giao dịch với bà P nhưng khoản nợ mà bà P yêu cầu phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của bà Đ, ông B. Cho nên, bà P yêu cầu ông B liên đới trả nợ là phù hợp quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình.
Việc bà P rút lại yêu cầu khởi kiện 31.420.000 đồng thuộc quyền định đoạt của đương sự nên đề nghị đình chỉ theo các Điều 217, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 471 Bộ luật Dân sự; các Điều 217, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà P; buộc bà Đ, ông B liên đới trả cho bà P số tiền 34.580.000 đồng; đình chỉ yêu cầu khởi kiện bị rút.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
* Về tố tụng
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị P khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Đặng Thị Ngọc Đ liên đới cùng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Tấn B trả nợ hụi. Bà Đ đang cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới nên yêu cầu kiện của bà P thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Trước khi phiên tòa được mở, bà Đ, ông B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Cho nên, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Đ, ông B theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
* Về nội dung [3] Về việc xác lập và thực hiện hợp đồng:
Theo đơn khởi kiện, bà P tranh chấp 03 dây hụi hoa hồng do bà Đ làm chủ gồm: dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở ngày 10/11/2017 âm lịch, dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 20/01/2017 âm lịch và dây hụi 1.000.000đồng/tháng, mở ngày 08/9/2018 âm lịch. Đồng thời, yêu cầu bà Đ, ông B liên đới trả cho bà Đ số tiền hụi còn nợ 66.000.000 đồng.
Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bà P tự nguyện rút lại yêu cầu khởi kiện, không tiếp tục tranh chấp đối với dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở ngày 10/11/2017 âm lịch, dây hụi 1.000.000đồng/tháng, mở ngày 08/9/2018 âm lịch và tiền lãi của dây hụi dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 20/01/2017 âm lịch với tổng số tiền 31.420.000 đồng.
Vì vậy, Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện bị rút theo Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Xem xét yêu cầu khởi kiện còn lại của bà P, thấy rằng, bà P khai, bà Đ có làm chủ dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 20/01/2017 âm lịch, kết thúc ngày 20/01/2019, gồm 26 hụi viên, bà P tham gia 01 phần với tên trong danh sách hụi là “chị P”. Bà P góp hụi đầy đủ đến kỳ mở hụi 20/10/2018 âm lịch (được 23 lần) thì bà Đ ngưng mở hụi. Tổng số tiền mà bà P đã góp hụi là 34.580.000 đồng.
Trong số các tài liệu, chứng cứ do bà P cung cấp có danh sách hụi viên thể hiện dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 20/01/2017 âm lịch, có 26 hụi viên, trong đó, có hụi viên tên “chị P” tại số thứ tự 19.
Người làm chứng bà Nguyễn Thị Thanh T (T), bà Nguyễn Thị H, ông Huỳnh Kim Đ cung cấp, bà T, bà H, ông Đ có cùng với bà P tham gia dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 20/01/2017 âm lịch, gồm 26 hụi viên, do bà Đ làm chủ. Bà P tham gia 01 phần. Khi góp hụi đến kỳ mở hụi 20/10/2018 âm lịch (được 23 lần) thì bà Đ ngưng mở hụi. Bà P chưa hốt phần hụi mà bà P tham gia.
Tổng số tiền đã chầu hụi là 34.580.000 đồng.
Theo biên bản xác minh ngày 16/7/2020 do cán bộ Tòa án lập, đại diện Ban ấp T, xã T, huyện C cung cấp, bà Đ, ông B có tham gia mở hụi tại địa phương. Đến khoảng tháng 11/2018 âm lịch, bà Đ, ông B đi khỏi địa phương, không tiếp tục khui hụi, khoảng 01 năm sau quay về.
Theo biên bản xác minh ngày 16/7/2020 do cán bộ Tòa án lập, đại diện Công an xã T, huyện C cung cấp, cách nay (ngày 16/7/2020) khoảng 01 năm, người dân tham gia hụi do bà Đ, ông B làm chủ có đến trình báo với cán bộ xã về việc bà Đ, ông B vỡ hụi. Công an xã T có tiếp nhận hồ sơ của bà P để lấy lời khai.
Như vậy, lời khai của bà P phù hợp với danh sách hụi, thông tin do Ban ấp T, Công an xã T, lời khai của người làm chứng bà Nguyễn Thị Thanh T, bà Nguyễn Thị H, ông Huỳnh Kim Đ.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án ban hành T hông báo số 05/TB-TA ngày 05/3/2020 yêu cầu bà Đ, ông B cung cấp lời khai và giao nộp, bổ sung tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung sự việc và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng bà Đ, ông B không thực hiện.
Vì vậy, có căn cứ xác định bà P có tham gia dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 20/01/2017 âm lịch do bà Đ làm chủ và bà Đ còn nợ lại bà P nợ vốn với số tiền 34.580.000 đồng.
[4] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Bà P yêu cầu bà Đ, ông B liên đới trả tiền vốn 34.580.000 đồng của dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 20/01/2017 âm lịch.
Xem xét yêu cầu liên đới thấy rằng, mặc dù, ông B không cùng bà Đ xác lập hợp đồng về hụi với bà P nhưng bà Đ và ông B là vợ chồng, vẫn còn sống chung với nhau và bà Đ sử dụng tiền thu được từ việc mở các dây hụi để phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình bà Đ, ông B. Cho nên, chấp nhận yêu cầu của bà P về việc buộc ông B liên đới cùng bà Đ trả nợ.
Về tiền lãi chậm thanh toán, bà P không yêu cầu trả lãi là có lợi cho người có nghĩa vụ nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Vì vậy, buộc bà Đ, ông B liên đới trả cho bà P nợ hụi với số tiền 34.580.000 đồng theo quy định tại các Điều 466, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Đ, ông B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải thanh toán cho bà P là 1.729.000 đồng.
Bà P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn lại cho bà P số tiền tạm ứng án phí 1.650.000 đồng mà bà P đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 466, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; các Điều 147, 244, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Ngh quyết số 326/2016/U TVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy đ nh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị P về việc yêu cầu bà Đặng Thị Ngọc Đ và ông Huỳnh Tấn B liên đới trả số nợ 31.420.000 (ba mươi mốt triệu, bốn trăm hai mười nghìn) đồng trong số 66.000.000 (sáu mươi sáu triệu) đồng theo đơn khởi kiện đối với việc tranh chấp dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở ngày 10/11/2017 âm lịch, dây hụi 1.000.000đồng/tháng, mở ngày 08/9/2018 âm lịch và tiền lãi của dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 20/01/2017 âm lịch.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị P.
Buộc bà Đặng Thị Ngọc Đ và ông Huỳnh Tấn B liên đới trả cho bà Nguyễn Thị P số nợ hụi 34.580.000 (ba mươi bốn triệu, năm trăm tám mươi nghìn) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Đặng Thị Ngọc Đ và ông Huỳnh Tấn B phải chịu 1.729.000 (một triệu, bảy trăm hai mươi chín nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Nguyễn Thị P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị P số tiền tạm ứng án phí 1.650.000 (một triệu, sáu trăm năm mươi nghìn) đồng mà bà P đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2017/0007847 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới cấp ngày 08 tháng 01 năm 2020.
4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Nguyễn Thị P có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.
Riêng thời hạn kháng cáo của bà Đặng Thị Ngọc Đ, ông Huỳnh Tấn B được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!