Bản án số 09/2024/DS-ST ngày 02/08/2024 của TAND huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 09/2024/DS-ST ngày 02/08/2024 của TAND huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Cẩm Giàng (TAND tỉnh Hải Dương) |
Số hiệu: | 09/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận 1 phàn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi liên quan |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CẨM GIÀNG
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 09/2024/STDS
Ngày: 02/8/2024
V/v Tranh chấp về thừa kế tài sản, yêu cầu
công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ có hiệu
lực và tiếp tục thực hiện hợp đồng.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM GIÀNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: bà Đoàn Thị Thuý.
Các Hội thẩm nhân dân: ông Dương Văn Ngạn và ông Nguyễn Quang Miên;
- Thư ký phiên toà: ông Phạm Hoàng Thanh - Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Cẩm Giàng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Giàng tham gia phiên tòa:
bà Phạm Thị Huyên – Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 8 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Cẩm Giàng,
tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 19/2023/TLST-
DS ngày 02/10/2023 về viêc Tranh chấp về thừa kế tài sản, yêu cầu công nhận
hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ có hiệu lực và tiếp tục thực hiện hợp đồng theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2024/QĐXXST-DS ngày 01/7/2024; Quyết
định hoãn phiên tòa số 08/2024/QĐST-DS ngày 22/7/2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
-. Bà Hoàng Thị H, sinh năm 1968; cư trú: B, xã T, huyện Đ, tỉnh B
Bị đơn: bà Hoàng Thị N, sinh năm 1983; cư trú: thôn B, xã N, huyện C,
tỉnh H.
Người có quyền và lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Hoàng Văn P, sinh năm 1966 và bà Vũ K, sinh năm 1965; đều cư
trú: thôn A, xã L, huyện C, tỉnh H.
2. Bà Hoàng Thị C, sinh năm 1974; cư trú: thôn N, xã L, huyện L, tỉnh B.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà C: bà Hoàng Thị H, sinh năm 1968;
cư trú: B, xã T, huyện Đ, tỉnh B (văn bản uỷ quyền ngày 18/10/2023).
3. Ông Hoàng Văn L, sinh năm 1976; cư trú: thôn H, xã H, huyện M, tỉnh
H.
2
4. Người thừa kế thế vị của ông Hoàng Văn V: chị Hoàng Vân A, sinh năm
1996, anh Hoàng Anh T, sinh năm 2003 (đều là con ông V). Đều cư trú tại: Tổ 15,
khu 2A, phường C, thành phố H, tỉnh Q.
Người đại diện theo uỷ quyền của chị A và anh T: bà Nguyễn Như Q, sinh
năm 1977; cư trú tại: Tổ 15, khu 2A, phường C, thành phố H, tỉnh Q.
5. Anh Hoàng Văn K1, sinh năm 1998; thôn A, xã L, huyện C, tỉnh H.
6. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: anh Trần
Đình D, sinh năm 1982 và chị Lương Thị S, sinh năm 1987; đều trú tại: thôn A,
xã L, huyện C, tỉnh H.
Người đại diện theo ủy quyền của anh D chị S: chị Hoàng Thị Y, sinh năm
1988 và chị Trần Thị E, sinh năm 1988; đều trú tại: Tầng 5, N8a8 Nguyễn Thị
Thập, phường N, quận T, thành phố H.
Người làm chứng: ông Trần Xuân Đ, sinh năm 1955; ông Hoàng Hồng
M, sinh năm 1950; ông Trần Đức B, sinh năm 1947; ông Trần Đình C1, sinh năm
1958 và bà Trần Thị L1, sinh năm 1960; ông Nguyễn Văn M1, sinh năm 1951; bà
Hồ Thị M2, sinh năm 1955; ông Trần Đình G, sinh năm 1949; đều trú tại: trú tại:
thôn A, xã L, huyện C, tỉnh H.
Tại phiên tòa có mặt bà H, bà Nt, ông P, ông L, anh S, bà Y và bà E ( là
người đại diện theo uỷ quyền của anh D chị S); vắng mặt người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan (người đại diện bà Q, bà K) và toàn bộ người làm chứng (bà
Q và bà K có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời khai trong quá trình thu thập chứng
cứ, nguyên đơn (bà Hoàng Thị H) trình bày: bố mẹ bà là cụ Hoàng Văn B và Lê
Thị F sinh được 06 người con gồm (ông Hoàng Văn P, bà, ông Hoàng Văn V, bà
Hoàng Thị C, ông Hoàng Văn L và bà Hoàng Thị N; hai cụ không có con nuôi
hay con riêng. Hai cụ có thửa đất số 03 tờ bản đồ 09, diện tích 563m
2
(hiện trạng
đo ngày 02/11/2023 là 575,4m
2
) tại thôn A, xã L; đã được cấp giấy chứng nhận
ngày 11/7/2006 mang tên Hoàng Văn B và Lê Thị F. Tháng 8/2006, cụ B chết
không để lại nghĩa vụ trả nợ, có để lại di chúc nhưng do bản di chúc không đảm
bảo theo quy định nên cụ F và các con cháu thống nhất miệng: toàn bộ thửa đất
này chia làm 4 phần: 1 phần cho ông P, 1 phần cho ông L, 1 phần cho ông V (ông
V chết thì các con ông V được hưởng); 1 phần cụ F. Tại cuộc họp cụ F đã đồng ý
cho 3 cô con gái là ( bà, bà C và bà N) phần của cụ. Sau đó vào 1 ngày tháng
7/2019 âm lịch tất cả các thành viên trong gia đình đã ra UBND xã Lương Điền
để từ chối quyền thừa kế tài sản của cụ B và nhường quyền thừa kế cho cụ F để
cụ F đứng tên chủ sử dụng hợp pháp toàn bộ thửa đất, tiện cho việc sau này tách
3
thửa cho các phần như đã thống nhất. Chính vì vậy, tại trang 4 giấy chứng nhận
được cấp có thẩm quyền công nhận cụ Lê Thị F là chủ sử dụng đất kể từ ngày
24/10/2019; về việc này bà không có thắc mắc, khiếu nại. Sau khi cụ B chết cụ F
là người quản lý sử dụng toàn bộ thửa đất đến lúc cụ chết, ngoài ra còn có vợ
chồng ông P cũng sinh sống trên thửa đất. Tháng 3/2020 bà N điện cho bà nói: L
ép mẹ bán đất cho vợ chồng D, S và họ đã xây nhà rồi; chị em bà gửi đơn đến
UBND xã Lương Điền, chính vì thế việc đổi sổ của cụ F phải dừng lại. Bà có hỏi
cụ F việc bán đất cho nhà D,S thì cụ nói: phần đất đó trước đây thống nhất cho L
và L đã ép mẹ phải chấp nhận bán cho vợ chồng D,S. Nay vợ chồng ông D,S có
yêu cầu độc lập và giao nộp cho Tòa án Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất thì bà mới biết có hợp đồng chuyển nhượng và dấu vân tay mực đỏ của cụ Lý,
nhưng cụ Lý đã chết không thể xác nhận được có đúng là dấu vân tay của cụ Lý
hay không. Cụ Lý biết chữ, biết viết, biết ký, đọc được mà trong hợp đồng lại
không có chữ ký và chữ viết họ tên của cụ Lý; cái gì khẳng định dấu điểm chỉ
trong hợp đồng là của cụ Lý, do vậy bà không chấp nhận yêu cầu của vợ chồng
anh D,S. Cụ F có tiêu chuẩn đất 03 đã cho ông P sử dụng, các công trình của các
cụ từ xa xưa cũ nát không còn giá trị sử dụng và giá trị kinh tế, bà không yêu cầu
giải quyết. Vợ chồng ông P ở trên đất từ khi các cụ vẫn còn sống đến nay, có công
sức trông nom, duy trì thửa đất; bà đồng ý trích trả công sức cho vợ chồng ông P,
còn trích bao nhiêu tuỳ toà án tính toán cho phù hợp. Bà tự nguyện chịu cả tiền
chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, không yêu cầu Tòa án giải
quyết. Cụ F chết năm 2020 không để lại di chúc, bà khởi kiện yêu cầu: Xác định
di sản của cụ Lê Thị F là thửa đất số 03 tờ bản đồ số 09, diện tích 563m
2
(đo hiện
trạng ngày 02/11/2023 là 575,4m
2
) tại thôn A, xã L, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải
Dương; đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 503587 mang tên
Lê Thị F và chia di sản bằng hiện vật theo pháp luật. Sau khi xem xét thẩm định
tại chỗ bà bổ sung di sản của cụ Lý còn 01 ngôi nhà ba gian cấp 4 xây từ năm
1982. Đối với việc ông L tự ý bán đất cho ông Trần Đình D, diện tích bao nhiêu
chưa rõ, nếu diện tích đất bán nhiều hơn kỷ phần di sản ông được hưởng thì ông
L phải có trách nhiệm trả chênh lệch cho hàng thừa kế khác. Đối với diện tích đất
ông P đã có công trình sử dụng ưu tiên giao cho ông P, nếu diện tích có công
trình nhiều hơn kỷ phần được hưởng thì có trách nhiệm trả chênh lệch cho người
khác.
Nguyên đơn giao nộp: Trích lục khai tử cụ F, cụ B, ông V; Biên bản hoà
giải; bản sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Hoàng Văn B và Lê
Thị F; Bản phô tô (mô tả ranh giới mốc giới; bản đồ 299 và 1994).
Người đại diện theo uỷ quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
4
quan yêu cầu độc lập trình bày: Do có nhu cầu mua đất làm nhà ở và biết cụ F
cùng xóm muốn bán đất nên ngày 29/10/2019, vợ chồng anh D và cụ F có ký Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 147m
2
đất tại thửa đất số 03 tờ bản đồ số 09
tại thôn A, xã L, huyện Cẩm Giàng; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số AG503587, Số vào sổ cấp GCN:
H 00360/QSDĐ/LĐ-CG do UBND huyện Cẩm Giàng cấp ngày 11/07/2016. Ngày
24/10/2019, Văn phòng đăng ký đất đai huyện Cẩm Giàng đã đăng ký biến động
mang tên chủ sử dụng đất là Lê Thị F (tại trang 4 của giấy chứng nhận). Theo thoả
thuận: diện tích 147m
2
đất chuyển nhượng được mô tả như sau: Phía Đông giáp
đường làng dài: 06m; Phía Tây giáp nhà ông G dài: 06m; Phía Nam giáp đất nhà
bà M2 dài 24,5m; Phía Bắc giáp đất còn lại của bà F dài 24,5m; thời hạn thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng sau khi cấp đổi lại giấy chứng nhận sẽ thực hiện
việc chuyển quyền theo quy định; ông D được xây dựng công trình trên diện tích
đất chuyển nhượng kể từ ngày ký hợp đồng. Ngay sau khi cụ F điểm chỉ hợp đồng
chuyển nhượng, vợ chồng anh D đã thanh toán toàn bộ số tiền chuyển nhượng
cho cụ F là 280.000.000đ, cụ F đã bàn giao đất cho vợ chồng anh D quản lý, xây
dựng ngay nhà 2,5 tầng, cổng, hàng rào bao quanh và sử dụng liên tục, ổn định từ
đó đến nay. Cụ F đang chờ làm thủ tục cấp đổi lại bìa, vợ chồng anh D đang tiến
hành thủ tục đo vẽ để tách thửa thì cuối năm 2020 cụ F chết nên mọi thủ tục chưa
thực hiện được. Nay biết bà H yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ F thì anh D chị
S yêu cầu:
1. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng
anh Trần Đình D và cụ Lê Thị F ký ngày 29/10/2019 đối với 147m
2
thuộc một
phần thửa đất số 03, tờ bản đồ số 09 tại địa chỉ: thôn A, xã L, huyện Cẩm Giàng,
tỉnh Hải Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số AG503587, Số vào sổ cấp GCN: H
00360/QSDĐ/LĐ-CG do UBND huyện Cẩm Giàng cấp ngày 11/07/2016; Ngày
24/10/2019, Văn phòng đăng ký đất đai huyện Cẩm Giàng đã đăng ký biến động
mang tên chủ sử dụng đất là cụ Lê Thị F.
Sau khi xem xét thẩm định hiện trạng vợ chồng anh D đang sử dụng 149m
2
;
đề nghị Toà án công nhận diện tích 149m
2
(trong đó có 147m
2
đất đã chuyển
nhượng theo Hợp đồng ký ngày 29/10/2019); vợ chồng anh D sẽ trả giá trị 02m
2
đất.
2. Yêu cầu những người thừa kế quyền, nghĩa vụ của cụ Lê Thị F phải thực
hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng theo thỏa thuận để vợ chồng anh D thực hiện
thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyến sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất đối với diện tích nhận chuyển nhượng theo quy định pháp
5
luật.
Anh D giao nộp: trích lục đo vẽ bổ sung bản đồ địa chính, Phiếu nhận kết
quả đo đạc hiện trạng thửa đất; Giấy uỷ quyền, Hợp đồng chuyển nhượng ngày
29/10/2019;
Tại Bản tự khai và lời khai bị đơn (bà Hoàng Thị N) xác nhận: về diện
hàng thừa kế và di sản của cụ F để lại như Nguyên đơn trình bày là đúng. Bà nhất
trí yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các vấn đề nguyên đơn trình bày; không
đồng ý yêu cầu độc lập của vợ chồng anh D.
Tại Bản tự khai và lời khai người có quyền lợi liên quan (ông Hoàng
Văn P và bà Vũ K) trình bày: về diện hàng thừa kế và tài sản của cụ F để lại như
Nguyên đơn trình bày là đúng. Thực chất cụ F không muốn bán đất nhưng vì ông
L đòi quá nên cụ F cũng đồng ý bán cho vợ chồng D, S 06m mặt đường, cạnh đối
diện cũng 06m, chiều dài chạy hết đất. Việc mua bán ông không được bàn bạc,
không được tham gia và không biết việc giao tiền, ông chỉ được chứng kiến khi
cán bộ xã, cán bộ đo máy và cụ F, chú L, vợ chồng D, S và có nhiều người khác
chứng kiến việc khảo sát đo đất, xác định ranh giới, mốc giới đất để bàn giao cho
vợ chồng anh D. Hôm đó, ông có tuyên bố với vợ chồng anh D là: Mọi người
muốn làm gì thì làm, nhưng đất mua bán đúng 06m mặt đường đầu đuôi như nhau,
chiều sâu chạy hết đất, cứ thế mà làm mà nhận, thừa 01 phân cũng phải trả lại cho
mẹ tôi. Nay coi như xuất đất cụ F bán là xuất của ông L. Diện tích còn lại cụ F
vẫn quản lý sử dụng cho đến chết (năm 2020) thì vợ chồng ông tiếp tục quản lý
sử dụng đến nay. Trước khi chết cụ F có để lại di chúc đề ngày 16/6/2020 có nội
dung: 1 phần của cụ F để lại cho cháu đích tôn Hoàng Văn K1. Bản di chúc do cụ
F nhờ người khác viết hộ và có 2 người làm chứng là ông Đ trưởng thôn lúc đó
và ông L. Nếu Tòa án đánh giá bản di chúc này không hợp pháp thì diện tích đất
còn lại (sau khi trừ đất bán cho anh D) cứ để nguyên sau này cho anh K1 là cháu
đích tôn quản lý sử dụng thờ cúng các cụ. Ông không yêu cầu giải quyết về đất
03 của cụ F và các các công trình cũ nát không còn giá trị sử dụng và giá trị kinh
tế. Ông không đồng ý yêu cầu chia thừa kế của bà H vì bà H là con gái đã đi lấy
chồng không có quyền về đòi chia đất của bố mẹ. Thửa đất của cụ Lý để lại vẫn
ổn định, nguyên trạng, đề nghị Tòa án công nhận diện tích đất thực tế của cụ F để
giải quyết trong vụ án này.
Ông bà ở trên thửa đất từ khi các cụ vẫn còn sống và trực tiếp trông nom,
duy trì thửa đất từ khi cụ F chết đến nay, ông bà yêu cầu xem xét công sức cho đỡ
thiệt thòi.
Tại Bản tự khai và lời khai người có quyền lợi liên quan (ông Hoàng
Văn L) trình bày: về diện hàng thừa kế và tài sản của cụ F để lại như Nguyên đơn
6
trình bày là đúng. Ông không đồng ý xác định toàn bộ thửa đất là di sản. Ông nhất
trí yêu cầu độc lập của vợ chồng anh D vì ông có chứng kiến việc ký hợp đồng,
giao đất của cụ F cho vợ chồng anh D, ông là người kiểm đếm tiền hộ cụ F. Lý do
trong hợp đồng chỉ có dấu điểm chỉ mà không có chữ ký của của cụ F là vì mọi
người nói bản hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất này chưa được chứng thực,
phải chờ đổi sổ sang tên cụ F xong thì hai bên ra xã làm thủ tục chuyển nhượng
chính thức nên chỉ cần cụ F điểm chỉ là được. Diện tích của cụ F sau khi trừ đi
diện tích bán cho vợ chồng anh D, diện tích còn lại ông đồng ý chia thừa kế theo
pháp luật cho 6 kỷ phần bằng hiện vật. Ông không đồng ý trích trả công sức cho
vợ chồng ông P. Đối với bản di chúc ngày 16/6/2020 do ông P giao nộp ông không
biết ai viết, viết khi nào nhưng khoảng tháng 6/2020 âm lịch, sau khi cụ F nằm
viện lần thứ nhất về thì vợ chồng ông P có đưa cho ông tờ giấy học sinh ô ly và
bảo ông ký vào đó. Ông cầm giấy bút ký luôn vào phía dưới cuối cùng các dòng
chữ mà không đọc nội dung; khi ông ký đã có sẵn chữ ký và họ tên Trần Xuân Đ;
Người đại diện theo ủy quyền của chị Hoàng Vân A và anh Hoàng Anh
T ( bà Q) trình bày: về diện hàng thừa kế và tài sản của cụ F để lại như Nguyên
đơn trình bày là đúng. Việc gia đình anh D xây trên đất của cụ F, bà có hỏi thì cụ
F nói là cụ F cùng chú L đã bán cho vợ chồng anh D phần đất dự chia cho chú L
nên coi phần đất bán là của chú L đã bán cho nhà D, S; nay vợ chồng anh D chị S
có yêu cầu độc lập đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật. Diện
tích còn lại cụ F quản lý đến khi chết thì vợ chồng ông P tiếp tục quản lý cho đến
nay; vợ chồng ông P ở cùng các cụ nên có công sức trông nom duy trì thửa đất,
nhất trí trả công sức cho vợ chồng ông P. Trước khi cụ F chết có để lại di chúc
hay không thì bà không biết, nếu có di chúc thì đề nghị Toà án đánh giá xem bản
di chúc đó có hợp pháp hay không và giải quyết theo quy định của pháp luật. Bà
không đồng ý chia thừa kế theo pháp luật cho 6 phần vì bà H là con gái đã đi lấy
chồng, không có quyền yêu cầu chia thừa kế đất của bố mẹ; nếu Toà án có căn cứ
chấp nhận chia thừa kế di sản của cụ F theo pháp luật, các con bà xin hưởng kỷ
phần của ông V bằng hiện vật và giao cho anh T đứng tên.
Lời khai của người có quyền lợi liên quan (anh Hoàng Văn K1) trình
bày: Vào 1 ngày tháng 6/2020, cụ F đưa cho anh tờ giấy có tiêu đề là “Dy trúc”
và bảo anh giữ lấy sau này có gì thì bỏ ra. Anh không nhớ trước hay sau thời điểm
này anh có chở cụ F ra xã gặp cán bộ địa chính, cụ F nói chuyện với cán bộ địa
chính về việc tách đất gì đó thì cán bộ địa chính giải thích với cụ F rằng: bà bán
đất cho nhà D, S đến nay địa phương chưa làm thủ tục chuyển quyền cho họ được
vì bà chưa làm thủ tục cấp đổi lại bìa; nay bà muốn tách thì cũng phải chờ thủ
tục cấp đổi lại bìa đã rồi mới tách tiếp cho ai thì tách. Sau đó anh đưa lại bản di
7
chúc cho ông P giữ hộ. Anh đề nghị Toà án xem xét đánh giá bản di chúc ngày
16/6/2020 do ông P giao nộp, nếu bản di chúc hợp pháp thì không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của bà H và để tự gia đình giải quyết chia di sản của cụ F theo di
chúc, anh không yêu cầu chia di sản của cụ F theo di chúc.
Lời khai Người làm chứng:
Ông Hoàng Văn M trình bày: ông là em ruột cụ B và cụ F là chị dâu. Thời
gian lâu rồi ông không nhớ, gần trưa của 1 ngày ông đến nhà cụ F chơi thì cụ F
nói: chúng nó tranh nhau đất, còn 1 suất của ông bà tao cho cháu đích tôn, nhờ
chú viết hộ giấy. Cụ F đưa tờ giấy học sinh và cây bút, ông ngồi tại nhà cụ F viết
hộ bản Dy trúc đề ngày 16/6/2020. Khi ông ngồi viết bản di chúc này tại nhà cụ
F thì trong nhà lúc đó chỉ có ông và cụ F và bọn trẻ con đang chơi đùa trong nhà,
ngoài ra không còn có ai. Sau khi viết xong ông đưa tờ giấy cho cụ F, còn ông đi
về. Cụ F cầm giấy sau đó làm gì hay đưa cho ai ông không biết. Ông xác nhận
toàn bộ nội dung từ dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa……đến hết dòng chữ
người làm di chúc là do ông viết, chữ Lê Thị F là do cụ F viết.
Ông Trần Xuân Đ xác nhận: có 5 dòng chữ bút mực bi màu xanh nội dung:
Xác nhận Đơn trình bày của bà Lê Thị F ngày 16/6/2020, T2 và chữ ký, chữ viết
Trần Xuân Đ là do ông viết. Ông không nhớ ngày tháng năm, nhưng vào một buổi
gần trưa năm nào ông không nhớ bà F cầm tờ giấy ô ly học sinh sang nhà ông và
nói: các con trai thì tao chia đều hết rồi, còn suất của vợ chồng tao thì cho cháu
đích tôn và cụ F bảo ông là: cháu ký vào đây giúp tao để sau này chúng nó không
tranh giành gì. Ông cầm giấy đọc qua đúng như lời cụ F nói thì ông xác nhận với
tư cách trưởng thôn. Ngày ông ghi trong giấy chính là ngày ông ký xác nhận; ai
viết thì ông không hỏi nên không biết. Khi ký ông có nhìn thấy toàn bộ nội dung
văn bản và dòng chữ Lê Thị F đã có sẵn rồi, có phải cụ F viết và ký hay không
ông không biết. Lúc đó chưa có chữ ký và chữ viết Hoàng Văn L.
Ông Trần Đình C1 và bà Trần Thị L1 trình bày: Sự việc mua bán đất của
gia đình cụ F như thế nào ông bà không biết. Vào khoảng tháng 8,9/2019 (âm lịch)
cụ F sang nhà chơi nói chuyện cụ bán một phần đất dự kiến cho L cho vợ chồng
anh D con ông Ng; giấy tờ tiền bạc đã xong hết, anh D sẽ xây nhà luôn. Ông bà
chỉ biết có vậy, không biết cụ F bán diện tích bao nhiêu, bán được bao nhiêu tiền.
Ông Nguyễn Văn M1 trình bày: Sự việc mua bán đất của gia đình cụ F như
thế nào ông không biết, nhưng việc cụ F bán đất cho nhà anh D là thật, vì vào 1
ngày cuối năm 2019, ông thấy bên nhà cụ F rất đông người, ông sang xem thì thấy
có cụ F, anh L, anh P, vợ chồng anh D, cán bộ địa chính xã, có cả 1-2 người đo
máy và còn vài người hàng xóm cũng có mặt sang xem. Ông thấy cán bộ địa chính
mang cả bản đồ vẽ, mọi người cũng đã đối chiếu ranh giới phía bên nhà bà M2
8
ông G. Lúc đo còn thiếu một ít thì cụ F và gia đình còn cho thợ phá một ít đầu hồi
nhà cấp bốn của cụ F đang ở để trả đủ đất bán cho anh D. Lúc đó ông P còn nói:
Cứ đo đủ 6m trả anh D, sang 1 phân cũng phải trả lại. Ông nghĩ việc bán đất giữa
anh D và cụ F đều có sự đồng thuận bên gia đình cụ F. Cụ F có 3 con trai thì lúc
đó đã có 2 con trai ở đó rồi. Sau khi đo hai bên giao đất xong thì anh D làm nhà
luôn. Hai bên làm giấy tờ mua bán, giá đất như thế nào ông không biết, ông nghe
cụ F nói là chưa đến 300 triệu.
Ông Trần Đức B trình bày: vào buổi sáng một ngày tháng 9/2019 (âm lịch ),
ông đang ở nhà thì cán bộ địa chính xã L đến nhờ ông sang nhà cụ F để chứng
kiến việc đo đạc ranh giới và việc bàn giao đất bán của cụ F cho vợ chồng anh D
chị S. Khi ông sang đến nơi thì thấy có nhiều người như cụ F, anh L, anh P, vợ
chồng D, ông Ng bà Đ, bà Nh, ông M1, bà M2 và ông Đ trưởng thôn…còn 1 số
người hàng xóm sang xem; đội đo máy khảo sát, kích thước diện tích đất bán thì
ông mới biết là cụ F bán đất cho vợ chồng anh D 6m đất mặt đường ngõ, chiều
sâu chạy hết đất. Cán bộ địa chính giúp hai bên xác nhận ranh giới với hộ liền kề
nhà bà M2; khi xác định ranh giới với phần đất còn lại của cụ F thì diện tích đất
bán cho anh D vẫn còn thiếu 20cm mới đủ 6m chiều ngang nên ngay lúc đó nhà
cụ F thuê thợ tháo dỡ bức tường đầu hồi nhà cụ F đang ở để trả lại đủ diện tích
đất cho anh D. Sau đó cán bộ xã, trưởng thôn và hai bên mua bán hoàn tất thủ tục
ký hợp đồng chuyển nhượng đất như thế nào thì các bên tự làm, ông không tham
gia.
Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, định giá và sơ đồ thể hiện:
Về đất ở: thửa đất số 03, tờ bản đồ số 09 tại thôn A, xã L, huyện Cẩm
Giàng có: Cạnh đất phía Đông giáp đường ngõ bê tông; Cạnh đất phía Tây giáp
thửa đất của ông Trần Đình G; Cạnh đất phía Nam giáp thửa đất của bà Hồ Thị
M2; Cạnh đất phía Bắc giáp ngõ đi (bằng bê tông) vào thửa đất nhà ông Trần Đình
G; kích thước các cạnh có sơ đồ đo vẽ kèm theo. Tổng diện tích cả thửa gồm: S1=
426,4m
2
+ S2= 149m
2
. Đất thuộc nhóm 1, khu vực 2, vị trí 2 có giá thị trường là
4.500.000/m
2
(đất ở nông thôn).
Công trình trên đất: Các tài sản do anh D chị S xây dựng năm 2019 gồm:
01 ngôi nhà 02 tầng bê tông cốt thép 118,3m
2
giá trị còn lại 1.291.000.000đ; cổng
gang giá trị còn lại 3.538.000đ; mái nhựa giá trị còn lại 5.387.000đ; sân lát gạch
giá trị còn lại 6.468.000đ; rào sắt trên tường giá trị còn lại 7.744.000đ. 01 nhà
xây năm 1982, mái lợp ngói diện tích 45,3m
2
của cụ Lý giá trị còn lại 23.556.000đ;
Các tài sản của ông P, bà K gồm: 01 ngôi nhà 02 tầng bê tông cốt thép 51,4m
2
xây
năm 2004 giá trị còn lại: 160.368.000đ; 01 ngôi nhà hai gian lợp tôn lạnh (bếp)
17,3m
2
xây năm 2004 giá trị còn lại: 5.837.000đ; 01 nhà tắm mới lợp pro xi măng
9
xây năm 2004 diện tích 3,3m
2
giá trị còn lại 528.000đ; 01 bể nước nổi xây năm
2004 diện tích 1,4m
2
giá trị còn lại 403.000đ; Chuồng lợn xây năm 2004 mái lợp
pro xi măng diện tích 17,9m
2
giá trị còn lại 1.044.000đ; 01 nhà kho xây năm 1982,
mái lợp ngói diện tích 23,34m
2
giá trị còn lại 1.400.000đ; 01 chuồng gà xây năm
2019, mái lợp pro xi măng diện tích 3,3m
2
giá trị còn lại 1.200.000đ; 01 mái tôn
làm năm 2004 diện tích 22,8m
2
giá trị còn lại 1.338.000đ; 01 sân lát gạch đỏ xây
năm 2019 diện tích 92,6m
2
giá trị còn lại 22.372.000đ; Sân láng xi măng xây năm
2004 diện tích 40m
2
giá trị còn lại 343.000đ; Tường bao xây gạch chỉ năm 2019
giá trị còn lại 483.000đ; Cổng sắt làm năm 2019 giá trị còn lại 4.908.000đ; tường
rào hoa sắt xây năm 2019 giá trị còn lại 1.003.000đ. Cây cối trên đất do vợ chồng
ông P trồng: cây cau đường kính gốc hơn 20cm: 400.000đ, cây nhãn đường kính
tám 1,5-2m: 250.000đ; cây hồng xiêm đường kính tám 4-5m: 220.000đ; cây bưởi
đường kính gốc 9-12cm: 200.000đ; cây na đường kính gốc 9-12cm: 210.000đ
Tại Biên bản xác minh, UBND xã Lương Điền cung cấp:
1. Nguồn gốc thửa đất số 03 tờ bản đồ số 09 tại thôn A, xã Lương Điền,
huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương: Theo hồ sơ 299 gồm (sổ mục kê 299 và tờ
bản đồ số 02) là thửa số 16; diện tích 544m
2
, loại đất T; chủ sử dụng Hoàng Văn
B. Theo hồ sơ năm 1994 gồm (sổ mục kê 1994 và tờ bản đồ số 09) là thửa số 03;
diện tích 563m
2
, loại đất T; chủ sử dụng Hoàng Văn B. Ngày 11 tháng 7 năm
2006, UBND huyện Cẩm Giàng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
Hoàng Văn B và bà Lê Thị F. Theo hồ sơ đo đạc năm 2008 được phê duyệt năm
2013: Thửa đất của cụ B, cụ F được tách làm 2: Thửa 1: Tờ bản đồ số 20; thửa số
04; diện tích 148m
2
, loại đất ONT; chủ sử dụng Hoàng Văn P; Thửa 2:Tờ bản đồ
số 20; thửa số 03; diện tích 427m
2
, loại đất ONT; chủ sử dụng Lê Thị F. Lý do
diện tích đất theo bản đồ đo đạc năm 2008 (575m
2
) so với diện tích đất theo bản
đồ cấp giấy năm 1994 (563m
2
) tăng 12m
2
là do sai số đo đạc và tính toán giữa 2
thời kỳ. Việc ông P đứng tên chủ sử dụng tại thửa đất số 04 là do năm 2008 là do
ông P tự kê khai, không làm thay đổi quyền sử dụng đất của cụ B cụ F. Cụ B cụ
F chưa làm thủ tục, chưa có đơn từ thể hiện việc đề nghị tách đất cho ông P. Sau
khi cụ B chết vào tháng 8/2006, cụ F là người trực tiếp quản lý thửa đất đến ngày
02/10/2019 thì cụ F và những người thuộc hàng thừa kế của cụ B đã đến UBND
xã Lương Điền giao nộp lại 01 văn bản Di chúc của cụ B và ký vào Văn bản thoả
thuận phân chia di sản. Ngày 24/10/2019 Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
đã xác nhận nội dung thay đổi sau khi cấp giấy tại trang 4 giấy như sau: bà Lê
Thị F, sinh năm 1945, số CMND 140832141; hộ khẩu thường trú thôn A, xã
Lương Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương; nhận thừa kế quyền sử dụng
thửa đất số 03 tờ bản đồ số 09, diện tịch 563m2, đất ở tại nông thôn, theo văn bản
10
thoả thuận phân chia di sản số 110, quyển số 01, được UBND xã Lương Điền
chứng thực ngày 02/10/2019.
2. Ngay sau khi cụ F được xác nhận là chủ sử dụng đất tại trang 4 của giấy
chứng nhận thì cụ F đã đến UBND xã Lương Điền nhờ hướng dẫn làm thủ tục cấp
đổi lại giấy chứng nhận sang tên cụ. Đang trong quá trình UBND xã Lương Điền
làm thủ tục cấp đổi bìa thì cụ F lại có nhu cầu bán đất ngay cho vợ chồng anh Trần
Đình D, chị Lương Thị S. UBND xã đã giải thích cho cụ F biết: Để thực hiện được
việc chuyển nhượng cho vợ chồng anh D thì cụ F phải chờ làm xong thủ tục cấp
đổi lại giấy chứng nhận sang tên cụ F. Nhưng ngày 29/10/2019, cụ F đã nhờ
UBND xã Lương Điền đến gia đình, nhờ đội đo đến giúp gia đình đo đất để cụ F
bàn giao đất cho gia đình anh Trần Đình D. Ngay hôm đó, cán bộ địa chính và
cán bộ đo đã có mặt tại gia đình cụ F. Việc giá cả mua bán bao nhiêu, giao tiền
giữa hai bên mua bán như thế nào thì UBND xã không để ý, hai bên tự chịu trách
nhiệm với nhau. Do nhu cầu của gia đình nên Cán bộ địa chính xã đã hướng dẫn
giúp gia đình về thủ tục, đo đất và bàn giao đất theo thoả thuận mua bán giữa hai
bên. Việc thiết lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và các tài liệu có
liên quan giữa cụ F và vợ chồng anh D chị S như thế nào tự hai bên thực hiện, địa
phương không can thiệp; UBND xã Lương Điền cũng không nhận được bản Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nào giữa hai bên. Tại gia đình cụ F ngày
bàn giao đất có mặt cụ F có cụ F, anh L, anh P. Theo gia đình cụ F và gia đình
anh D cho biết mọi việc giao tiền giữa hai bên đã xong mới thực hiện bàn giao
đất. Do hai bên thoả thuận bán 06m mặt đường chạy thẳng vào hết đất nên khi đo
bàn giao đất trống chỉ có 5,8m mặt đường, còn thiếu 20 phân đất bán cho anh D;
gia đình cụ F đã nhờ thợ đến tháo dỡ 1 phần gian đầu hồi nhà để trả đủ đất bán
cho anh D. Sau đó đầu hồi nhà cụ F được xây lại. Ngay sau khi bàn giao đất xong,
gia đình anh D đã xây nhà vào cuối năm 2019. Quá trình gia đình anh D xây nhà,
UBND xã Lương Điền không nhận được đơn từ gì của cụ F và các con cụ F.
3. Khi đo vẽ hiện trạng ngày 02/11/2023, các hộ liền kề là bà M2, ông G
đều xác định không tranh chấp về ranh giới mốc giới. Toàn bộ thửa đất của cụ F
gồm diện tích S1=426,4m
2
do ông P quản lý và S2 = 149m
2
do ông D quản lý.
Tổng diện tích là 575,4m
2
. Đối chiếu diện tích hiện trạng đất đo ngày 02/11/2023
(575,4m
2
)so với diện tích đất tại bản đồ cấp giấy năm 1994 và Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (là 563m
2
) có tăng 12,4m
2
; số đo cạnh cơ bản ổn định. Thực tế
các hộ liền kề không có tranh chấp, gia đình cụ F không lấn chiếm đất của ai,
không mua thêm đất của hộ nào, do vậy việc tăng 12,4m
2
là do sai số tính toán
trong quá trình đo đạc qua các thời kỳ. Diện tích 575,4m
2
là đất hợp pháp nguyên
thửa của cụ F.
11
4. Quan điểm của địa phương: Khi cụ F còn sống khoẻ mạnh, có việc
chuyển nhượng đất cho vợ chồng anh Trần Đình D nhưng chưa hoàn thiện về thủ
tục, vợ chồng anh D đã xây nhà sinh sống trên đất, cụ F và các con không ai có ý
kiến gì. Nay cụ F chết có để lại thửa đất số 03 tờ bản đồ 09 tại thôn A, xã Lương
Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương; diện tích hiện trạng là 575,4m
2
. Đề nghị
Toà án xem xét công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ F
và anh D chị S; diện tích đất của cụ F còn lại sẽ là di sản và chia theo quy định
của pháp luật nếu cụ F không để lại di chúc hợp pháp.
Tại phiên họp về kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ, hoà
giải các đương sự không thống nhất được việc giải quyết vụ án và đều đề nghị
giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên toà:
Bà H là nguyên đơn đồng thời là người đại diện theo uỷ quyền của bà C
vẫn giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện và lời trình bày trong quá trình giải quyết
vụ án; không đồng ý yêu cầu độc lập của anh D, chị S.
Bị đơn (bà N) đồng ý các yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn và không đồng ý
yêu cầu độc lập của anh D chị S.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (ông P) không đồng ý yêu cầu khởi
kiện của bà H và không đồng ý yêu cầu độc lập của anh D chị S; đề nghị trả công sức
trông nom duy trì thửa đất hương hoả cho gia tiên và xem xét bản di chúc ông giao nộp.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (ông L) đồng ý chia di sản thừa kế của
cụ F theo pháp luật và đồng ý yêu cầu độc lập của anh D chị S; không đồng ý xác định
cả thửa là di sản.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (anh K1) đồng ý với ý kiến của ông P.
Người đại diện cho anh D, chị S: giữ nguyên yêu cầu độc lập. Đề nghị công
nhận QSD đất 149m
2
theo hiện trạng và nhất trí trả tiền cho người thừa kế.
Quan điểm của đại diện VKSND huyện Cẩm Giàng: Về việc tuân theo pháp luật
của những người tham gia tố tụng và những người tiền hành tố tụng: Nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ
theo quy định tại Điều 70, 71, 72, 73 Bộ luật tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết
vụ án:
- Đề nghị áp dụng Điều 116, Điều 117, Điều 118, khoản 2 Điều 129, Điều
615 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 167 Luật đất đai năm 2013; Công
nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh D, chị S và bà F ký
kết ngày 24/10/2019 đối với diện tích 147 m
2
thuộc một phần thửa đất số 03, tờ
bản đồ số 09 ở thôn A, xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng. Anh D, chị S có nghĩa
vụ trả những người thuộc diện thừa kế của cụ F số tiền 9.000.000đ;
12
- Đề nghị áp dụng Điều 609, 610, 611, 612, 613, 623, 649, 650, 651, 652,
660 BLDS 2015; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 59 Luật Hôn nhân và gia
đình; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án, xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị H:
+ Xác định di sản cụ F để lại là diện tích 426,4 m
2
thửa số 03, tờ bản đồ số
09, thôn A, xã Lương Điền.
+ Ngôi nhà cấp 4 ba gian cũ lợp ngói và proxi măng.
+ Số tiền 9.000.000đ (anh D, chị S có nghĩa vụ trả)
Tổng trị giá tài sản là di sản của cụ F, sau khi trích một phần công sức cho
ông P công sức trôm nom, duy trì tài sản và thờ cúng cho ông P, sẽ chia đều cho
6 người: ông P, bà H, bà C, bà N, ông L, ông V (ông V chết, phần của ông V chị
Vân A và anh T được hưởng, mỗi người được hưởng ½ kỷ phần).
Bà C, bà N tặng cho bà H phần di sản được thừa kế, bà H được hưởng bằng
3 kỷ phần.
+ Giao cho ông P phần diện tích đất có xây dựng ngôi nhà 02 tầng của ông
P, phần chiều rộng giáp mặt đường dài 5,13m;
+ Giao cho chị Vân A, anh T, phần diện tích bên cạnh nhà ông P, chiều
rộng giáp mặt đường dài 4m.
+ Giao cho ông L, phần diện tích bên cạnh diện tích chị Vân A và anh T
được giao, chiều rộng giáp mặt đường dài 4m.
+ Giao cho bà H phần diện tích còn lại, trên đất có tài sản là ngôi nhà cấp
4 của cụ F để lại.
Ai được hưởng nhiều hơn phần kỷ phần được hưởng sẽ phải trả chênh lệch
cho những người còn lại.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H về yêu cầu chia di sản thừa
kế là diện tích 147 m
2
đất cụ Lý đã bán cho anh D, chị S;
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H về việc, yêu cầu chia cho
ông L phần đất đã bán cho anh D, chị S.
Về án phí: Bà H, ông P, ông L, chị Vân A, anh T, anh D, chị S, phải chịu án
phí theo quy định của pháp luật.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra công khai tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ,
ý kiến của các đương sự,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
1. Về tố tụng:
13
[1.1] Thẩm quyền giải quyết: bà H có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế
của mẹ đẻ (là cụ Lê Thị F) đối với bị đơn bà N cư trú thôn B, xã N, huyện Cẩm
Giàng. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố
tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Giàng.
[1.2] Thời hiệu khởi kiện: theo giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện số 19
ngày 02/10/2023 của Toà án nhân dân huyện Cẩm Giàng và tài liệu khởi kiện, thể
hiện người khởi kiện là bà H; nội dung đơn yêu cầu chia thừa kế di sản do mẹ đẻ
để lại. Căn cứ Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015, thời hiệu để người thừa kế yêu
cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế tức là
ngày người để lại di sản thừa kế chết. Theo Trích lục khai tử số 66/TLKT ngày
11/12/2020 do nguyên đơn giao nộp, thể hiện cụ Lê Thị F chết ngày 11/12/2020;
HĐXX xác định nguyên đơn gửi Đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Cẩm
Giàng đề nghị chia di sản thừa kế của cụ F còn nằm trong thời hiệu khởi kiện.
[1.3] Quan hệ pháp luật: bà H đề nghị Toà án chia thừa kế di sản của cụ F
theo pháp luật vì khi chết cụ F không để lại di chúc. Tài sản cụ để lại hiện tại do
vợ chồng ông P đang quản lý nhưng bà và các đồng thừa kế không thống nhất
được việc chia. Căn cứ khoản 5 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 609; Điều
650, Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015, xác định tranh chấp giữa bà H và bà N là
quan hệ pháp luật "tranh chấp về thừa kế tài sản".
[1.4] Người tham gia tố tụng: bà K, bà Q (đại diện cho chị Vân A và anh T)
là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần
thứ hai nhưng vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt); căn cứ khoản 1 Điều 228
Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
2.Về nội dung:
[2.1]. Nguồn gốc thửa đất: theo bản đồ và sổ mục kê 299, thửa đất của cụ
F được thể hiện là thửa số 16 tờ bản đồ số 02 diện tích 544m
2
, loại đất (T) chủ sử
dụng Hoàng Văn B. Theo bản đồ và sổ mục kê năm 1994 thể hiện là thửa số 03,
tờ bản đồ số 09, diện tích 563m
2
, loại đất (T) chủ sử dụng Hoàng Văn B. Năm
2006, UBND huyện Cẩm Giàng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát
hành AG 503587 ngày 11/7/2006 cho cụ Hoàng Văn B và Lê Thị F diện tích
563m
2
. Sau khi cụ B chết năm 2006; ngày 02/10/2019, cụ F và những người thuộc
hàng thừa kế đã thống nhất ký Văn bản thoả thuận phân chia di sản. Chính vì vậy,
tại trang 4 của GCNQSD đất số AG 503587, Cơ quan có thẩm quyền đã xác nhận
cụ Lê Thị F nhận thừa kế quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên thửa số 03 tờ
bản đồ số 09 diện tích 563m
2
đất ở nông thôn tại thôn A, xã Lương Điền từ ngày
24/10/2023. Thửa đất có 2 cạnh (phía Đông và Bắc) giáp đường bê tông xóm ổn
định, không lấn chiếm đất công; 2 cạnh (Tây và Nam) giáp hộ ông G và bà M2,
14
ranh giới ổn định đều được xây tường 10 ngăn cách, không có tranh chấp. Sau khi
Toà án đo thẩm định hiện trạng được diện tích 575,4m
2
, có tăng so với diện tích
được cấp giấy là 12,4m
2
, các đương sự và UBND xã Lương Điền xác định cụ F
sử dụng nguyên thửa từ trước tới nay, lý do tăng là do sai số tính toán trong quá
trình đo đạc qua các thời kỳ nên diện tích 575,4m
2
là đất hợp pháp của cụ F để
xem xét giải quyết trong vụ án này.
[2.2]. Xét việc anh Trần Đình D và chị Hoàng Thị S yêu cầu công nhận
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 29/10/2019 có hiệu lực và
tiếp tục thực hiện hợp đồng, HĐXX thấy rằng: như phân tích tại mục [2.1] thì
thửa đất số 03, tờ bản đồ số 09 tại thôn A, xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng
thuộc quyền sử dụng hợp pháp của cụ F. Theo quy định tại Điều 188 Luật đất đai
năm 2013 thì “người sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, thừa kế và tặng cho quyền sử dụng đất…”. Như vậy, cụ F có quyền
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh D, chị S và thực tế giữa các bên đã
giao kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 29/10/2019 và đã bàn
giao đất dưới sự chứng kiến của nhiều người (trong đó có con trai cụ F là ông L,
ông P, cán bộ địa chính xã và người hàng xóm). Nguyên đơn (bà H) cho rằng cụ
F biết đọc, biết viết và biết ký tên nhưng trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 29/10/2019 chỉ có điểm chỉ, không có chữ ký và chữ viết họ tên
của cụ F là không thể hiện đúng ý chí của cụ F. Mặt khác dấu điểm chỉ tại Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 29/10/2019 không biết có phải của
cụ F hay của ai khác. HĐXX đánh giá về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 29/10/2019 như sau:
Thứ nhất: bà H trình bày cụ F biết đọc, biết viết và biết ký tên, biết ghi họ
tên là có căn cứ bởi lẽ cụ F đã tự ký và ghi rõ họ tên, điểm chỉ vào Văn bản thoả
thuận phân chia di sản ngày 02/10/2019 tại UBND xã Lương Điền, có sự chứng
kiến của tất cả các con. Do đó, Văn bản thoả thuận phân chia di sản ngày
02/10/2019 là tài liệu gốc giám định dấu vân tay trong hợp đồng chuyển nhượng.
Thứ hai: Tại Kết luận giám định số 77/KL-KTHS ngày 10/5/2024 kết luận:
03 dấu vân tay in tại cuối các trang 1,2 và ở mục “Bên A ” tại trang số 03 trong
tài liệu mẫu cần giám định (ký hiệu A là Hợp đồng chuyển nhượng ngày
29/10/2019) và các dấu vân tay trong các tài liệu mẫu so sánh ( ký hiệu M1 là
Biên bản làm việc; M2 là Phiếu kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất năm 2019; M3
là trích lục đo vẽ bổ sung năm 2019; M4 là Hợp đồng kinh tế; M5 là Biên bản
nghiệm thu, bàn giao tài sản năm 2019; M6 là Văn bản thoả thuận phân chia di
sản do UBND xã Lương Điền chứng thực ngày 02/10/2019) là của cùng 1 người.
15
Như vậy, 03 dấu vân tay in tại cuối các trang 1,2 và ở mục “Bên A” tại trang số
03 trong Hợp đồng chuyển nhượng trên là của cụ Lê Thị F.
Thứ ba: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 29/10/2019 có
dấu điểm chỉ của bên bán (cụ F); có chữ ký và điểm chỉ của bên mua (vợ chồng
anh D); nội dung thể hiện cụ F bán cho anh D chị S 147m
2
đất (Phía Đông giáp
đường làng dài 06m; Phía Tây giáp nhà ông G dài 06m, Phía Nam giáp đất nhà
bà M2 dài 24,5m, Phía Bắc giáp đất còn lại của cụ F dài 24,5m) tại thửa đất số 03,
tờ bản đồ số 09 tại thôn A, xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng. Giá tiền
280.000.000đ. Ông L xác nhận đã kiểm đếm và nhận đủ tiền cho cụ F, đã bàn giao
đất và gia đình ông D xây nhà từ cuối năm 2019 ( khi đó cụ F còn sống liền kề
không có ý kiến gì, cụ còn tự nguyện tháo dỡ 1 phần ngôi nhà 3 gian cấp 4 vì nằm
trên phần đất bán cho anh D). Ông P trình bày: chú L đòi bán đất và mẹ tôi cũng
đồng ý bán 06m mặt đường, nếu mẹ tôi không đồng ý bán thì không ai ép được
mẹ tôi. Bà Q thừa nhận: được cụ F nói chuyện bán đất cho anh D. Như vậy, hợp
đồng chuyển nhượng đất được coi là giấy viết tay chưa qua công chứng, chứng
thực nhưng việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên là hoàn toàn tự
nguyện, các bên đều có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự, mục đích và
nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức
xã hội. Thời hạn thực hiện giao dịch được hai bên thống nhất sau khi cấp đổi lại
giấy chứng nhận sẽ thực hiện việc chuyển quyền theo quy định; ông D được xây
dựng công trình trên diện tích đất chuyển nhượng kể từ ngày ký hợp đồng, nên
đây là giao dịch đang được thực hiện, về nội dung, hình thức phù hợp với quy
định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, thời điểm các bên thỏa thuận việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì cụ F chưa cấp đổi lại giấy chứng nhận nên
chỉ lập giấy viết tay thể hiện nội dung thỏa thuận có việc mua bán là thật. Mặc dù
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được công chứng, chứng thực
nhưng bên nhận chuyển nhượng đất là vợ chồng anh D chị S đã thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ (trả đủ tiền mua đất), các bên đã bàn giao đất và vợ chồng anh D trực
tiếp nhận đất, quản lý đất và xây nhà, tường bao quanh thửa đất và sinh sống trên
đất đến nay, không có tranh chấp. Đây là những tình tiết không phải chứng minh,
theo khoản khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại thời điểm xác nhận, giao
dịch này có đủ điều kiện có hiệu lực theo quy định tại Điều 116, 117, 118 và khoản
2 Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015; các bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp
đồng. Nay cụ F chết, những người thừa kế được hưởng quyền thì phải có nghĩa
vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng. Bà H cho rằng việc bán đất này là do ông L tự bán
và ông L ép cụ F bán nên diện tích bán được coi là của ông L nhưng bà H không
có căn cứ chứng minh. HĐXX không chấp nhận.
16
Theo hợp đồng chuyển nhượng đất các bên chỉ thoả thuận chuyển nhượng
(06m x24,5m) = 147m
2
; nhưng khi Toà án đo thẩm định hiện trạng theo khuôn
viên tường bao thì diện tích anh D chị S đang quản lý sử dụng là 149m
2
, tức là
tăng 02m
2
. Mặc dù không làm ảnh hưởng đến diện tích đất được cấp nhưng 02m
2
đất này vẫn thuộc phạm vi quyền tài sản trong khối tài sản còn lại của cụ F được
xác định là di sản. Do đó, vợ chồng anh D chị S phải có trách nhiệm trả cho những
người thừa kế của cụ F giá trị 02m
2
đất ở tương đương 9.000.000đ.
Từ những phân tích nêu trên có căn cứ công nhận Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 29/10/2019 giữa cụ Lê Thị F và anh Trần Đình D, chị
Lương Thị S, diện tích thực tế 149m
2
; những người thừa kế của cụ F phải có nghĩa
vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng. Đối với công trình trên 149m
2
đất do vợ chồng
anh D chị S xây, thuộc quyền sở hữu, sử dụng của anh D chị S.
[2.3]. Đánh giá bản Di chúc ngày 16/6/2020 do ông P giao nộp, HĐXX
thấy rằng: tại kết luận giám định số 78/KL-KTHS ngày 17/5/2024, Viện khoa học
hình sự Bộ Công an đã kết luận: các chữ “lê thị F” dưới mục “ người làm di trúc”
tại mẫu A (là bản Di chúc) so với chữ ký “F” tại các trang đánh số 1,2,3 và chữ
ký, chữ viết đứng tên Lê Thị F dưới mục “ những người thỏa thuận phân chia di
sản thừa kế” trên mẫu cần giám định ký hiệu M (Văn bản thoả thuận phân chia di
sản) là do cùng 1 người viết. Mặt khác Văn bản thoả thuận phân chia di sản đã
được cụ F và các con cháu hưởng thừa kế ký tên, UBND xã Lương Điền chứng
thực vào ngày 02/10/2019; do đó có căn cứ xác định chữ “lê thị F” dưới mục
người làm di chúc là chữ của cụ F.
Về mặt hình thức: bản Di chúc lập ngày 16/6/2020, do cụ F nhờ ông Hoàng
Văn M (là em ruột cụ B, ông M gọi cụ F là chị dâu) viết hộ tại nhà cụ F, chỉ có
mặt cụ F và ông M; sau khi viết xong ông M không ký, cụ F giữ bản di chúc và
tự viết chữ “ lê thị F’ dưới mục người làm di chúc. Sau đó cụ đến nhờ ông Trần
Xuân Đ là trưởng thôn lúc bấy giờ xác nhận. Việc ông Đ xác nhận chỉ với tư cách
là trưởng thôn, còn ai viết, viết từ khi nào, viết tại đâu, có ai chứng kiến không,
chữ “lê thị F” có phải bà F viết và ký hay không thì ông không biết; ông Hoàng
Văn L là người hưởng thừa kế. Như vậy tại thời thời điểm lập di chúc không có ít
nhất 2 người làm chứng. Căn cứ Điều 632, Điều 634 Bộ luật dân sự thì bản di
chúc đã không đảm bảo về mặt hình thức.
Về mặt nội dung: bản di chúc thể hiện “… Tôi sinh được 6 người con 3 trai
3 gái. 3 con gái tôi đã đi xây dựng gia đình. còn 3 con trai. Tôi chia đất cho 3 con,
còn tôi 1 xuất. nay tôi thấy yếu tôi lại nhượng cho cháu đức tôn tên Hoàng Văn
K1. Tôi sống thì cháu nuôi, chết cháu chôn…” nhưng không thể hiện rõ di sản cụ
F để lại là thửa đất nào, tại đâu, diện tích bao nhiêu, kích thước tứ cận thửa đất;
17
cụ chia cho 3 con là ai, mỗi con bao nhiêu; còn 1 xuất là bao nhiêu nhượng lại cho
cháu đích tôn.
Trên thực tế trước thời điểm lập di chúc (ngày 16/6/2019) cụ F đã chuyển
nhượng 1 phần tài sản cho vợ chồng anh D chị S vào ngày 29/10/2019, vợ chồng
anh D đã xây dựng nhà và sinh sống trên đất. Không có tài liệu nào thể hiện sau
khi chuyển nhượng đất cho vợ chồng anh D, diện tích đất còn lại cụ F và các con
thống nhất chia đất cho 3 con trai và cụ được 1 xuất. Căn cứ Điều 631 Bộ luật dân
sự thì di chúc đã không đảm bảo về nội dung.
Từ phân tích trên có căn cứ xác định Di chúc cụ Lê Thị F lập ngày
16/6/2020 là không hợp pháp nên không có giá trị pháp lý. Di sản của cụ F để lại
được xem xét chia theo pháp luật.
[2.4]. Xét việc nguyên đơn (bà H) yêu cầu xác định di sản của cụ Lê Thị
F là thửa đất số 03 tờ bản đồ số 09, diện tích 563m
2
(hiện trạng là 575,4m
2
) tại
thôn A, xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương; chia di sản thừa
kế của cụ F bằng hiện vật theo pháp luật, HĐXX thấy rằng:
- Xác định di sản: nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan đều thống nhất xác định khi chết cụ F để lại 01 ngôi nhà ba
gian xây năm 1982; thửa đất số 03 tờ bản đồ 09 theo sổ đỏ là diện tích 563m
2
(đo
hiện trạng ngày 02/11/2023 là 575,4m
2
) tại thôn A, xã Lương Điền, huyện Cẩm
Giàng; được cụ F và vợ chồng ông P quản lý sử dụng liên tục cho đến nay, không
mua thêm. Từ khi cụ F còn sống cụ đã bán cho vợ chồng anh D 147m
2
(theo hiện
trạng là 149m
2
), ngoài ra không có tranh chấp với ai. Trước khi chết cụ F không
để lại di chúc và nghĩa vụ trả nợ cho ai, các con không ai phải bỏ tiền nuôi và lo
mai táng cho cụ; từ sau khi cụ chết cho đến nay những người thừa kế chưa có văn
bản phân chia di sản hợp pháp, do vậy sau khi trừ 149m
2
đất đã bán cho vợ chồng
anh D, diện tích đất ở còn lại 426,4m
2
, 01 ngôi nhà ba gian và 9.000.000đ (giá trị
02m
2
đất bán cho anh D) được xác định là di sản của cụ F.
Việc nguyên đơn yêu cầu xác định thửa đất số 03 tờ bản đồ số 09, diện tích
563m
2
(hiện trạng 575,4m
2
) tại thôn A, xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng là di
sản của cụ Lê Thị F, HĐXX không chấp nhận.
Do di chúc của cụ F lập ngày 16/6/2020 không hợp pháp nên Nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế theo pháp luật là có căn cứ, HĐXX chấp
nhận.
- Xem xét công sức: Nguyên đơn, bị đơn và các đồng thừa kế đều xác định
ông P sống với các cụ từ nhỏ đến khi lấy vợ, vợ chồng ông P ở với các cụ đến khi
2 cụ chết và trực tiếp quản lý thửa đất từ cuối năm 2020 đến nay, hương hỏa tổ
tiên, trông nom duy trì thửa đất; tại phiên toà tất cả (trừ ông L) đều đồng ý trả
18
công sức cho vợ chồng ông P, trả bao nhiêu nhờ HĐXX tính toán cho phù hợp.
Xét việc công sức của vợ chồng ông P trông nom duy trì thửa đất, hương hỏa cho
bố mẹ gia tiên trong suốt gần 4 năm qua là có thật, HĐXX áng trích trong khối tài
sản của cụ F để trả cho vợ chồng ông P mỗi năm là 13.950.000đ x 4 năm =
55.800.000đ. Do nhu cầu cần đất làm nơi ở của gia đình và hiện tại vợ chồng ông
P đã xây nhà trên 1 phần đất, HĐXX quy tiền công sức bằng 12,4m
2
đất ở (theo
định giá đất ở là 4.500.000đ/m
2
). Tại phiên tòa ông P đề nghị nhập đất công sức
của vợ chồng vào chung kỷ phần đất ông P được hưởng và để ông P đứng tên,
HĐXX chấp nhận. Diện tích đất ở của cụ F còn lại là 414m
2
để chia thừa kế.
- Xác định diện và hàng thừa kế: Tại thời điểm mở thừa kế của cụ F năm
2020, có 06 người con gồm: ông P, bà H, bà C, ông V, bà N, ông L thuộc hàng
thừa kế thứ nhất được hưởng thừa kế của cụ F. Theo điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ
luật dân sự năm 2015, di sản thừa kế của cụ F trong vụ án này sẽ được chia thành
06 kỷ phần. Ông V chết năm 2017, tức là chết trước khi cụ F chết; theo Điều 625
Bộ luật dân sự thì các con của ông V là chị Vân A và anh T sẽ được hưởng di sản
của cụ F.
Việc Nguyên đơn cho rằng ông L tự ý bán đất của cụ F cho anh D nên
không được chia di sản là không có căn cứ.
- Chia giá trị di sản: Theo giá đất ở Hội đồng định giá ngày 26/12/2023 là
4.500.000đ/m
2
. Như vậy, 414 m
2
đất ở có giá trị 1.863.000.000đ + giá trị ngôi nhà
cấp 4 ba gian 45,3m
2
= 23.556.000đ + 9.000.000đ tiền 02m
2
đất bán cho anh D;
tổng là 1.895.556.000đ; mỗi kỷ phần được hưởng 315.926.000đ (tương đương
69m
2
đất ở và 3.926.000đ giá trị nhà và 1.500.000đ tiền đất anh D).
Xét việc tặng kỷ phần thừa kế của bà C, bà N cho bà H là tự nguyện, HĐXX
chấp nhận. Do đó, bà H được 3 kỷ phần = 947.778.000đ (tương đương 207m
2
đất
ở và 11.778.000đ giá trị nhà và 4.500.000đ tiền đất anh D).
Xét việc bà Q đề nghị giao kỷ phần thừa kế của ông V cho anh T đứng tên
là phù hợp, HĐXX chấp nhận.
Chia đất: Tại phiên tòa các đương sự đều đề nghị chia di sản thừa kế đất
bằng hiện vật và đề nghị chia cho ông P kỷ phần đất trên có công trình của vợ
chồng ông P đang ở, giá trị đất vượt quá kỷ phần ông P được hưởng thì ông P phải
trả tiền cho kỷ phần khác. Đối với hai con ông V, ông L đều có chỗ ở riêng và
không tặng cho ai kỷ phần thừa kế, HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.
Xét thực tế hiện trạng đất có thể chia bằng hiện vật và đề nghị của các đương sự
là phù hợp pháp luật, HĐXX chấp nhận:
Giao cho ông P phần đất (trên có toàn bộ công trình nhà chính và cây cối
do vợ chồng ông xây dựng và trồng) theo sơ đồ hình S1 = 90,6m
2
(trong đó có kỷ
19
phần thừa kế của ông P là 69m
2
+ 12,4m
2
công sức của vợ chồng ông P) trị giá
407.700.000đ, được giới hạn bởi các điểm A11B3A8A9A10A11.
Giao cho anh T phần đất (trên có công trình nhà ngang, mái tôn và sân gạch,
cây cối do vợ chồng ông P xây dựng và trồng) theo sơ đồ hình S2 = 69,8m
2
trị giá
314.100.000đ, được giới hạn bởi các điểm B3B4B2A8B3.
Giao cho ông L phần đất (trên có công trình phụ và cây cối do vợ chồng
ông P xây dựng và trồng) theo sơ đồ hình S3 = 67,9m
2
trị giá 305.550.000đ, được
giới hạn bởi các điểm B4B5B1B2B4.
Giao cho bà H phần đất (trên có ngôi nhà ba gian cấp 4 của cụ F và công
trình phụ đã cũ nát và cây cối do vợ chồng ông P xây dựng và trồng) theo sơ đồ
hình S4 = 198,1m
2
(là kỷ phần đất của bà H, bà C, bà N) trị giá 891.450.000đ,
được giới hạn bởi các điểm B5A3A4A5B1B5.
Nghĩa vụ trả chênh lệch giá trị kỷ phần thừa kế:
Ông P có trách nhiệm trả cho ông L giá trị 1,1m
2
đất ở (trong kỷ phần thừa
kế đất ông L được hưởng còn thiếu) = 4.950.000đ;
Ông P có trách nhiệm trả cho bà H giá trị 8,1m2 đất ở (kỷ phần thừa kế đất
bà H, bà N, bà C được hưởng còn thiếu) =36.450.000đ.
Anh T có trách nhiệm trả cho bà H giá trị 0,8m
2
đất ở (kỷ phần thừa kế đất
bà H, bà C, bà N được hưởng còn thiếu) = 3.600.000đ. Bà H có trách nhiệm trả
cho anh anh T 3.926.000đ kỷ phần ngôi nhà cấp 4. Đối trừ 3.600.000đ giá trị
0,8m
2
đất; bà H còn phải trả cho anh anh T 326.000đ.
Bà H có trách nhiệm trả cho ông L, ông P, mỗi người 3.926.000đ kỷ phần
giá trị ngôi nhà cấp 4.
Đối trừ nghĩa vụ giữa bà H và ông P, ông P còn phải trả cho bà H
32.524.000đ.
Anh D chị S có trách nhiệm trả cho ông L, ông P, mỗi người 1.500.000đ
giá trị 02m
2
đất; trả cho bà H 4.500.000đ của kỷ phần của bà H, bà C, bà N; trả
cho chị Vân A và anh Anh T do anh T đại diện nhận 1.500.000đ giá trị 02m
2
đất.
Nghĩa vụ dân sự thực hiện theo khoản 2 Điều 357 và Điều 468 BLDS.
Về các vấn đề khác: Đối với nhà ngang, mái tôn, nhà tắm, bếp, chuồng gà,
chuồng lợn, sân và cây cối do vợ chồng ông P dựng và trồng trên phần đất giao
cho bà H, ông L và anh T, vợ chồng ông P phải có trách nhiệm tháo dỡ, di dời để
trả lại mặt bằng đất cho bà H, ông L và anh T.
Đối với đất 03 của cụ F, các đương sự đều không yêu cầu giải quyết, HĐXX
không xem xét.
[3].Về án phí, chi phí tố tụng:
20
Án phí: Bà H, ông L, ông P, anh T phải chịu án phí sơ thẩm dân sự có giá
ngạch tính trên giá trị di sản được hưởng. Cụ thể:
- Bà H được hưởng giá trị di sản 947.778.000đ đ; án phí bà H phải chịu là
40.433.340đ.
- Ông P được hưởng giá trị di sản 315.926.000đ; án phí ông P phải chịu là
15.796.300đ.
- Ông L được hưởng giá trị di sản 315.926.000đ; án phí ông L phải chịu là
15.796.300đ.
- Anh T được hưởng giá trị di sản 315.926.000đ; án phí anh T phải chịu là
15.796.300đ.
- Ông P, bà K được hưởng 55.800.000đ tiền công sức; án phí ông P bà K
phải chịu là 2.790.000đ.
- Yêu cầu độc lập của anh D, chị S được chấp nhận, anh D chị S phải chịu án
phí theo quy định của pháp luật.
Chi phí tố tụng khác: xét việc nguyên đơn xin chịu cả chi phí xem xét thẩm
định tại chỗ đo máy, chi phí định giá và không yêu cầu giải quyết là tự nguyện;
HĐXX chấp nhận.
Bởi lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 5 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 116, Điều 117, Điều 118, khoản 2 Điều
129, Điều 615; Điều 609; Điều 610; Điều 611; Điều 612; Điều 613; Điều 623;
Điều 649; Điều 650; Điều 651, 652, 660 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 Điều
167 Luật đất đai năm 2013; Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; Xử:
[1]. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan anh Trần Đình D và chị Hoàng Thị S.
[1.1]. Công nhận hiệu lực của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất
được xác lập giữa vợ chồng anh Trần Đình D, chị Hoàng Thị S và cụ Lê Thị F tại
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 29/10/2019 với diện tích
149m
2
(hiện trạng 149m
2
) tại thửa đất số 03 tờ bản đồ 09 tại thôn A, xã Lương
Điền, huyện Cẩm Giàng; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất số AG503587, số vào sổ cấp GCN: H
00360/QSDĐ-CG do UBND huyện Cẩm Giàng cấp cho cụ Hoàng Văn B, cụ Lê
Thị F vào ngày 11/7/2016; ngày 24/10/2019 Văn phòng đăng ký đất đai huyện
Cẩm Giàng đã đăng ký biến động mang tên chủ sử dụng đất là Lê Thị F;
21
Giao cho anh Trần Đình D và Lương thị S được quyền sử dụng diện tích
149m
2
tại thửa đất số 03 tờ bản đồ 09 tại thôn A, xã Lương Điền, huyện Cẩm
Giàng; có vị trí tứ cận: Cạnh đất phía Đông giáp đường ngõ bê tông dài 6,08m;
Cạnh đất phía Tây giáp thửa đất hộ ông Trần Đình G dài 6,01m; Cạnh đất phía
Nam giáp thửa đất hộ bà Hồ Thị M2 dài 24,49m; Cạnh đất phía Bắc giáp diện tích
còn lại của cụ F dài (4,84m +04m+04m +12.04m), tại thôn A, xã Lương Điền,
huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương; trên có công trình, cây cối do vợ chồng anh
xây dựng và trồng (Có sơ đồ hiện trạng kèm theo).
[1.2].Anh Trần Đình D và chị Hoàng Thị S có quyền liên hệ với Cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục tách thửa theo quy định của pháp luật và tự
chịu các khoản chi chí, lệ phí, nghĩa vụ tài chính về tách thửa, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên vợ chồng anh chị.
[1.3]. Anh Trần Đình D và chị Hoàng Thị S có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Hoàng Thị H 4.500.000đ ( phần của bà H, bà C, bà N); có nghĩa vụ thanh toán
cho ông Hoàng Văn P, ông Hoàng Văn L, anh Hoàng Anh T (kỷ phần của ông
V), mỗi người 1.500.000đ.
[2]. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hoàng Thị
H về xác định di sản và chia di sản của cụ Lê Thị F theo pháp luật.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H về việc xác định
diện tích 149m
2
đất cụ F đã bán cho anh D, chị S là di sản của cụ Lê Thị F để chia
thừa kế theo pháp luật.
Không chấp nhận việc của nguyên đơn bà H yêu cầu chia cho ông L phần
đất đã bán cho anh D, chị S.
[2.1]. Xác định ông Hoàng Văn P, bà Hoàng Thị H, bà Hoàng Thị C, ông
Hoàng Văn L, bà Hoàng Thị N, anh Hoàng Anh T và chị Hoàng Thị Vân A (do
anh T đại diện), được hưởng thừa kế di sản của cụ Lê Thị F theo quy định của
pháp luật.
[2.2]. Xác định di sản thừa kế của cụ Lê Thị F gồm: diện tích 414m
2
đất ở
(trị giá 1.863.000.000đ) tại thửa đất số 03 tờ bản đồ 09 tại thôn A, xã Lương Điền,
huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương; ngôi nhà ba gian cấp 4 (trị giá 23.556.000đ)
và 9.000.000đ/02m
2
; tổng trị giá 1.895.556.000đ. Ông Hoàng Văn Pg, bà Hoàng
Thị H, bà Hoàng Thị C, ông Hoàng Văn L, bà Hoàng Thị N, anh Hoàng Anh T
và chị Hoàng Thị Vân A (do anh T đại diện), mỗi kỷ phần được hưởng giá trị tài
sản 315.926.000đ (tương đương 69m
2
đất ở và 3.926.000đ giá trị nhà cấp 4 và
1.500.000đ tiền đất anh D trả).
Chấp nhận sự tự nguyện của bà Hoàng Thị C, bà Hoàng Thị N tặng cho bà
Hoàng Thị H kỷ phần thừa kế các bà được hưởng. Bà H được hưởng 3 kỷ phần =
22
947.778.000đ (tương đương 207m
2
đất ở và 11.778.000đ giá trị nhà và 4.500.000đ
tiền đất anh D trả).
[3]. Chia đất:
[3.1]. Chia giao cho ông Hoàng Văn P được quyền sử dụng 90,6m
2
đất ở
tại thửa đất số 03 tờ bản đồ 09 tại thôn A, xã L, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương,
vị trí theo hình S1 được giới hạn bởi các điểm A11B3A8A9A10A11; kích thước
tứ cận: Cạnh đất phía Đông giáp đường ngõ bê tông dài (5,95m +11,65m); Cạnh
đất phía Tây giáp phần đất chia giao cho anh T dài 17,81m; Cạnh đất phía Nam
giáp phần đất tách cho hộ anh Trần Đình D dài 4,84m; Cạnh đất phía Bắc giáp
đường bê tông vào thửa đất hộ ông Trần Đình G dài 5,13m; trên đất có công trình,
cây cối của vợ chồng ông.
[3.2]. Chia giao cho anh Hoàng Anh T được quyền sử dụng 69,8m
2
đất ở
tại thửa đất số 03 tờ bản đồ 09 tại thôn A, xã L, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương,
vị trí theo hình S2 được giới hạn bởi các điểm B3B4B2A8B3; kích thước tứ cận:
Cạnh đất phía Đông giáp phần đất chia giao cho ông P dài 17,81m; Cạnh đất phía
Tây giáp phần đất chia giao cho ông L dài 17,32m; Cạnh đất phía Nam giáp phần
đất tách cho hộ anh Trần Đình D dài 04m; Cạnh đất phía Bắc giáp đường bê tông
vào thửa đất hộ ông Trần Đình G dài 04m;
[3.3]. Chia giao cho ông Hoàng Văn L được quyền sử dụng 67,9m
2
đất ở
tại thửa đất số 03 tờ bản đồ 09 tại thôn A, xã L, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương,
vị trí theo hình S3 được giới hạn bởi các điểm B4B5B1B2B4; kích thước tứ cận:
Cạnh đất phía Đông giáp phần đất chia giao cho anh T dài 17,32m; Cạnh đất phía
Tây giáp phần đất còn lại chia giao cho bà H dài 16,84m; Cạnh đất phía Nam giáp
phần đất tách cho hộ anh Trần Đình D dài 04m; Cạnh đất phía Bắc giáp đường bê
tông vào thửa đất hộ ông Trần Đình G dài 04m;
[3.4]. Chia giao cho bà Hoàng Thị H được quyền sử dụng 198,1m
2
đất ở tại
thửa đất số 03 tờ bản đồ 09 tại thôn A, xã L, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương,
vị trí theo hình S4 được giới hạn bởi các điểm B5A3A4A5B1B5; kích thước tứ
cận: Cạnh đất phía Đông giáp phần đất chia giao cho ông L dài 16,84m; Cạnh đất
phía Tây giáp đất hộ ông Trần Đình G dài (07m +8,46m); Cạnh đất phía Nam giáp
phần đất tách cho hộ anh Trần Đình D dài 12,04m; Cạnh đất phía Bắc giáp đường
bê tông vào thửa đất hộ ông Trần Đình G dài (6,444m + 1,93m + 4,50m) và ngôi
nhà ba gian cấp 4 xây năm 1982.
(Vị trí, diện tích, kích thước các cạnh đất ở có sơ đồ kèm theo bản án)
[3.5]. Nghĩa vụ thanh toán và các vấn đề khác:
Ông P có trách nhiệm trả cho ông Hoàng Văn L 4.950.000đ; trả cho bà
Hoàng Thị H 32.524.000đ.
23
Bà H có trách nhiệm trả cho anh Hoàng Anh T 326.000đ; trả cho ông L
3.926.000đ.
Ông P, bà K có trách nhiệm tháo dỡ và di dời các công trình phụ, nhà ngang,
lán tôn, cây cối do ông bà xây dựng, trồng để trả lại diện tích đất giao cho anh anh
T, ông L và bà H.
[4]. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn
yêu cầu thi hành án mà người thi hành án không thi hành các khoản tiền trên thì
phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả theo quy định
tại khoản 2 Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự.
[5]. Về án phí và các chi phí tố tụng:
Về án phí: bà H phải chịu án phí dân sự là 40.433.340đ; ông P, ông L và
anh T, mỗi người phải chịu án phí dân sự là 15.796.300đ;
Ông P, bà K phải chịu án phí công sức là 2.790.000đ (mỗi người là
1.395.000đ).
Anh D chị S phải chịu 300.000đ án phí dân sự.
Chi phí tố tụng khác: chấp nhận sự tự nguyện của Nguyên đơn (bà H) xin
chịu cả tiền chi phí thẩm định đo máy và định giá mà Nguyên đơn đã chi.
[6]. Quyền kháng cáo: căn cứ Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại
phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án
sơ thẩm.
Bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa
có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án
sơ thẩm hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2,luật Thi hành án
dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền tự thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,9 luật thi hành
án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND huyện Cẩm Giàng
- Chi cục THADS huyện Cẩm Giàng
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
( Đã Ký)
24
Tải về
Bản án số 09/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 09/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm