Bản án số 96/2025/DS-PT ngày 28/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 96/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 96/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 96/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 96/2025/DS-PT ngày 28/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 96/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thừa kế tài sản giữa nguyên đơn bà Lê Thị Thanh T, bị đơn ông Nguyễn Văn A |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 96/2025/DS-PT
Ngày 25 - 02 - 2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu
cầu chia tài sản chung; tranh chấp về
thừa kế tài sản; hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất; hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Thanh.
Bà Huỳnh Thị Thanh Tuyền;
Bà Ngô Thị Bích Diệp.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thùy Trang - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Phước - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 738/2024/TLPT-
DS ngày 11 tháng 12 năm 2024 về việc “tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu
chia tài sản chung; tranh chấp về thừa kế tài sản; hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 140/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 25/2025/QĐ-PT ngày
22 tháng 01 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 93/2025/QĐ-
PT ngày 13 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thanh T, sinh năm 1973; địa chỉ: số A, khối nhà
A, nhà ở An sinh xã H, đường N, khu dân cư H, khu phố A, phường H, thành phố
T, tỉnh Bình Dương.
2
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đậu Văn L, sinh năm 1972;
địa chỉ: số A, khu phố T, phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương, là người đại
diện theo ủy quyền (văn bản ngày 24/7/2024), có mặt.
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1972;
2. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1973.
Cùng địa chỉ: số F, khu phố P, phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn:
1. Ông Thái Thanh H1, sinh năm 1979; địa chỉ: tổ B, khu phố A, phường
U, thành phố T, tỉnh Bình Dương;
2. Ông Lê Thành D, sinh năm 1995; địa chỉ: tổ A, khu phố F, phường U,
thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Cùng địa chỉ liên hệ: thửa đất số 1053 – 1054, tờ bản đồ số 47, đường số E,
tổ A, khu phố C, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo
ủy quyền của ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị H (văn bản ủy quyền ngày
02/01/2024).
Ông Lê Thành D vắng mặt, ông Thái Thanh H1 có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Ngọc B, sinh năm 1983; địa chỉ: số B, tổ E, phường Đ,
thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Thị Ngọc N, sinh năm 1976; địa chỉ: số E, đường P, khu phố
G, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Bà Nguyễn Thị Ngọc N1, sinh năm 1978; địa chỉ: số E, đường L, Tổ F,
phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Bà Nguyễn Thị Ngọc L1, sinh năm 1980; địa chỉ: số F, khu phố P,
phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
5. Bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1944, chết năm 2021;
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Nguyễn Thị R:
5.1. Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1972; địa chỉ: số F, khu phố P, phường
H, thành phố B, tỉnh Bình Dương (đồng thời là bị đơn trong vụ án).
Người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Văn A:
3
1. Ông Thái Thanh H1, sinh năm 1979; địa chỉ: tổ B, khu phố A, phường
U, thành phố T, tỉnh Bình Dương;
2. Ông Lê Thành D, sinh năm 1995; địa chỉ: tổ A, khu phố F, phường U,
thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Cùng địa chỉ liên hệ: thửa đất số 1053 – 1054, tờ bản đồ số 47, đường số E,
tổ A, khu phố C, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo
ủy quyền của ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị H (văn bản ủy quyền ngày
02/01/2024).
Ông Lê Thành D vắng mặt, ông Thái Thanh H1 có mặt.
5.2. Bà Nguyễn Thị Ngọc B, sinh năm 1983; địa chỉ: số B, tổ E, phường Đ,
thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
5.3. Bà Nguyễn Thị Ngọc N, sinh năm 1976; địa chỉ: số E, đường P, khu
phố G, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
5.4. Bà Nguyễn Thị Ngọc N1, sinh năm 1978; địa chỉ: số E, đường L, tổ F,
phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
5.5. Bà Nguyễn Thị Ngọc L1, sinh năm 1980; địa chỉ: số F, khu phố P,
phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
6. Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân thành phố B: Bà Đặng Thị
Phương K, là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 07/02/2025),
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
7. Văn phòng C (nay là Văn phòng C1); địa chỉ: khu phố B, phường M,
thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của Văn phòng C1: Ông Nguyễn Duy L2 - Trưởng
Văn phòng, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
8. Ủy ban nhân dân phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân phường H, thành phố B:
Ông Lê Sỹ T1, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
9. Ông Nguyễn Công Q, sinh năm 1985; địa chỉ: số B, tổ E, phường Đ,
thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: bị đơn ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo án sơ thẩm và quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Lê Thị Thanh T
và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Đậu Văn L trình bày:
4
Năm 2016, bà Thu nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Ngọc B quyền
sử dụng đất diện tích 640,7m
2
, thuộc thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40, tọa lạc tại
xã H, huyện B (nay là phường H, thành phố B), tỉnh Bình Dương được Ủy ban
nhân dân huyện (nay là thành phố) Bến Cát cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BP125806 ngày 18/6/2013 mang tên bà Nguyễn Thị Ngọc B và đã được
cập nhật sang tên cho bà T theo hồ sơ số 004767.CN.001 ngày 30/8/2016. Giáp
ranh với thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40 là phần đất có diện tích 750,4m
2
, thuộc
tờ bản đồ số 798 do Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) Bến Cát cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 19/6/2013 cho ông Nguyễn Văn T2 (sinh
năm 1930, chết năm 2015), ông T2 là chồng của bà Đặng Thị R1, hiện nay do vợ
chồng ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H sử dụng. Khi bà T và bà B tiến hành
giao dịch chuyển nhượng diện tích đất nêu trên, bên chuyển nhượng đất là bà
Nguyễn Thị Ngọc B và bà Đặng Thị R1 cam kết giao cho bà Lê Thị Thanh T đúng
phần diện tích đất đã chuyển nhượng, đồng thời đảm bảo giao toàn bộ diện tích
đất là đất trống, không có tranh chấp. Ngoài ra, tại thời điểm chuyển nhượng thì
trên phần đất chuyển nhượng có tài sản hiện hữu gồm: 01 mái che tole, cột sắt,
tường xây tô (nhà tạm), diện tích 30,8m
2
; 01 công trình phụ làm chuồng gà, kết
cấu nền xi măng, tường gạch xây không tô, mái tole, diện tích 27,6m
2
, 02 giếng
khoan, 15 cây lồng mứt, 01 cây mít, 01 cây bàng, 01 cây xoài, 01 cây mận, 02 cây
sung, 01 phần Sê nô có kết cấu bê tông, ốp gạch Ceramic gắm vá tường xây bên
hông nhà của ông A, diện tích 1,6m
2
như thể hiện tại Biên bản xem xét, thẩm định
tại chỗ ngày 06/6/2024. Các tài sản còn lại gắn với tài sản tranh chấp thể hiện tại
Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 04/4/2023 và ngày 06/6/2024 là được
hình thành sau thời điểm bà Thu nhận chuyển nhượng. Khi chuyển nhượng thì chỉ
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, còn tài sản trên đất thì bà B, bà R1 cam kết di
dời nên bà T mới đồng ý nhận chuyển nhượng.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà T tiến hành các
thủ tục chuẩn bị xây dựng nhà ở trên phần đất của mình thì phát hiện ông Nguyễn
Văn A và bà Nguyễn Thị H có hành vi lấn chiếm, sử dụng trái phép diện tích đất
nêu trên của bà. Bà T đã nhiều lần yêu cầu ông A, bà H cùng các đồng thừa kế
của ông T2 tiến hành tháo dỡ tất cả các công trình xây dựng trái phép trên đất, trả
lại toàn bộ phần diện tích bà đã nhận chuyển nhượng của bà B nêu trên, tuy nhiên
ông A, bà H và các đồng thừa kế của ông T2 không thực hiện. Do đó, nguyên đơn
(bà Lê Thị Thanh T) yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Buộc ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H và các đồng thừa kế của ông
Nguyễn Văn T2, gồm: bà Đặng Thị R1, bà Nguyễn Thị Ngọc N, bà Nguyễn Thị
Ngọc N1, bà Nguyễn Thị Ngọc L1, bà Nguyễn Thị Ngọc B có nghĩa vụ: trả lại
cho bà Lê Thị Thanh T phần đất có diện tích là 640,7m
2
, thuộc thửa đất số 797,
5
tờ bản đồ số 40, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH04767,
tọa lạc tại xã (nay là phường) H, huyện (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương;
- Tháo dỡ toàn bộ những tài sản xây dựng trên phần đất mà bà Lê Thị Thanh
T đã nhận chuyển nhượng nêu trên, gồm: vách tường rào xây dựng trái phép trên
phần đất lấn chiếm của bà T khoảng 10m
2
(chiều dài 20m x chiều rộng 0.25m) ở
phía trước; mái hiên cửa sổ lấn qua đất của nguyên đơn khoảng (1m x 0,5m); nhà
tắm, nhà vệ sinh, chuồng gà; 10 cây lồng mức; 02 giếng khoan.
Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm (lần 1), nhận thấy ông Nguyễn Văn A và
bà Nguyễn Thị H là những người trực tiếp quản lý, sử dụng các công trình xây
dựng trên đất và chiếm giữ phần đất có diện tích 640,7m
2
mà bà Lê Thị Thanh T
đã nhận chuyển nhượng. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà
Nguyễn Thị Ngọc N, bà Nguyễn Thị Ngọc N1, bà Nguyễn Thị Ngọc L1, bà
Nguyễn Thị Ngọc B không sinh sống, không xây dựng, quản lý, sử dụng các công
trình xây dựng trên phần đất này, ngày 21/3/2023, bà Lê Thị Thanh T khởi kiện
bổ sung, yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Công nhận phần đất tăng thêm có diện tích 15,8m
2
nằm
trong tổng diện
tích đo đạc thực tế là 656,5m
2
, thuộc thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40, tọa lạc tại
xã (nay là phường) H, huyện (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương thuộc quyền
sử dụng của bà Lê Thị Thanh T;
- Công nhận cho bà Lê Thị Thanh T được toàn quyền thực hiện đăng ký
biến động đất đai tại cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mang tên bà T đối với phần đất tăng thêm có diện tích 15,8m
2
nằm
trong tổng diện tích đo đạc thực tế là 656,5m
2
, thuộc thửa đất số 797, tờ bản đồ số
40, tọa lạc tại xã (nay là phường) H, huyện (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương;
- Yêu cầu ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị H trả lại cho bà Lê Thị
Thanh T phần đất có diện tích đo đạc thực tế là 656,5m
2
, thuộc thửa đất số 797,
tờ bản đồ số 40, tọa lạc tại xã (nay là phường) H, huyện (nay là thành phố ), tỉnh
Bình Dương.
- Yêu cầu ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị H tháo dỡ toàn bộ các tài
sản do ông A, bà H xây dựng theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày
19/12/2019 của Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Bến Cát trên phần đất
có diện tích đo đạc thực tế là 656,5m
2
, thuộc thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40, tọa
lạc tại xã (nay là phường) H, huyện (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương.
Hiện nay, phần diện tích nêu trên đã được đo đạc lại và diện tích đã giảm
hơn so với diện tích trong giấy chứng nhận bà Lê Thị Thanh T được cấp; do đó,
ngày 12/7/2024 bà Lê Thị Thanh T có đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện, nay
bà Lê Thị Thanh T yêu cầu khởi kiện cụ thể như sau:
6
- Yêu cầu ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị H trả lại cho bà Lê Thị
Thanh T phần đất có diện tích đo đạc thực tế được thể hiện tại Mảnh trích lục có
đo đạc chỉnh lý số 34-2024 ngày 19/6/2024 là 623,3m
2
, thuộc thửa đất số 797, tờ
bản đồ số 40, tọa lạc tại xã (nay là phường) H, huyện (nay là thành phố ), tỉnh
Bình Dương, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 125806, vào sổ cấp
GCN số CH04767, do Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) Bến Cát cấp
ngày 18/6/2013, cập nhật sang tên bà Lê Thị Thanh T ngày 30/8/2016.
- Yêu cầu ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị H tháo dỡ toàn bộ các tài
sản gắn liền với thửa đất tranh chấp thuộc thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40, tọa lạc
tại xã (nay là phường) H, huyện (nay là thành phố) B, tỉnh Bình Dương theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 125806, vào sổ cấp GCN số CH04767 do
Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) Bến Cát cấp ngày 18/6/2013, cập nhật
sang tên bà Lê Thị Thanh T ngày 30/8/2016, được thể hiện tại Biên bản xem xét,
thẩm định tại chỗ ngày 06/6/2024 và Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày
04/4/2023, tài sản gồm: 01 hàng rào song sắt (làm cửa cổng), diện tích 13,5m
2
; 03
cửa nhôm (vách của mái che phía trước căn nhà của ông Nguyễn Văn A), diện
tích 25,5m
2
; 01 phần Sê nô có kết cấu bê tông, ốp gạch Ceramic gắm vá tường
xây bên hông nhà của ông Nguyễn Văn A, diện tích 1,6m
2
; 01 mái che tole, cột
sắt, nền bê tông, gạch tàu diện tích 19,7m
2
; 01 mái che tole, cột sắt, tường xây tô
(nhà tạm), diện tích 30,8m
2
; 01 công trình phụ làm chuồng gà, kết cấu nền xi
măng, tường gạch xây không tô, mái tole, diện tích 27,6m
2
; 02 giếng khoan; 01
sân xi măng diện tích 44,6m
2
; 03 nhà vệ sinh nền gạch Ceramic, tường gạch xây
tô, ốp đá Ceramic, mái tole diện tích 11m
2
; 01 bồn nước bằng nhựa, thể tích 300l;
38 trụ bê tông; 15 cây lồng mứt; 01 cây mít; 01 cây bàng; 01 cây xoài; 01 cây
mận; 02 cây sung; 01 trụ điện kết cấu bê tông cốt thép (do ông Nguyễn Văn A
xây dựng); 01 bộ cổng khung sắt, lưới B40 diện tích 10,45m
2
; 01 khung sắt hộp
vách tole bọc phía trên hàng rào khung sắt và cửa, diện tích 31,68m
2
; 01 mái che
tole nền bê tông xi măng, kèo sắt hộp, xà gồ gỗ, diện tích 14,4m
2
; 01 tường xây
gạch không tô, diện tích 05m
2
; 01 bộ khung sắt tròn, lưới B40, diện tích 4,6m
2
;
01 rào lưới B40 trụ bê tông, diện tích 07m
2
.
- Bà Lê Thị Thanh T rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với diện tích
đất tranh chấp là: 33,2m
2
, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Văn A, bà H thì bà T không
đồng ý vì quyền sử dụng đất nêu trên là bà Thu nhận chuyển nhượng hợp pháp từ
bà B và những tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất là do ông A xây dựng, trồng
trên thửa đất thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của bà.
- Quá trình tố tụng, ý kiến của bị đơn ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H
và người đại diện hợp pháp của bị đơn (ông Thái Thanh H1) như sau:
7
Phần đất mà bà T tranh chấp nêu trên có nguồn gốc của hộ gia đình, do ông
Nguyễn Văn T2 đứng chủ hộ. Quá trình sử dụng đất, vợ chồng ông A, bà H đã
được cha mẹ ông A là ông Nguyễn Văn T2 và bà Đặng Thị R1 tặng cho vào năm
2007. Năm 2007, gia đình gồm vợ chồng con cái ông A, bà H đã trực tiếp quản lý
sử dụng phần đất này, thiết lập công trình xây dựng, cây trồng trên đất và hoàn
toàn không có tranh chấp cũng như phản đối từ phía cha mẹ và anh em của ông
A. Ngày 18/6/2013, cha mẹ ông A tự ý ký kết hợp đồng tặng cho phần đất thuộc
thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40 toạ lạc tại xã (nay là phường) H, huyện (nay là
thành phố) B, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất BP
125806, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH04767 do Uỷ ban nhân dân huyện (nay
là thành phố) Bến Cát cấp ngày 18/06/2013 cho em gái ông A là bà Nguyễn Thị
Ngọc B. Tuy nhiên, việc tặng cho này không thông qua ý kiến ông A với tư cách
là thành viên hộ gia đình, đồng thời cũng không thông qua ông A và vợ ông A là
bà Nguyễn Thị H với tư cách là người đã được tặng cho phần đất này. Năm 2016
bà B lại chuyển nhượng phần đất này cho bà Lê Thị Thanh T không thông qua ý
kiến của vợ chồng ông A, bà H, dẫn đến tình trạng là bà B không thể bàn giao đất
chuyển nhượng cho bà T vì trên thực tế, đất do vợ chồng ông A, bà H đang trực
tiếp quản lý, sử dụng, tạo lập tài sản kiên cố của ông A, bà H từ năm 2007. Ông
A, bà H vẫn chưa xác thực được việc bà Nguyễn Thị Ngọc B đã thực hiện xong
hợp đồng chuyển nhượng, đã giao đất chuyển nhượng cho bà Lê Thị Thanh T hay
chưa. Trong trường hợp bà B không thể giao đất chuyển nhượng (do thực tế vợ
chồng ông A, bà H đang quản lý, sử dụng vào thời điểm bà B chuyển nhượng cho
bà T) cho bà T thì hợp đồng chuyển nhượng giữa bà B và bà T là vô hiệu do hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được theo quy định tại Điều 408 của Bộ
luật Dân sự 2005. Do vậy, ông A, bà H không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn. Bị đơn ông Nguyễn Văn A xác định, thủ tục hòa giải tranh chấp
đất đai của Ủy ban nhân dân phường H, thị xã (nay là thành phố) B đối với khiếu
nại tranh chấp đất đai giữa bà Lê Thị Thanh T và vợ chồng ông Nguyễn Văn A,
bà Nguyễn Thị H là chưa đúng quy định pháp luật, cụ thể khi hòa giải không mời
bà Nguyễn Thị R với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chưa đảm
bảo khách quan, chưa đủ điều kiện để nguyên đơn khởi kiện các bị đơn đến Tòa
án. Ông A yêu cầu Tòa án xem xét và yêu cầu tiến hành lại thủ tục hòa giải ở Ủy
ban nhân dân phường H cho đúng theo quy định của pháp luật để bảo đảm thủ tục
tố tụng.
Đồng thời, bị đơn Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H có đơn thay đổi yêu
cầu phản tố đối với nguyên đơn, cụ thể:
- Yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa bà Nguyễn Thị Ngọc B, ông Nguyễn Công Q với bà Lê Thị Thanh T được
8
Văn phòng C (nay là Văn phòng C1) chứng nhận số công chứng 007884, quyển
số 08 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/08/2016 đối với thửa đất 797, tờ bản đồ số 40
tại xã (nay là phường) H, huyện (nay là thành phố) Bến Cát vô hiệu do hợp đồng
có đối tượng không thể thực hiện được (khoản 1, Điều 411 Bộ luật Dân sự 2005
và khoản 1, Điều 408 Bộ luật Dân sự 2015) và yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả
của hợp đồng vô hiệu.
- Yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Văn T2, bà Đặng Thị R1 với bà Nguyễn Thị Ngọc B, được Ủy ban nhân
dân xã (nay là phường) Hòa Lợi chứng thực ngày 15/4/2009 đối với thửa đất 797,
tờ bản đồ số 40 tại phường H, thành phố B vô hiệu với lý do: đất cấp cho hộ gia
đình mà hợp đồng tặng cho chỉ có hai thành viên của hộ gia đình ký tặng cho là
chưa bảo đảm về mặt chủ thể giao kết hợp đồng; hợp đồng có đối tượng không
thể thực hiện được (khoản 1 Điều 411 Bộ luật Dân sự 2005 và khoản 1 Điều 408
Bộ luật Dân sự 2015) do trên đất phủ kín tài sản của ông A, bà H. Ông A, bà H
yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng tặng cho vô hiệu;
- Yêu cầu Tòa án xác định phần đất có diện tích theo kết quả đo đạc thực tế
thể hiện tại Mảnh trích lục có đo đạc chỉnh lý số 34-2024 ngày 19/6/2024 là
623,3m
2
thuộc thửa đất 797, tờ bản đồ 40 tại tại phường H, thành phố B là tài sản
chung của hộ gia đình ông Nguyễn Văn T2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất có số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 00872 QSDĐ/QĐ-UB
do Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) Bến Cát cấp ngày 18/12/2000.
- Yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của hộ gia đình ông Nguyễn Văn T2 là
quyền sử dụng đất có diện tích 623,3m
2
thuộc thửa đất 797, tờ bản đồ 40 tại
phường H, thị xã (nay là thành phố) B, tỉnh Bình Dương cho 07 thành viên trong
hộ gia đình ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị Ngọc N, bà Nguyễn Thị Ngọc
N1, bà Nguyễn Thị Ngọc L1, bà Nguyễn Thị Ngọc B, cho ông Nguyễn Văn A
được nhận một phần tài sản chung là quyền sử dụng đất có diện tích 89,04m
2
bằng
hiện vật, ước tính có giá trị là 95.700.000 đồng;
- Yêu cầu Tòa án xác định diện tích đất 178,08m
2
trong tổng diện tích
623,3m
2
thuộc thửa đất 797, tờ bản đồ 40 tại phường H, thành phố B, tỉnh Bình
Dương là di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn T2 và bà Đặng Thị R1 chết để lại,
đồng thời yêu cầu Tòa án chia di sản này theo quy định của pháp luật cho 05 người
thừa kế của ông Nguyễn Văn T2, bà Đặng Thị R1, gồm: Ông Nguyễn Văn A, bà
Nguyễn Thị Ngọc N, bà Nguyễn Thị Ngọc N1, bà Nguyễn Thị Ngọc L1, bà
Nguyễn Thị Ngọc B, cho ông A được nhận một phần thừa kế bằng hiện vật là
quyền sử dụng đất có diện tích 35,6m
2
, ước tính có giá trị là 38.000.000 đồng (ba
mươi tám triệu đồng).
9
- Yêu cầu Tòa án kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số bìa BP 125806, số vào sổ CH04767 do Ủy ban nhân dân
huyện B cấp ngày 18/6/2013 cho bà Nguyễn Thị Ngọc B, chỉnh lý sang tên bà Lê
Thị Thanh T ngày 30/8/2016 với các lý do: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
này được cấp không đúng với vị trí đất mà bà Nguyễn Thị Ngọc B được tặng cho
theo hợp đồng tặng cho ngày 15/4/2009; không có lý do, căn cứ, cơ sở chứng cứ
cũng như cơ sở pháp lý để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này; hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất – cơ sở để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
này vô hiệu; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất – cơ sở để chỉnh lý giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất này vào ngày 30/8/2016 vô hiệu.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và là người kế thừa quyền, nghĩa
vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị R1 là bà Nguyễn Thị
Ngọc B, bà Nguyễn Thị Ngọc N1, bà Nguyễn Thị Ngọc N và bà Nguyễn Thị Ngọc
L1 thống nhất trình bày:
Vào năm 2013, cha mẹ của các bà là ông Nguyễn Văn T2 và bà Đặng Thị
R1 có tặng cho bà B 01 phần đất có diện tích 640,7m
2
, thuộc thửa đất số 797, tờ
bản đồ số 40, tọa lạc tại phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương do Ủy ban nhân
dân thị xã (nay là thành phố) Bến Cát cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BP125806 ngày 18/6/2013 mang tên Nguyễn Thị Ngọc B.
Việc tặng cho quyền sử dụng đất nêu trên có thể hiện bằng văn bản, các anh
chị em của các bà gồm: ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị Ngọc L1 và bà
Nguyễn Thị Ngọc N1 đều biết và đều thống nhất không có tranh chấp hay ý kiến
gì.
Giáp ranh với thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40 là phần đất của ông Nguyễn
Văn T2, bà Đặng Thi R2 có diện tích là 750,4m
2
, thuộc tờ bản đồ số 798 do ông
Nguyễn Văn T2 đứng tên và hiện nay do vợ chồng ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn
Thị H trực tiếp sinh sống trên đất.
Năm 2016, bà B không có nhu cầu sinh sống tại phần đất của mình nên bà
chuyển nhượng lại cho bà Lê Thị Thanh T thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40. Sau
khi thống nhất việc chuyển nhượng, hai bên có đến xem đất. Khi hai bên đến đất
thì ông A, bà H đã làm giếng nước, trồng một số cây và chuồng gà trên đất.
Về thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên giữa bà B và bà T là
phù hợp quy định pháp luật. Bà T thực hiện thủ tục cập nhật Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BP 125806, vào sổ cấp GCN số CH04767 sang tên bà Lê
Thị Thanh T ngày 30/8/2016 theo quy định. Do đó, nay bà B, bà N1, bà N và bà
L1 thống nhất với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà T.
10
Đối với yêu cầu phản tố của ông A: bà B, bà N1, bà N và bà L1 không đồng
ý vì cha mẹ của bà tặng cho bà B phần đất có diện tích 640,7m
2
thuộc thửa đất số
797, tờ bản đồ số 40, được thể hiện bằng văn bản phù hợp với quy định của pháp
luật và bà B đã được Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) Bến Cát cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BP125806 ngày 18/6/201. Trong vụ án này bà
B, bà N1, bà N và bà L1 không có yêu cầu độc lập.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Công Q trình bày:
ông Q là chồng của bà B, năm 2016, ông Q và bà B có chuyển nhượng phần đất
thuộc thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40, tọa lạc tại phường H, thành phố B, tỉnh
Bình Dương được Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) Bến Cát cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BP125806 ngày 18/6/2013 cho bà Lê Thị Thanh
T. Thủ tục chuyển nhượng là đúng quy định nên ông Q thống nhất ý kiến trình
bày và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Thanh T.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân thành phố B,
do ông Trịnh Phục M đại diện hợp pháp trình bày:
Ủy ban nhân dân thành phố B đã nêu ý kiến tại Công văn số 137/TNMT-
TTĐĐ ngày 29/01/2021, Công văn số 1335/TNMT-TTĐĐ ngày 19/8/2022 trong
đó có nội dung ông Nguyễn Văn A kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH04767 do Ủy ban nhân dân
huyện (nay là thành phố) Bến Cát cấp ngày 18/6/2013 cho bà Nguyễn Thị Ngọc
B, chỉnh lý sang cho bà Lê Thị Thanh T ngày 30/8/2016 là không có cơ sở. Đối
với những nội dung khác, ngoài những nội dung đã nêu ý kiến tại Công văn số
137/TNMT-TTĐĐ ngày 29/01/2021, Công văn số 1335/TNMT-TTĐĐ ngày
19/8/2022, đề nghị Tòa án căn cứ hồ sơ, chứng cứ để tiến hành xét xử theo quy
định pháp luật.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân phường H, thành
phố B, tỉnh Bình Dương, do ông Lê Sỹ T1 đại diện theo pháp luật trình bày: không
có ý kiến gì đối với vụ tranh chấp, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy
định của pháp luật.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C1 (trước là Văn
phòng C) do ông Nguyễn Duy L2 đại diện trình bày: tại thời điểm chứng thực Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 007884, quyển số
08TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/08/2016 ký kết giữa bà Nguyễn Thị Ngọc B, ông
Nguyễn Công Q với bà Lê Thị Thanh T thì người tham gia giao dịch có năng lực
hành vi dân sự phù hợp theo quy định của pháp luật. Các bên tham gia giao dịch
hoàn toàn tự nguyện và đồng ý với nội dung ghi trong hợp đồng, nội dung chuyển
nhượng không vi phạm pháp luật. Do đó, Công chứng viên Nguyễn Duy L2 đã
11
chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên. Đối với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, Văn phòng C1 không
có ý kiến gì khác, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
- Ngày 25/5/2023, Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình
Dương đã xét xử sơ thẩm tại Bản án số 62/2023/DS-ST, đã quyết định: “Chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Thanh T đối với bị đơn ông
Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị H về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. Không
chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn A về yêu cầu Tòa án tuyên bố
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Ngọc B, ông
Nguyễn Công Q với bà Lê Thị Thanh T được Văn phòng C chứng nhận số công
chứng 007884, quyển số 08 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/8/2016 và tuyên bố hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn T2, bà Đặng Thị R1 với
bà Nguyễn Thị Ngọc B, được Ủy ban nhân dân xã H chứng thực ngày 15/4/2009
là vô hiệu. Đình chỉ yêu cầu của bị đơn ông Nguyễn Văn A về việc yêu cầu Tòa
án xác định phần đất có diện tích 670m
2
thuộc thửa đất 797, tờ bản đồ số 40 tọa
lạc tại xã (nay là phường) H, huyện (nay là thành phố) B là tài sản chung của hộ
ông Nguyễn Văn T2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có số vào sổ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 00872 QSDĐ/QĐ-UB do Ủy ban nhân dân
huyện B cấp ngày 18/12/2000. Yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của hộ ông
Nguyễn Văn T2 là 670m
2
thuộc thửa đất 797, tờ bản đồ số 40 tọa lạc tại xã (nay
là phường) H, huyện (nay là thành phố) B. Yêu cầu Tòa án xác định diện tích đất
191,4m
2
trong tổng diện tích 670m
2
thuộc thửa đất 797, tờ bản đồ số 40 tọa lạc tại
xã (nay là phường) H, huyện (nay là thành phố) B là di sản thừa kế của ông
Nguyễn Văn T2 và bà Đặng Thị R1 chết để lại, đồng thời yêu cầu Tòa án chia di
sản này theo quy định của pháp luật”.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 429/2023/DS-PT ngày 28/9/2023 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định hủy Bản án dân sự sơ thẩm số
62/2023/DS-ST ngày 25/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh
Bình Dương giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình
Dương giải quyết lại sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm (lần 2), số 140/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã quyết
định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Thanh T đối với
bị đơn ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị H về việc: “Tranh chấp quyền sử
dụng đất”.
2. Buộc ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị H có nghĩa vụ:
12
- Trả lại cho bà Lê Thị Thanh T quyền sử dụng đất có diện tích đo đạc thực
tế được thể hiện tại Mảnh trích lục có đo đạc chỉnh lý số 34-2024 ngày 19/6/2024
là 623,3m
2
(trong đó có diện tích 50m
2
thuộc HLATĐB) thuộc thửa đất số 797, tờ
bản đồ số 40, tọa lạc tại phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương, theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 125806, vào sổ cấp GCN số CH04767, do
Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) B, tỉnh Bình Dương cấp ngày
18/6/2013, cập nhật sang tên bà Lê Thị Thanh T ngày 30/8/2016.
- Tháo dỡ và di dời toàn bộ các công trình xây dựng, trồng trên thửa đất số
797, tờ bản đồ số 40.
Bà Lê Thị Thanh T được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để đăng ký
biến động đất đai đối với diện tích đo đạc thực tế là 623,3m
2
của thửa đất số 797,
tờ bản đồ số 40, tọa lạc tại phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương so với diện
tích 640,7m
2
đã được cấp theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa BP
125806, số vào sổ CH04767 do Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) Bến
Cát cấp ngày 18/6/2013 cho bà Nguyễn Thị Ngọc B, chỉnh lý sang tên bà Lê Thị
Thanh T ngày 30/8/2016.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn A về tranh chấp:
“Yêu cầu chia tài sản chung; tranh chấp về thừa kế tài sản; hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
4. Đình chỉ xét xử đối với phẩn diện tích 33,2m
2
nguyên đơn bà Lê Thị
Thanh T rút lại, không yêu cầu Hội đồng xét xử giải quyết.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, quyền yêu cầu thi hành
án, nghĩa vụ do chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/9/2024, bị đơn ông Nguyễn Văn A và bà
Nguyễn Thị H kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 140/2024/DS-ST ngày
30 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương
đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn
kháng cáo nhưng không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khác. Các đương sự không thỏa
thuận được các vấn đề có tranh chấp trong vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Viện Kiểm sát không
kiến nghị khắc phục gì thêm.
- Về nội dung: Bản án sơ thẩm số 140/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã xét xử là có
13
căn cứ, đúng quy định pháp luật. Các bị đơn Nguyễn Văn A, Nguyễn Thị H kháng
cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố
của bị đơn nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh
cho yêu cầu kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của
Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên không chấp nhận kháng cáo của các bị đơn Nguyễn
Văn A, Nguyễn Thị H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị H trong
hạn luật định. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm
thụ lý và xét xử vụ án theo quy định.
[1.2] Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm bà Nguyễn Thị
Ngọc B, bà Nguyễn Thị Ngọc N, bà Nguyễn Thị Ngọc N1, bà Nguyễn Thị Ngọc
L1 có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt; những người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị R1 (đã chết năm
2021) có ông Nguyễn Văn A (bị đơn) ủy quyền cho ông Thái Thanh H1 và ông
Lê Thành D (ông H1 có mặt, ông D vắng mặt), bà Nguyễn Thị Ngọc B, bà Nguyễn
Thị Ngọc N, bà Nguyễn Thị Ngọc N1, bà Nguyễn Thị Ngọc L1 có đơn yêu cầu
giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự
trên theo quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Nguyên đơn bà Lê Thị Thanh T khởi kiện yêu cầu các bị đơn Nguyễn
Văn A, Nguyễn Thị H có trách nhiệm tháo dỡ, di dời các tài sản gồm công trình
xây dựng tạm, cây trồng và tài sản khác trả lại phần đất có diện tích đo đạc thực
tế được thể hiện tại Mảnh trích lục có đo đạc chỉnh lý số 34-2024 ngày 19/6/2024
là 623,3m
2
, thuộc thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40, tọa lạc tại phường H, thành
phố B, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 125806,
vào sổ cấp GCN số CH04767, do Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) Bến
Cát cấp ngày 18/6/2013, cập nhật sang tên bà Lê Thị Thanh T ngày 30/8/2016.
Các bị đơn Nguyễn Văn A, Nguyễn Thị H cho rằng toàn bộ diện tích đất đo đạc
thực tế 623,3m
2
thuộc thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40, tọa lạc tại phường H, thành
phố B, tỉnh Bình Dương là tài sản của hộ gia đình ông Nguyễn Văn T2 theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất có số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất là 00872 QSDĐ/QĐ-UB do Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) Bến
Cát cấp ngày 18/12/2000, diện tích đất thời điểm cấp sổ là 670m
2
, thời điểm hộ
gia đình ông T2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (năm 2000) thì ông
A cũng là thành viên trong hộ gia đình ông T2. Năm 2013, ông Nguyễn Văn T2,
14
bà Đặng Thị R1 tự ý ký hợp đồng tặng cho bà Nguyễn Thị Ngọc B là em gái ông
A thửa đất 797, thửa đất 40 diện tích 640,7m
2
không được sự đồng ý của các bị
đơn Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H là trái pháp luật. Do đó, đến năm 2016, bà
B đã chuyển nhượng toàn bộ thửa đất này cho nguyên đơn bà Lê Thị Thanh T
cũng trái pháp luật. Các bị đơn xác định việc Ủy ban nhân dân huyện B (nay là
thành phố B) đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 125806, vào sổ
cấp GCN số CH04767, ngày 18/6/2013 cho bà Nguyễn Thị Ngọc B và cập nhật
sang tên bà Lê Thị Thanh T ngày 30/8/2016 là không đúng quy định pháp luật.
Nay ông Nguyễn Văn T2, bà Đặng Thị R1 đã chết thì khu đất trên là tài sản thừa
kế theo pháp luật của những người thừa kế của ông T2 và bà R1. Các bị đơn có
yêu cầu phản tố yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất là di sản thừa kế, yêu cầu
chia thừa kế, hủy hợp đồng tặng cho, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, kiến nghị thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật của vụ án: “Tranh chấp
quyền sử dụng đất, yêu cầu chia tài sản chung, yêu cầu chia di sản thừa kế, tranh
chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất” là đúng quy định tại Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2.2] Nguyên đơn kiện đòi bị đơn trả lại quyền sử dụng diện tích đất đo đạc
thực tế 623,3m
2
thuộc thửa 797, tờ bản đồ 40 tại phường H, thành phố B, tỉnh
Bình Dương, các bị đơn có yêu cầu phản tố cho rằng tại thời điểm nguyên đơn
nhận chuyển nhượng diện tích đất nói trên của bà Nguyễn Thị Ngọc B thì các bị
đơn là người đang quản lý, sử dụng đất, trên đất các bị đơn đã xây dựng các công
trình phụ, nhà tạm, hàng rào, sân xi măng, trồng cây lâu năm nên việc chuyển
nhượng đất giữa bà B và nguyên đơn là vô hiệu theo Điều 411 của Bộ luật Dân
sự. Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết yêu cầu phản tố của các bị đơn là đúng
theo quy định tại Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Xét thấy, khu đất 640,7m
2
(đo thực tế 623,3m
2
) thuộc thửa đất số 797,
tờ bản đồ số 40 tại xã (nay là phường) H, huyện (nay là thành phố ), tỉnh Bình
Dương có nguồn gốc từ vợ chồng ông Nguyễn Văn T2, bà Đặng Thị R1 tạo lập
và được Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) B, tỉnh Bình Dương cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 00872 QSDĐ/QĐ-UB, ngày 18/02/2000 cho hộ
gia đình ông Nguyễn Văn T2 thuộc thửa số 324, tờ bản đồ số 40, diện tích đất
được cấp là 1.408m
2
trong đó có 300m
2
đất thổ cư và 1.108m
2
đất cây lâu năm
(CLN). Tại thời điểm được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (ngày
18/02/2000) căn cứ vào sổ hộ khẩu gia đình quyển số 226/SL (bút lục số 253) thì
hộ gia đình ông Nguyễn Văn T2 chỉ có 02 thành viên gồm ông Nguyễn Văn T2
(chủ hộ) và bà Đặng Thị R1 (vợ ông T2 là thành viên hộ), không có tên ông
Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị H. Ngày 06/4/2009, ông Nguyễn Văn T2 đã có
15
đơn xin tách thửa đất 324 tờ bản đồ số 40 thành 02 thửa đất 797 và 798, tờ bản đồ
số 40 nhằm mục đích tặng cho con gái Nguyễn Thị Ngọc B thửa đất số 797, diện
tích 640,7m
2
. Ngày 15/4/2009, tại Ủy ban nhân dân xã (nay là phường) H, huyện
(nay là thành phố) Bến cát, tỉnh Bình Dương, vợ chồng ông T2, bà R1 ký hợp
đồng tặng cho bà Nguyễn Thị Ngọc B thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40 diện tích
670m
2
, đã chỉnh lý lại diện tích thực tế năm 2013 là 640,7m
2
. Ngày 18/6/2013, bà
Nguyễn Thị Ngọc B được Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) B, tỉnh Bình
Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 125806, số vào sổ cấp
GNN CH04767, diện tích đất 640,7m
2
trong đó có 150m đất ở và 490,7m
2
. Vị trí
đất bà B được cấp giấy chứng nhận hướng Bắc giáp phần đất còn lại của ông T2,
bà R1 thuộc thửa 798 là 121,74m, hướng nam giáp thửa 446 là 122,63m, hướng
tây giáp đường ĐT741 là 05m, hướng đông giáp thửa 347 là 05m. Ngày
22/8/2016, bà Nguyễn Thị Ngọc B và chồng là ông Nguyễn Công Q đã ký hợp
đồng chuyển nhượng toàn bộ thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40 cho bà Lê Thị Thanh
T được Văn phòng C, thị xã (nay là thành phố) B, tỉnh Bình Dương chứng thực
số 007884 quyển số 08 TP/CC-SCC/HĐGD. Ngày 30/8/2016, bà Lê Thị Thanh T
được Chi nhánh Văn phòng Đ (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương chỉnh lý biến
động tên chủ sử dụng đất tại trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP
125806, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH04767. Từ khi ông T2, bà R1 có đơn
xin tách thửa đất 324 thành 02 thửa đất 797 và 798, tờ bản đồ 40, sau đó đo đạc
thực tế, chỉnh lý, tặng cho quyền sử dụng đất cho con Nguyễn Thị Ngọc B, bà B
và ông Q được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2009, chỉnh lý biến
động diện tích 2013 sau đó chuyển nhượng cho bà Lê Thị Thanh T vào năm 2016,
các bị đơn Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H đang quản lý, sử dụng thửa đất số
798 của ông T2, bà R1 tiếp giáp cạnh hướng bắc của thửa đất 797 do bà B chuyển
nhượng cho bà T nhưng các bị đơn không có ý kiến phản đối.
[4] Sau khi tách thửa 797 tặng cho bà B thì ông T2, bà R1 còn lại diện tích
750,4m
2
gồm 150m
2
đất ở và 600,4m
2
đất cây lâu năm thuộc thửa 798, tờ bản đồ
40, ngày 19/6/2013 hộ ông Nguyễn Văn T2 được Ủy ban nhân dân huyện (nay là
thành phố) Bến Cát cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH04768,
thửa đất này do ông Nguyễn Văn A đang quản lý, sử dụng. Ngày 19/4/2015, ông
Nguyễn Văn T2 chết không để lại di chúc. Do bà R1 và ông A không thỏa thuận
được việc chia di sản là quyền sử dụng đất trong đó có thửa đất 798 do ông T2
chết để lại nên tháng 5/2019, bà R1 đã khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã
(nay là thành phố) Bến Cát giải quyết chia thừa kế tài sản là quyền sử dụng diện
tích đất 750,5m
2
thuộc thửa số 798, tờ bản đồ số 40 tại xã (nay là phường) H, thị
xã (nay là thành phố) B và quyền sử dụng diện tích đất 711m
2
thuộc thửa 717, tờ
bản đồ 25 tại phường T, thị xã (nay là thành phố) B. Việc khởi kiện tranh chấp
thừa kế giữa nguyên đơn bà Đặng Thị R1 và bị đơn Nguyễn Văn A đã được Tòa
16
án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Bến Cát xét xử tại Bản án số 03/2020/DS-
ST ngày 26/02/2020 và Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử tại Bản án phúc
thẩm số 174/2020/DS-PT ngày 20/7/2020. Do bà R1 rút một phần yêu cầu khởi
kiện chia thừa kế đối với thửa đất 798, tờ bản đồ 40 tại xã (nay là phường) Hòa
Lợi diện tích 750,5m
2
nên Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã đình chỉ giải quyết
yêu cầu khởi kiện nói trên của bà R1 đối với ông A. Tại trang 5 Bản án sơ thẩm
số 03/2020/DS-ST ngày 26/02/2020 của Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố
), tỉnh Bình Dương (trích lời tự khai ngày 17/6/2019 của bị đơn ông Nguyễn Văn
A), ông A đã xác định thửa đất 798 tờ bản đồ 40 diện tích 750,5m
2
do Ủy ban
nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 125807, số vào
sổ CH 04768 ngày 19/6/2013 cho hộ ông Nguyễn Văn T2, do ông T2 đã cho vợ
chồng ông A từ năm 2007, vợ chồng ông A đã xây dựng nhà ở ổn định từ năm
2007 nên không đồng ý chia thừa kế cho bà R1. Như vậy, năm 2020, trong quá
trình tham gia tố tụng trong vụ án tranh chấp thừa kế giữa bà R1 và ông A, ông A
đã biết rõ thửa đất 797, tờ bản đồ 40 diện tích 640,7m
2
(đo đạc thực tế 623,3m
2
)
đã không còn là tài sản của ông Nguyễn Văn T2 do đó cũng không phải là tài sản
thừa kế do ông Nguyễn Văn T2 chết để lại. Do đó, trong quá trình tố tụng, lời khai
của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Ngọc B, bà
Nguyễn Thị Ngọc N, bà Nguyễn Thị Ngọc N1 và bà Nguyễn Thị Ngọc L1 đồng
thời bà B, bà N, bà N1 và bà L1 cũng là những người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của bà Đặng Thị R1 đã khai năm 2013, ông Nguyễn Văn T2, bà Đặng Thị
R1 là cha mẹ ruột của bà B, bà N, bà N1, bà L1 và ông A đã ký hợp đồng tặng
cho bà Nguyễn Thị Ngọc B thửa đất 797, tờ bản đồ 40 diện tích 640,7m
2
tại
phường H, thành phố B. Việc tặng cho quyền sử dụng đất nói trên tất cả anh chị
em trong gia đình đều biết trong đó có ông Nguyễn Văn A là người đang trực tiếp
quản lý, sử dụng thửa đất liền ranh 798 của ông T2, bà R1. Khi bà B chuyển
nhượng phần đất trên cho bà Lê Thị Thanh T thì bà B, bà R1 có nói cho ông A
biết và yêu cầu ông A thu dọn các công trình phụ, giếng khoan để giao đất trống
cho bà T, ông A không có ý kiến và không phản đối, tranh chấp. Do đó, có căn cứ
xác định các bị đơn (ông A, bà H) đã thừa nhận thửa đất số 797, tờ bản đồ 40 tại
phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương diện tích thực tế 623,3m
2
không thuộc
quyền sử dụng hợp pháp của mình từ năm 2013 đến nay, những tài sản, công trình
phụ, cây trồng do ông A, bà H đã đầu tư, xây dựng trên khu đất này không được
phép tồn tại và phải tháo dỡ để trả lại đất cho chủ sử dụng đất hợp pháp là bà Lê
Thị Thanh T.
[5] Do thửa đất nêu trên có nguồn gốc của ông Nguyễn Văn T2 chết để lại
nhưng khi còn sống vào năm 2013, ông T2 cùng bà R1 đã ký hợp đồng tặng cho
toàn bộ thửa đất này cho bà Nguyễn Thị Ngọc B. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm
không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị
17
H về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
Văn T2, bà Đặng Thị R1 đối với bà Nguyễn Thị Ngọc B lập ngày 15/4/2009 tại
Ủy ban nhân dân xã (nay là phường) H, huyện (nay là thành phố) Bến Cát đối với
thửa đất 797, tờ bản đồ 40, diện tích 640,7m
2
và tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
thửa đất nêu trên giữa bà Nguyễn Thị Ngọc B, ông Nguyễn Công Q và bà Lê Thị
Thanh T lập tại Văn phòng C ngày 22/8/2016 là vô hiệu; hủy các Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BP 125806, số vào sổ cấp GNN CH04767 cho bà Nguyễn
Thị Ngọc B ngày 18/6/2013 và chỉnh lý biến động sang tên bà Lê Thị Thanh T
ngày 30/8/2016 và chia thừa kế quyền sử dụng đất nêu trên cho các đồng thừa kế
của ông T2, bà R1 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[6] Đối với các tài sản trên đất: quá trình tố tụng, nguyên đơn, bị đơn thống
nhất tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất tranh chấp là nhà tạm, các công trình
phụ trợ khác, cây trồng trên đất là do ông A, bà H tự xây dựng và trồng trên đất
như thể hiện tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 06/6/2024 và Biên bản
xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 04/4/2023, gồm: 01 hàng rào song sắt (làm cửa
cổng), diện tích 13,5m
2
; 03 cửa nhôm (vách của mái che phía trước căn nhà của
ông Nguyễn Văn A), diện tích 25,5m
2
; 01 phần Sê nô có kết cấu bê tông, ốp gạch
Ceramic gắm vá tường xây bên hông nhà của ông Nguyễn Văn A, diện tích 1,6m
2
;
01 mái che tole, cột sắt, nền bê tông, gạch tàu diện tích 19,7m
2
; 01 mái che tole,
cột sắt, tường xây tô (nhà tạm), diện tích 30,8m
2
; 01 công trình phụ làm chuồng
gà, kết cấu nền xi măng, tường gạch xây không tô, mái tole, diện tích 27,6m
2
; 02
giếng khoan; 01 sân xi măng diện tích 44,6 m
2
; 03 nhà vệ sinh nền gạch Ceramic,
tường gạch xây tô, ốp đá Ceramic, mái tole diện tích 11m
2
; 01 bồn nước bằng
nhựa, thể tích 300l; 38 trụ bê tông; 15 cây lồng mứt; 01 cây mít; 01 cây bàng; 01
cây xoài; 01 cây mận; 02 cây sung; 01 trụ điện kết cấu bê tông cốt thép (do ông
Nguyễn Văn A xây dựng); 01 bộ cổng khung sắt, lưới B40 diện tích 10,45m
2
; 01
khung sắt hộp vách tole bọc phía trên hàng rào khung sắt và cửa, diện tích
31,68m
2
; 01 mái che tole nền bê tông xi măng, kèo sắt hộp, xà gồ gỗ, diện tích
14,4m
2
; 01 tường xây gạch không tô, diện tích 5m
2
; 01 bộ khung sắt tròn, lưới
B40, diện tích 4,6m
2
; 01 rào lưới B40 trụ bê tông, diện tích 7m
2
. Theo nguyên
đơn, thời điểm xây cất và trồng cây của các bị đơn, nguyên đơn không xác định
được, tuy nhiên khi giao kết chuyển nhượng đất thì bà B, bà R1 cam kết là đất
trống, không ai tranh chấp. Còn trong quá trình tố tụng bị đơn cho rằng thửa đất
797 bị đơn được ông Nguyễn Văn T2, bà Đặng Thị R1 tặng cho (hình thức bằng
lời nói, không lập văn bản) từ năm 2007 và bị đơn cũng sử dụng, xây cất, trồng
cây trên thửa đất từ năm 2007 và lời khai của bị đơn tại Biên bản hòa giải ngày
26/12/2018 (hòa giải tại Ủy ban nhân dân phường H, bút lục số A) xác định tài
sản được bị đơn xây cất và trồng từ năm 2006, như vậy lời khai của bị đơn có sự
mâu thuẫn về thời gian; đồng thời, việc bị đơn cho rằng được ông T2, bà R1 tặng
18
cho thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40 nhưng không có tài liệu, chứng cứ gì chứng
minh, không phù hợp với ý chí của bà R1 được thể hiện tại Bản tự khai ngày
18/4/2021 (bút lục số 184) cho rằng thửa đất 797, tờ bản đồ số 40 bà R1 và ông
T2 chỉ tặng cho bà B, không có tặng cho bất cứ ai khác. Như vậy, thời điểm năm
2006 hay 2007 (như lời ông A trình bày) thì ông A, bà H đều không phải là chủ
sử dụng hợp pháp đối với thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40 nên việc ông A, bà H
tự ý xây cất và trồng các tài sản nêu trên trên thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40 là
không đúng quy định của pháp luật. Tòa sơ thẩm xét xử buộc ông Nguyễn Văn A
và bà Nguyễn Thị H trả lại cho bà Lê Thị Thanh T quyền sử dụng đất có diện tích
đo đạc thực tế được thể hiện tại Mảnh trích lục có đo đạc chỉnh lý số 34-2024
ngày 19/6/2024 là 623,3m
2
, thuộc thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40, tọa lạc tại
phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BP 125806, vào sổ cấp GCN số CH04767, do Ủy ban nhân dân huyện (nay
la thành phố) Bến Cát cấp ngày 18/6/2013, cập nhật sang tên bà Lê Thị Thanh T
ngày 30/8/2016. Buộc ông A, bà H có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời toàn bộ các công
trình xây dựng và được trồng trên thửa đất số 797, tờ bản đồ số 40 gồm: 01 hàng
rào song sắt (làm cửa cổng), diện tích 13,5m
2
; 03 cửa nhôm (vách của mái che
phía trước căn nhà của ông Nguyễn Văn A), diện tích 25,5m
2
; 01 phần Sê nô có
kết cấu bê tông, ốp gạch Ceramic gắm vá tường xây bên hông nhà của ông Nguyễn
Văn A, diện tích 1,6m
2
; 01 mái che tole, cột sắt, nền bê tông, gạch tàu diện tích
19,7m
2
; 01 mái che tole, cột sắt, tường xây tô (nhà tạm), diện tích 30,8m
2
; 01 công
trình phụ làm chuồng gà, kết cấu nền xi măng, tường gạch xây không tô, mái tole,
diện tích 27,6m
2
; 02 giếng khoan; 01 sân xi măng diện tích 44,6m
2
; 03 nhà vệ sinh
nền gạch Ceramic, tường gạch xây tô, ốp đá Ceramic, mái tole diện tích 11m
2
; 01
bồn nước bằng nhựa, thể tích 300l; 38 trụ bê tông; 15 cây lồng mứt; 01 cây mít;
01 cây bàng; 01 cây xoài; 01 cây mận; 02 cây sung; 01 trụ điện kết cấu bê tông
cốt thép (do ông Nguyễn Văn A xây dựng); 01 bộ cổng khung sắt, lưới B40 diện
tích 10,45m
2
; 01 khung sắt hộp vách tole bọc phía trên hàng rào khung sắt và cửa,
diện tích 31,68m
2
; 01 mái che tole nền bê tông xi măng, kèo sắt hộp, xà gồ gỗ,
diện tích 14,4m
2
; 01 tường xây gạch không tô, diện tích 05m
2
; 01 bộ khung sắt
tròn, lưới B40, diện tích 4,6m
2
; 01 rào lưới B40 trụ bê tông, diện tích 07m
2
để
giao trả phần đất có diện tích 640,7m
2
(đo đạc thực tế là 623,3m
2
) thuộc thửa đất
797 tờ bản đồ 40 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 125806, số vào
sổ cấp GNN CH04767 cho bà Lê Thị Thanh T là có căn cứ, đúng quy định pháp
luật.
[7] Bị đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết sửa
bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
và chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn là không có căn cứ. Cần giữ
19
nguyên Bản án sơ thẩm số 140/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
[8] Quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương là phù hợp
nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: các bị đơn phải nộp án phí dân sự phúc
thẩm do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn
Thị H.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 140/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H mỗi
người phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ hết vào số tiền
tạm ứng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000918 ngày
16/9/2024 và Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000919 ngày
16/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
4. Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố Bến Cát;
- TAND thành phố Bến Cát;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
20
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Thanh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 09/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm