Bản án số 06/KDTMPT ngày 22/04/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 06/KDTMPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 06/KDTMPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/KDTMPT
Tên Bản án: | Bản án số 06/KDTMPT ngày 22/04/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng tín dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tín dụng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 06/KDTMPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/04/2025 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 06/2025/KDTM-PT
Ngày 22 - 4- 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng tín dụng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Dương Hùng Quang.
Các Thẩm phán: Bà Hoàng Thị Hải Hà.
Bà Đinh Cẩm Đào.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Bằng là Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Cà Mau
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Thúy Hồng– Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 3 và ngày 22 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số:
17/2024/TLPT-KDTM ngày 22 tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng
tín dụng”
Do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số số 31/2024/KDTM-ST ngày
27/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 03/2025/QĐ-PT ngày 21
tháng 01 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đ (gọi tắt là B); Địa chỉ trụ sở: T đường T,
Phường L, quận H, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp của nguyên đơn: Ông Phan Đức T – Chủ tịch Hội
đồng quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh T1 - Giám đốc Phòng G,
B và ông Đoàn Văn X – Trưởng phòng Quảng trị tín dụng B (ông T1, ông X có
mặt).
- Bị đơn: Bà Trịnh Thu T2 hộ kinh doanh T11.
Địa chỉ cư trú: Số B, đường H, khóm H, phường G, Tp C, tỉnh Cà Mau(có
mặt).

2
Ông Trịnh Quốc T3, sinh năm: 1983; Địa chỉ cư trú: Ấp M, Xã N, huyện Đ,
tỉnh Cà Mau (xin vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà T6: Ông Nguyễn Đông D,
sinh năm 1978; Địa chỉ: số D, đường N, khóm H, phường H, thành phố C, tỉnh Cà
Mau (có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Trung K năm: 1979; Địa chỉ nơi cư trú: Số B, Huỳnh Thúc
K1, VAY K, phường G, thành phố C, tỉnh Cà Mau
Người đại diện theo ủy quyền của ông K3: Bà Trịnh Thu T4 năm: 1986. Địa
chỉ cư trú: Số B, đường H, khóm H, phường G, thành phố C, tỉnh Cà Mau(có mặt).
2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1978 (có mặt)
3. Ông Phạm Khánh D1, sinh năm: 2005 (xin vắng mặt)
4. Ông Phạm Văn T5, sinh năm: 1980 (xin vắng mặt)
Cùng địa chỉ cư trú: ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu.
5. Bà Phạm Thị Tuyết E, sinh năm 1990; Địa chỉ cư trú: Số C, đường Q,
khóm D, phường E, thành phố C, tỉnh Cà Mau (có mặt)
Người kháng cáo: Bà Phạm Thị Tuyết E là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện ngày 15/4/2024, các lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án và ý kiến bổ sung tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn trình bày:
Ngày 27/09/2023, bà Trịnh Thu T6– Chủ hộ doanh T12 ký Hợp đồng tín
dụng hạn mức số 419/2023/17375035/HĐTDBIDV, hạn mức cấp tín dụng là
18.600.000.000 đồng. Thời hạn cấp hạn mức 12 tháng. Mục đích vay, bổ sung vốn
lưu động. Lãi suất trong hạn theo từng hợp đồng tín dụng cụ thể theo chế độ lãi
suất của Ngân hàng trong từng thời kỳ. Lãi suất quá hạn: 150% lãi sất vay trong
hạn. Lãi chậm trả là 5,0%/năm tính trên số tiền lãi chậm trả tương ứng với thời
gian chậm trả. Chi tiết các lần rút vốn vay như sau:
Số hợp đồng tín dụng cụ
thể
Số tài khoản
tiền vay
Số tiền vay
(VND)
Thời
hạn
vay
Ngày rút
vốn vay
Ngày đến
hạn trả
Lãi
suất
trong
hạn
419.01/2023/1735035/HĐTD
400000282587
3.000.000.000
163
27/09/2023
08/03/2024
6,6%
419.02/2023/1735035/HĐTD
406000280943
3.000.000.000
163
27/09/2023
08/03/2024
6,6%
419.03/2023/1735035/HĐTD
403000287800
4.600.000.000
165
28/09/2023
11/03/2024
6,6%
419.04/2023/1735035/HĐTD
400000295822
5.000.000.000
165
28/09/2023
11/03/2024
6,6%
419.05/2023/1735035/HĐTD
408000290003
3.000.000.000
165
29/09/2023
21/03/2024
6,6%

3
Hình thức bảo đảm tiền vay: Thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất của bên
vay, cụ thể theo Hợp đồng thế chấp tài sản số
84/2022/17375035/HĐBĐY_HOP_DONG 31/05/2022văn bản sửa đổi, bổ sung số
01.84/2022/17375035/HĐBĐ20/09/2023) và Hợp đồng thế chấp bất động sản để
đảm bảo nghĩa vụ cho người khác số 68/2022/17375035/HĐBĐ ngày 09/05/2022
được ký giữa Ông Nguyễn Trung K2 Trịnh Thu Thùyvà Ngân hàng TMCP Đ, và
các Văn bản sửa đổi bổ sung.
Tài sản thứ nhất: Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 141023 diện tích
975,1m
2
thửa số 49, tờ bản đồ số 8 tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/5/2019 cho bà Phạm Thị Tuyết E, được
đăng ký chỉnh lý biến động trang IV cho ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu
T6 ngày 25/5/2022.
Tài sản thứ hai: Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 141022 diện tích
33.998,2m
2
thửa số 72, tờ bản đồ số 8 tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu do Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/5/2019 cho bà Phạm Thị Tuyết E,
được đăng ký chỉnh lý biến động trang IV cho ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh
Thu T6 ngày 25/5/2022.
Tài sản thứ ba: Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất
Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 662020 do Ủy ban nhân
dân huyện Đ cấp ngày 07/11/2014, được đăng ký chỉnh lý biến động ngày
25/04/2019 do ông Nguyễn Trung K4 tên.
Tài sản thứ tư: Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất
Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 587363 do Ủy ban
nhân dân huyện Đ cấp ngày 24/04/2019 do ông Nguyễn Trung K4 tên.
Tình trạng nợ quá hạn: Khoản vay đã chuyển nợ quá hạn từ ngày 28/02/2024
cho đến nay (nợ nhóm 2), tổng dư nợ đến hết ngày 29/7/2024, cụ thể như sau:
TK vay
Nợ gốc
Nợ lãi trong
hạn
Lãi quá hạn
Lãi chậm
trả lãi
Tổng dư nợ
gốc và lãi
ĐVT: VNĐ
400000282587
2.999.530.000
38.509.034
8.678.080
149.639
3.046.866.753
400000295822
3.000.000.000
38.515.068
7.594.524
146.536
3.046.256.128
403000287800
4.600.000.000
59.056.438
12.060.810
226.057
4.671.343.305
406000280943
3.000.000.000
39.051.797
8.679.456
152.689
3.047.883.942
408000290003
5.000.000.000
64.191.781
13.109.595
245.726
5.077.547.102
Tổng cộng
18.599.530.000
612.576.131
236.780.176
7.371.431
19.456.257.738
4
Quá trình vay bà Trịnh Thu T7 hiện đúng nghĩa vụ trả nợ cho B theo hợp
đồng tín dụng. Tuy nhiên, đến nay ông, bà vẫn chưa thanh toán nợ vay cho B và đã
chuyển nợ nhóm 2. Khoản vay đã quá hạn từ tháng 02/2024. Tổng dư nợ tạm tính
đến hết ngày 29/7/2024 là: 19.456.257.738 VND.
Nay B yêu cầu bà Trịnh Thu T8 thanh toán cho B toàn bộ số tiền nợ gốc, nợ
lãi và nợ lãi quá hạn theo Hợp đồng tín dụng tạm tính đến ngày 25/9/2024 là
19.478.144.549 đồng, trong đó, nợ gốc 18.599.530.000 đồng, tiền lãi trong hạn và
quá hạn 811.005.089 đồng, lãi phạt quá hạn 348.823.715 đồng, tiếp tục trả lãi phát
sinh theo hợp đồng tín dụng cho đến khi thực hiện xong. Trường hợp bà Trịnh Thu
T6 không thanh toán thì B yêu cầu ông K3 và bà T6 giao các tài sản thế chấp xử lý,
phát mãi theo quy định của pháp luật.
- Tại đơn khởi kiện ngày 15/4/2024 người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn trình bày:
Ngày 20/9/2023, ông Trịnh Quốc T3 ký hợp đồng tín dụng số
389/2023/21594381/HĐTD với Ngân hàng TMCP Đ để vay số tiền gốc
1.400.000.000 đồng, thời hạn cho vay 05 tháng, mục đích vay bổ sung vốn kinh
doanh, lãi cho vay trong hạn 6,5% cố định, lãi nợ gốc quá hạn bằng 150% lãi suất
trong hạn, lãi chậm trả là 5%/năm.
Để đảm bảo khoản vay, ngày 20/9/2023 ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh
Thu T6 ký hợp đồng thế chấp số 84/2023/21594381/HĐBĐ và các Văn bản sửa
đổi, bổ sung với B, tài sản thế chấp gồm:
- Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 141022 diện tích 33.998,2m
2
thửa số
72, tờ bản đồ số 8 tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 09/5/2019 cho bà Phạm Thị Tuyết E, được đăng ký chỉnh
lý biến động trang IV cho ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6 ngày
25/5/2022.
- Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 141023 diện tích 975,1m
2
thửa số 49,
tờ bản đồ số 8 tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 09/5/2019 cho bà Phạm Thị Tuyết E, được đăng ký chỉnh
lý biến động trang IV cho ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6 ngày
25/5/2022.
Quá trình vay vốn, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và lãi cho
B và chuyển sang nợ quá hạn từ ngày 28/02/2024. Nay B yêu cầu ông Trịnh Quốc
T3 thanh toán nợ gốc và lãi cho B tạm tính đến ngày 25/9/2024 tổng cộng
1.485.515.163 đồng, trong đó nợ gốc 1.400.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn và quá
hạn 60.334.247 đồng, tiền lãi phạt quá hạn 25.180.916 đồng và tiếp tục trả lãi phát
sinh theo hợp đồng tín dụng. Trường hợp bị đơn không thanh toán thì B yêu cầu
ông K3 và bà T6 giao các tài sản thế chấp để xử lý, phát mãi theo quy định của
pháp luật.
5
Tại biên bản ghi ý kiến ngày 19/6/2024, bị đơn ông Trịnh Quốc T3 trình
bày:
Ông T3 là anh ruột của bà Trịnh Thu T6. Ngày 20/9/2023 ông ký hợp đồng
tín dụng số 389/2023/21594381/HĐTD với Ngân hàng TMCP Đ để vay số tiền gốc
1.400.000.000 đồng, thời hạn vay, mục đích vay và lãi cho vay đúng như đơn khởi
kiện của Ngân hàng. Khi vay có thế chấp hai quyền sử dụng đất tại ấp F, xã P, thị
xã G, tỉnh Bạc Liêu theo đơn khởi kiện của nguyên đơn là đúng. Từ khi vay đến
nay ông chưa trả vốn và lãi cho Ngân hàng khoản tiền nào. Ông đứng tên vay Ngân
hàng dùm cho bà T6 để bà T6 có vốn kinh doanh. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn
thanh toán nợ gốc 1.400.000.000 đồng và tiền lãi 3.989.056 đồng tạm tính đến
ngày 08/4/2024, ông đồng ý thanh toán nợ cho Ngân hàng và đồng ý giao tài sản
thế chấp cho Ngân hàng xử lý theo pháp luật. Đồng thời ông yêu cầu Tòa án giải
quyết, xét xử vắng mặt.
- Tại đơn khởi kiện ngày 08/7/2024, biên bản hòa giải ngày 06/6/2024 và
biên bản hòa giải ngày 29/7/2024, bà Phạm Thị Tuyết E là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trình bày:
Bà là chủ sử dụng của hai thửa đất, thửa đất thứ nhất: Quyền sử dụng đất
theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CS 141023 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày
09/05/2019Thửa đất thứ hai: Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử
dụng đất Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 141022 do Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/05/2019
Trước đây bà có quen biết với ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6.
Do cần vốn làm ăn kinh doanh nên bà có thế chấp 02 thửa đất trên vay vốn tại
Ngân hàng TMCP S (S1). Đến ngày 07/5/2022, bà có vay của ông K3 số tiền
3.440.491.000 đồng với lãi suất 1,5%/tháng để tất toán hợp đồng vay cho S1. Bà
chuyển quyền chủ sử dụng đất sang tên ông K3 để tìm ngân hàng có hạn mức cao
hơn vay vốn kinh doanh. Theo thỏa thuận, ngày 18/5/2022 bà đã ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất 02 thửa đất trên cho ông K3 và bà T6. Hợp
đồng chuyển nhượng được công chứng số 001259 quyển số 02/2022-TP/CC-
SCC/HNGĐ ngày 18/5/2022 tại Văn phòng C, Bạc Liêu. Ông K3 và bà T6 được
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã Giá Rai điều chỉnh sang tên chủ sử
dụng đất từ ngày 25/5/2022.
Sau khi điều chỉnh sang tên chủ sử dụng đất, ông K3 không bàn bạc với bà
về việc vay vốn tại Ngân hàng nào và vay bao nhiêu tiền. Nay bà phát hiện ông K3
và bà T6 sử dụng tài sản là 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên để thế chấp
vay vốn tại Ngân hàng TMCP Đ và không thực hiện nghĩa vụ trả vốn, lãi nên bị
Ngân hàng khởi kiện.
Việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên là giả cách để vừa
đảm bảo nghĩa vụ trả nợ khoản vay giữa bà với ông K3, vừa để ông K3 tìm ngân
hàng nâng hạn mức vay cao hơn lấy thêm vốn làm ăn kinh doanh (nội dung thỏa
thuận này có bà, ông Trần Hoàng T9, ông K3 biết). Ông K3 và bà T6 lợi dụng thỏa
thuận này tự ý thế chấp vay vốn số tiền lớn rồi không thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
6
Biên nhận ngày 12/11/2023 thể hiện bà có nhận của ông K3 số tiền
5.156.000.000 đồng là tiền nợ vay gốc và lãi của số tiền vay 3.440.491.000 đồng,
kèm theo các tin nhắn Zalo của ông K3 cho bà, không phải chuyển nhượng 02
phần đất tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu.
Đối với căn nhà và đất tại phường E: Trước đây bà có vay của bà Nguyễn
Thị Hương L1 số tiền 3.100.000.000 đồng, lãi 03%/tháng. Do không có khả năng
trả lãi nên ngày 01/02/2021 bà đồng ý ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ nhà và
đất cho bà L1 đứng tên. Sau khi bà L1 đứng tên chuyển nhượng nhà đất cho ông
K3 để ông K3 nhận khoản nợ của bà L1. Từ đó, ông K3 thỏa thuận với bà sẽ nhận
thế chấp để bà viết biên nhận 6.152.000.000 đồng ngày 12/01/2023. Đây là khoản
nợ của bà L1 nhưng ông K3 không trả cho bà L1 nên bà L1 đang khởi kiện bà
trong vụ án khác. Nay bà yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số 001259 quyền số 02/2022-TP/CC-SCC/HNGĐ ký ngày 18/5/2022 giữa bà
với ông K3 và bà T6 tại Văn phòng C số 02 T, phường G, thành phố B. Yêu cầu
hủy Hợp đồng thế chấp tài sản số 84/2022/17375035/HĐBĐ ngày 31/5/2022 (kèm
theo văn bản sửa đổi, bổ sung số 01.84/2023/17375035/HĐBĐ ngày 31/5/2022)
được ký giữa ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6 với B.
- Tại biên bản hòa giải ngày 29/7/2024, bà Nguyễn Thị Lụa L2 người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Năm 2019, bà Phạm Thị Tuyết E nhờ bà ở để giữ đất, cũng trong năm 2019
bà cất nhà trên đất để ở cho đến nay. Năm 2024 bà có bỏ ra số tiền 30.000.000
đồng để sửa chữa lại căn nhà có kiến trúc như hiện nay. Nay bà thống nhất với yêu
cầu của bà Tuyết E về việc yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa bà Tuyết E với vợ chồng ông Nguyễn Trung K3, bà Trịnh Thu T6 và
hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa ông K3, bà T6 với B. Trường hợp
Tòa án không chấp nhận yêu cầu của bà Tuyết E, bà yêu cầu bồi thường công bồi
đắp trên đất, giá trị nhà, giá trị hoa màu, nuôi tôm cua giống. Tại căn nhà trên đất
tranh chấp bà đang sống cùng chồng là ông Phạm Văn T5 và hai con là Phạm
Khánh D1, sinh năm 2005 và Phạm Kiều V, sinh năm 2010.
- Tại biên bản ghi nhận ý kiến đương sự ngày 18/6/2024 ông Phạm Văn T5 là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Năm 2019 bà Phạm Thị Tuyết E (em ruột của ông) cho vợ chồng ông và
Nguyễn Thị L cất nhà ở để quản lý đất, vợ chồng ông sống cùng Phạm Khánh D1,
sinh năm 2005 và Phạm Kiều V, sinh năm 2010. Quá trình ở trên đất bà Tuyết E
chuyển nhượng phần đất cho bà Trịnh Thu T6 và ông Nguyễn Trung K3 vào thời
gian nào thì ông không biết. Nay B yêu cầu bà T6 và ông K3 trả nợ và giao tài sản
thế chấp để ngân hàng phát mãi thu hồi nợ, ông không có ý kiến hay yêu cầu gì.
Ông thống nhất giao tài sản cho Ngân hàng xử lý theo quy định pháp luật. Đối với
giao dịch cho mượn đất cất nhà ở giữa ông với bà Tuyết E hai bên sẽ tự thỏa thuận
với nhau. Ông xin được vắng mặt trong tất cả các phiên hòa giải và xét xử của Tòa
án.
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 31/KDTM-ST ngày 27/9/2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau quyết định:
7
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP
Đ.
1. Buộc bị đơn bà Trịnh Thu T6 – Chủ hộ kinh doanh Trung Nghĩa phải
thanh toán cho nguyên đơn tạm tính đến ngày 25/9/2024 với tổng số tiền
19.478.144.549 đồng (Mười chín tỷ bốn trăm bảy mươi tám triệu một trăm bốn
mươi bốn nghìn năm trăm bốn mươi chín đồng), trong đó, nợ gốc 18.600.000.000
đồng, nợ lãi trong hạn và quá hạn 811.005.089 đồng, lãi phạt quá hạn 348.823.715
đồng và tiếp tục trả lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đến khi tất toán nợ.
2. Buộc bị đơn ông Trịnh Quốc T3 phải thanh toán cho nguyên đơn tạm tính
đến ngày 25/9/2024 với tổng số tiền 1.485.515.163 đồng (Một tỷ bốn trăm tám
mươi lăm triệu năm trăm mười lăm nghìn một trăm sáu mươi ba đồng), trong đó,
nợ gốc 1.400.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn và quá hạn 60.334.247 đồng, lãi phạt
quá hạn 25.180.916 đồng và tiếp tục trả lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đến
khi tất toán nợ.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày 25/9/2024, bà Trịnh Thu T6 và ông Trịnh
Quốc T3 còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ chưa thanh
toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh
toán xong khoản nợ này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa
thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay
thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay
theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh
lãi suất của Ngân hàng cho vay.
3. Nguyên đơn phải trả cho bà Trịnh Thu T6 và ông Nguyễn Trung K3 các
loại giấy tờ đã được liệt kê trong từng hợp đồng thế chấp khi các nghĩa vụ được
bảo đảm bằng tài sản này đã được thanh toán xong.
4. Buộc bà Trịnh Thu T6, ông Nguyễn Trung K3, ông Phạm Văn T5, bà
Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Khánh D2 giao các tài sản thế chấp để xử lý phát
mãi theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thu hồi nợ cho Ngân hàng, gồm:
- Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 141022 diện tích 33.998,2m
2
thửa số
72, tờ bản đồ số 8 tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 09/5/2019 cho bà Phạm Thị Tuyết E, đăng ký biến động
chỉnh lý trang IV cho ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6 ngày 25/5/2022.
- Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 141023 diện tích 975,1m
2
thửa số 49,
tờ bản đồ số 8 tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 09/5/2019 cho bà Phạm Thị Tuyết E, đăng ký biến động
chỉnh lý trang IV cho ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6 ngày 25/5/2022.
- Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất Quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 662020 do Ủy ban nhân dân huyện Đ
cấp ngày 07/11/2014, đã được đăng ký biến động chỉnh lý trang IV ngày
25/04/2019 cho ông Nguyễn Trung K4 tên.
8
- Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất Quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 587363 do Ủy ban nhân dân huyện Đ
cấp ngày 24/04/2019 do ông Nguyễn Trung K4 tên.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bà Trịnh Thu T6 phải chịu 127.478.000
đồng (chưa nộp).
Ông Trịnh Quốc T3 phải chịu 56.565.000 đồng (chưa nộp).
Bà Phạm Thị Tuyết E phải chịu 300.000 đồng, ngày 08/7/2024 bà Tuyết E
đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008986 và 300.000
đồng theo biên lai thu số 0008985 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà
Mau được đối trừ, còn lại 300.000 đồng được trả cho bà Tuyết E.
Nguyên đơn không phải chịu án phí, ngày 26/4/2024, nguyên đơn đã nộp
tiền tạm ứng án phí 23.329.000 đồng theo biên lai thu số 0008488 và ngày
26/4/2024 nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng án phí 63.445.000 đồng theo biên lai
thu số 0008489 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được trả lại toàn
bộ cho nguyên đơn.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 10/10/2024, bà Phạm Thị Tuyết E kháng cáo bản án sơ thẩm lý do
Hợp đồng chuyển nhượng hai phần đất giữa bà và ông K3, bà T6 là hợp đồng giả
cách nên việc ông K3, bà T6 sau khi chuyển nhượng đã thế chấp tài sản cho Ngân
hàng là vô hiệu.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu
cầu yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm; Bị đơn yêu cầu giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Tuyết E yêu cầu cấp
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận kháng cáo của bà hủy hợp
đồng chuyển nhượng và hợp đồng thế chấp đối với hai phần đất bà đã chuyển
nhượng cho ông K3, bà T6.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Xét kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan là bà Phạm Thị Tuyết E còn trong thời hạn luật định. Nội dung kháng cáo yêu
cầu cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của bà do việc chuyển nhượng của bà và ông
K3, bà T6 là hợp đồng giả cách nên việc chuyển nhượng đất và thế chấp tài sản
đều vô hiệu.
[2] Xét kháng cáo yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Phạm Thị Tuyết E về viêc yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất số 001259 quyền số 02/2022-TP/CC-SCC/HNGĐ ký ngày 18/5/2022
9
giữa bà với ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6 tại Văn phòng C và yêu cầu
Tòa án hủy Hợp đồng thế chấp tài sản số 84/2022/17375035/HĐBĐ ngày
31/5/2022 (kèm theo văn bản sửa đổi, bổ sung số 01.84/2023/17375035/HĐBĐ
ngày 31/5/2022) được ký giữa ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6 với
Ngân hàng TMCP Đ.
Quá trình giải quyết và tại phiên tòa, bà Tuyết E cho rằng: Do cần vốn làm
ăn nên bà Tuyết E và ông Nguyễn Trung K3 có bàn bạc thống nhất để bà Tuyết E
chuyển nhượng hai quyền sử dụng đất tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu do bà
Tuyết E đứng tên cho ông K3 và bà T6 để vay vốn Ngân hàng lấy tiền cho bà
Tuyết E kinh doanh. Ngày 17/5/2022, bà Tuyết E vay của ông Nguyễn Trung K3
3,4 tỷ đồng để thanh toán nợ S1 do bà Tuyết E thiếu. Đến ngày 18/5/2022, bà
Tuyết E và ông K3 ,bà T6 ký hợp đồng chuyển nhượng hai phần đất trên cho vợ
chồng ông K3 và bà T6 với giá 1,7 tỷ đồng. Sau khi nhận chuyển nhượng, ông K3
và bà T6 được đăng ký chỉnh lý biến động trang IV thế chấp B để vay vốn. Do ông
K3 cho bà Tuyết E vay 3,4 tỷ đồng, ông K3 gửi tin nhắn cho bà Tuyết E cộng vốn
và lãi là 4.179.010.000 đồng, bà Tuyết E đã lập vi bằng. Ngoài ra, bà Tuyết E viết
03 biên nhận theo yêu cầu của ông K3 và bà T6 để gia đình ông K3 không bất hòa
nhưng thực tế bà Tuyết E không có nhận tiền của ông K3 và bà T6. Đối với biên
nhận ban đầu ngày 12/01/2023 số tiền chuyển nhượng hai thửa đất ở Bạc Liêu với
giá 5.156.000.000 đồng là đúng. Còn biên nhận ngày 12/01/2023 thể hiện số tiền
chuyển nhượng là 6.308.000.000 đồng bà Tuyết E viết sau, do theo yêu cầu của bà
T6 là không đúng vì bà không có nhận số tiền này. Tại phiên tòa phúc thẩm bà
Tuyết E cho là do vợ chồng ông K3, bà T6 có mâu thuẩn về tình cảm vợ chồng nên
vì tin tưởng bạn bè nên viết biên nhận, nhận số tiền 6.308.000.000 đồng.
Ngoài ra bà Tuyết E không đưa ra được chứng cứ nào khác, lời lý giải này
không được chấp nhận. Bà cho là tin nhắn về việc tính lãi vào ngày 30/6/2023 là
do ông K3 nhắn tin đòi bà tiền lãi. Tòa án có tiến hành cho ông K3 và bà Tuyết E
đối chất vào ngày 04/4/2025, về nội dung tin nhắn ngày 30/6/2023 vấn đề này ông
K3 xác định ông có nhắn tin cho bà Tuyết E nói rõ nếu trường hợp bà Tuyết E xin
nhận chuyển nhượng lại hai phần đất trên thì phải chịu tiền lãi cho Ngân hàng, nên
ông có nhắn tin là phải tính lãi cho Ngân hàng, bản thân bà Tuyết E vẫn thừa biết
sau khi nhận chuyển nhượng đất của bà, ông K3, bà T6 thế chấp lại hai phần đất đã
chuyển nhượng này cho Ngân hàng và lấy tiền để thanh toán tiền cho bà Tuyết E.
Theo ý kiến trình bày của bà Trịnh Thu T6, tin nhắn của ông K3 gửi cho bà Tuyết
E số tiền vay 3,4 tỷ đồng là khoản vay bà Tuyết E nhờ ông K3 vay dùm để bà
Tuyết E thanh toán nợ ngân hàng S1. Tiền lãi của khoản vay này không liên quan
đến số tiền của hợp đồng chuyển nhượng. Đoạn ghi âm giữa bà Tuyết E với ông
T9 không xác định được bà Tuyết E chuyển nhượng hai thửa đất trên cho vợ chồng
bà để vay vốn Ngân hàng. Việc bà Tuyết E chuyển nhượng hai thửa đất cho vợ
chồng bà là thực tế, không phải đứng tên vay Ngân hàng dùm.
[3] Nhận thấy: Ngày 18/5/2022 bà Phạm Thị Tuyết E ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với hai thửa đất diện tích 33.998,2m
2
thửa số 72, tờ
bản đồ số 8 và quyền sử dụng đất diện tích 975,1m
2
thửa số 49, tờ bản đồ số 8 tại
ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu với ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6
10
được công chứng tại Văn phòng C, tỉnh Bạc Liêu là tự nguyện, phù hợp với quy
định của pháp luật. Giá chuyển nhượng theo hợp đồng là 1.700.000.000 đồng. Sau
khi nhận chuyển nhượng, bà Tuyết E là người trực tiếp đi làm thủ tục đăng ký biến
động điều chỉnh trang IV cho ông K3 và bà T6 theo đúng trình tự thủ tục quy định
của pháp luật. Ông K3 và bà T6 đứng tên quyền sử dụng đất hợp pháp và đã vay
vốn thế chấp cho Ngân hàng B, đã đăng ký giao dịch đảm bảo đúng quy định của
pháp luật.
Các bên xác lập hợp đồng chuyển nhượng nhưng không có giao nhận tiền.
Vì ngày 17/5/2022 bà Tuyết E vay của ông K3 số tiền 3,4 tỷ đồng và tiền lãi đến
ngày 14/12/2022 tổng cộng 4.179.010.000 đồng. Đến ngày 12/01/2023 bà Tuyết E
viết biên nhận nợ 5.156.000.000 đồng là bao gồm khoản vay vốn 3,4 tỷ đồng và
tiền lãi. Bà Tuyết E cho rằng ông K3 và bà T6 yêu cầu bà viết thêm biên nhận nợ
cùng ngày 12/01/2023 nhằm để gia đình ông K3 và bà T6 không bất hòa nhưng nội
dung biên nhận ghi không đúng giá chuyển nhượng (giá đúng là 5.156.000.000
đồng, không phải 6.308.000.000 đồng). Vì theo hai “BIÊN NHẬN TIỀN” cùng
ngày 12/01/2023 thể hiện nội dung bà Tuyết E có nhận của ông Nguyễn Trung K3
số tiền 5.156.000.000 đồng để chuyển nhượng hai thửa đất ở Bạc Liêu và bà có
nhận số tiền 6.152.000 đồng để chuyển nhượng phần đất ở phường E. Hai biên
nhận này bà đưa cho ông K3 và bà T6 giữ nhưng tại phiên tòa bà T6 không thừa
nhận và không giữ hai biên nhận này, bà Tuyết E không có chứng cứ chứng minh.
Đối với biên nhận ngày 12/01/2023 thể hiện giá chuyển nhượng hai thửa đất ở Bạc
Liêu là 6.308.000.000 đồng, bà T6 xác định không yêu cầu bà Tuyết E viết mà bà
Tuyết E đã nhận tiền nên mới viết biên nhận này, Sau khi vay được tiền và thế
chấp tài sản mới giao tiền cho bà Tuyết E. Còn hai biên nhận trên bà không biết.
Xét thấy, “BIÊN NHẬN TIỀN” ngày 12/01/2023 thể hiện nội dung bà Phạm Thị
Tuyết E “có nhận số tiền tổng là 11.308.000.000 đồng (Mười một tỷ ba trăm lẻ tám
triệu đồng chẵn) của ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6” về việc chuyển
nhượng căn nhà đất ở phường E với số tiền 5.000.00.000 đồng và hai thửa đất ở
Bạc Liêu với số tiền 6.308.000.000 đồng là có thực tế. Đồng thời“bà Phạm Thị
Tuyết E cam kết đến ngày 12/4/2023 bà sẽ giao 03 bất động sản nói trên cho ông
Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6”. Đây là biên nhận tiền, không phải biên
nhận nợ như bà Tuyết E trình bày. Mặt khác, các bên ký hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất được xác lập sau khi bà Tuyết E vay tiền của ông K3. Tin nhắn
giữa ông K3 gửi cho bà Tuyết E về tiền vay và tiền lãi là một giao dịch khác,
không chứng minh có liên quan đến số tiền các bên thỏa thuận chuyển nhượng.
Đối với nội dung ghi âm cuộc nói chuyện điện thoại giữa bà Tuyết E với ông Trần
Đăng T10 vào các ngày 18/5/20252, 11/7/2022 và 24/5/2024 không thể hiện được
nội dung bà Tuyết E chuyển nhượng hai quyền sử dụng đất ở Bạc Liêu cho ông K3
và bà T6 để vay Ngân hàng làm ăn như bà Tuyết E đã cung cấp, trình bày. Từ các
nhận định trên án sơ thẩm không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà
Tuyết E cho nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Tuyết E
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Đ yêu cầu bị
đơn bà Trịnh Thu T6 – Chủ hộ kinh doanh Trung Nghĩa và ông Trịnh Quốc T3, án
sơ thẩm đã buộc các bị đơn thanh toán nợ. Do đó nguyên đơn yêu cầu các bị đơn
11
trả các khoản nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn và lãi chậm trả lãi là phù hợp với
quy định của pháp luật.
[4] Về Hợp đồng thế chấp tài sản. Xét thấy, các hợp đồng thế chấp tài sản để
đảm bảo khoản nợ vay được ký kết giữa nguyên đơn với các bị đơn là đúng quy
định của pháp luật về thế chấp, đăng ký giao dịch bảo đảm. Do các bị đơn đã vi
phạm nghĩa vụ không thanh toán nợ cho nguyên đơn đúng thời hạn nên chấp nhận
yêu cầu xử lý các tài sản thế chấp nêu trên để thu hồi nợ cho nguyên đơn là phù
hợp với quy định tại Điều 323 Bộ luật dân sự. Đối với toàn bộ phần đất và tài sản
gắn liền với đất tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu. Khi xử lý tài sản thế chấp
phát sinh quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án nên buộc bà Trịnh Thu T6, ông
Nguyễn Trung K3, ông Phạm Văn T5, bà Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Khánh D2
giao tài sản cho nguyên đơn xử lý là phù hợp. Nguyên đơn phải trả cho bị đơn và
ông Nguyễn Trung K3 các loại giấy tờ đã được liệt kê trong từng hợp đồng thế
chấp khi các nghĩa vụ được bảo đảm bằng tài sản này đã được thanh toán xong.
[5] Đối với bà Nguyễn Thị L trình bày: Tại phiên tòa sơ thẩm bà xác định
không yêu cầu giải quyết, bà không yêu cầu độc lập và dự nộp án phí nên Hội đồng
xét xử không xem xét. Đồng thời bà đồng ý giao tài sản thế chấp cho nguyên đơn
xử lý theo pháp luật.
[6] Tại bản án sơ thẩm có nhận định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
bà Phạm Thị Tuyết E về việc yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng đất
giữa bà với ông K3, bà T6 và hợp đồng thế chấp giữa ông K3, bà T6 với ngân hàng
đối với hai phần đất chuyển nhượng tại ấp F xã T, huyện G, tỉnh Bạc Liêu. Án sơ
thẩm có nhận định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tuyết E và tại kháng
cáo bà Tuyết E cũng yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng đất và thế
chấp tài sản là vô hiệu đối với hai phần đất trên là cùng nội dung yêu cầu khởi kiện
và nội dung kháng cáo của bà Tuyết E, nhưng phần quyết định bản án sơ thẩm
không tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tuyết E, đây là thiếu xót
của cấp sơ thẩm do đó cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về nội dung này.
[7] Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử, giữ
nguyên bản án sơ thẩm. Đề nghị này là chưa phù hợp các phân tích trên.
[8] Về án phí: Buộc bà Trịnh Thu T6 phải chịu 127.478.000 đồng. Ông
Trịnh Quốc T3 phải chịu 56.565.000 đồng. Bà Phạm Thị Tuyết E phải chịu
300.000 đồng đối với yêu cầu không được chấp nhận.
[9] Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Bà Phạm Thị Tuyết E phải chịu
2.000.000 đồng. Ngày 07/11/2024 bà Tuyết E đã dự nộp 300.000 đồng lai số
0009614 và ngày 10/10/2024 đã dự nộp 1.700.000 đồng lai số 0009427 được
chuyển thu .
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
12
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị Tuyết E.
Sửa bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 31/KDTM-ST ngày
27/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Đ.
1. Buộc bị đơn bà Trịnh Thu T6 – Chủ hộ kinh doanh Trung Nghĩa phải
thanh toán cho nguyên đơn tạm tính đến ngày 25/9/2024 với tổng số tiền
19.478.144.549 đồng (Mười chín tỷ bốn trăm bảy mươi tám triệu một trăm bốn
mươi bốn nghìn năm trăm bốn mươi chín đồng), trong đó, nợ gốc 18.600.000.000
đồng, nợ lãi trong hạn và quá hạn 811.005.089 đồng, lãi phạt quá hạn 348.823.715
đồng và tiếp tục trả lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đến khi tất toán nợ.
2. Buộc bị đơn ông Trịnh Quốc T3 phải thanh toán cho nguyên đơn tạm tính
đến ngày 25/9/2024 với tổng số tiền 1.485.515.163 đồng (Một tỷ bốn trăm tám
mươi lăm triệu năm trăm mười lăm nghìn một trăm sáu mươi ba đồng), trong đó,
nợ gốc 1.400.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn và quá hạn 60.334.247 đồng, lãi phạt
quá hạn 25.180.916 đồng và tiếp tục trả lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đến
khi tất toán nợ.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày 25/9/2024, bà Trịnh Thu T6 và ông Trịnh
Quốc T3 còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ chưa thanh
toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh
toán xong khoản nợ. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận
về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi
suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo
quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi
suất của Ngân hàng cho vay.
3. Nguyên đơn phải trả cho bà Trịnh Thu T6 và ông Nguyễn Trung K3 các
loại giấy tờ đã được liệt kê trong từng hợp đồng thế chấp khi các nghĩa vụ được
bảo đảm bằng tài sản này đã được thanh toán xong.
Không chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị Tuyết E về việc tuyên bố hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với ông K3, bà T6 và hợp đồng
thế chấp giữa ông K3, bà T6 với ngân hàng đối với hai phần đất diện tích
33.998,2m
2
thửa số 72, tờ bản đồ số 8 tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu và
phần đất diện tích 975,1m
2
thửa số 49, tờ bản đồ số 8 tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh
Bạc Liêu là vô hiệu.
4. Buộc bà Trịnh Thu T6, ông Nguyễn Trung K3, ông Phạm Văn T5, bà
Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Khánh D2 giao các tài sản thế chấp để xử lý phát
mãi theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thu hồi nợ cho Ngân hàng, gồm:
- Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 141022 diện tích 33.998,2m
2
thửa số
13
72, tờ bản đồ số 8 tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 09/5/2019 cho bà Phạm Thị Tuyết E, đăng ký biến động
chỉnh lý trang IV cho ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6 ngày 25/5/2022.
- Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 141023 diện tích 975,1m
2
thửa số 49,
tờ bản đồ số 8 tại ấp F, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 09/5/2019 cho bà Phạm Thị Tuyết E, đăng ký biến động
chỉnh lý trang IV cho ông Nguyễn Trung K3 và bà Trịnh Thu T6 ngày 25/5/2022.
- Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất Quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 662020 do Ủy ban nhân dân
huyện Đ cấp ngày 07/11/2014, đã được đăng ký biến động chỉnh lý trang IV ngày
25/04/2019 cho ông Nguyễn Trung K4 tên.
- Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất Quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 587363 do Ủy ban nhân dân
huyện Đ cấp ngày 24/04/2019 do ông Nguyễn Trung K4 tên.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bà Trịnh Thu T6 phải chịu 127.478.000
đồng (chưa nộp). Ông Trịnh Quốc T3 phải chịu 56.565.000 đồng (chưa nộp). Bà
Phạm Thị Tuyết E phải chịu 300.000 đồng, ngày 08/7/2024 bà Tuyết E đã nộp tiền
tạm ứng án phí 300.000 đồng lai thu số 0008986 và 300.000 đồng theo biên lai thu
số 0008985 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được đối trừ, còn lại
300.000 đồng được trả cho bà Tuyết E.
Nguyên đơn không phải chịu án phí, ngày 26/4/2024, nguyên đơn đã nộp
tiền tạm ứng án phí 23.329.000 đồng lai số 0008488 và ngày 26/4/2024 nguyên
đơn đã nộp tiền tạm ứng án phí 63.445.000 đồng lai thu số 0008489 tại Chi cục thi
hành án dân sự thành phố Cà Mau được trả lại toàn bộ cho nguyên đơn.
6. Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Bà Phạm Thị Tuyết E phải chịu
phải chịu 2.000.000 đồng. Ngày 10/10/2024 bà Tuyết E đã dự nộp 300.000 đồng
lai số 0009427 và ngày 07/11/2024 đã dự nộp 1.700.000 đồng lai số 0009614 tại
chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau. Được chuyển thu.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau;
- Chi cục THADS thành phố Cà Mau;
- Các đương sự;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
14
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT, (TM:TANDTCM).
(Đã ký)
Dương Hùng Quang
15
16
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm