Bản án số 06/2024/KDTM ngày 19/07/2024 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp về thuê, cho thuê, thuê mua

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 06/2024/KDTM

Tên Bản án: Bản án số 06/2024/KDTM ngày 19/07/2024 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp về thuê, cho thuê, thuê mua
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thuê, cho thuê, thuê mua
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Long Hồ (TAND tỉnh Vĩnh Long)
Số hiệu: 06/2024/KDTM
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/07/2024
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN
LONG HỒ - TỈNH VĨNH LONG
Bản án số: 06/2024/KDTM - ST
Ngày: 19 - 7 - 2024
V/v tranh chấp “Hợp đồng thuê tài sản
CỘNG A HỘI CH NGHĨA VIT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ - TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đặng Thị Ngọc Tú
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Huỳnh Kim Phượng
2. Ông Nguyễn Văn Nghĩa
- Thư phiên tòa: NThị Ái Nhân - Thư Tòa án nhân dân huyện
Long Hồ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ tham gia phiên toà: Ông
Trần Long Châu - Kiểm sát viên
Ngày 19 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử
thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ số: 06/2024/TLST - KDTM
ngày 19 tháng 3 năm 2024 về việc tranh chấp Hợp đồng thuê tài sản” theo Quyết
định đưa ván ra xét xử số: 06/2024/QĐXXST - KDTM ngày 24 tháng 6 m 2024
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty TNHH TMV VL.
Địa chỉ: Lô II-1 KCN HP, ấp PH, xã HP, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long.
- Người đại diện theo pháp luật: ông LEE HAN HO; Chức danh: Tổng giám đốc
- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
+ Chị Trần Thị Ngọc Y, sinh năm 2002; Trú tại: ấp TP A, xã TB, huyện PH, tỉnh
Hậu Giang (Theo giấy ủy quyền ngày 14/05/2024) (có mặt)
+ Chị Trần Thị Huỳnh N, sinh năm 1996; Trú tại: ấp BC, xã NB, huyện , tỉnh
Vĩnh Long (Theo giấy ủy quyền ngày 30/01/2024) (có mặt)
-Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật Nguyễn
Thành Đ, Văn phòng luật TNHH CĐ Thuộc đoàn sư thành phố Cần Thơ (có mặt)
2.Bị đơn: Công ty TNHH NSTL
Địa chỉ: Số 12A/1 ấp PL, xã LH, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long
2
-Người đại diện theo pháp luật: Ông Huỳnh Phước P; Chức danh: Giám đốc
-Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Anh Anh T, sinh năm 1983, Trú
tại: Số 34/1B đường 2/9, phường 1, TP.Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long (Theo hợp đồng
ủy quyền ngày 09/4/2024) (có mặt)
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Huỳnh Phước B, sinh năm 1971
Trú tại: ấp PL, xã LH, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long
-Người đại diện hợp pháp của anh Huỳnh Phước Bình: Chị Huỳnh Thị Mỹ H,
sinh năm 1965, Trú tại: ấp PL, LH, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long (Theo hợp đồng
ủy quyền ngày 13/5/2024) (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Trong đơn khởi kiện ngày 31/01/2024 trong quá trình giải quyết vụ án
cũng như tại phiên tòa thẩm người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình
bày:
-Ngày 19/4/2019 Công ty TNHH TMV VL (gọi tắt công ty TMV VL)
công ty TNHH NSTL (gọi tắt công ty TL) hợp đồng cho thuê nhà kho số
02/HĐTMB/2019; thuê nhà kho nhà tiền chế, khung cột tông cốt thép, vách
tường, mái tole, nền bê tông, diện tích khoảng 2.100m
2
, xây dựng trên phần đất thửa
số 109, 110, tờ bản đồ số 33, tọa lạc ấp TH, TH, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long
với thời hạn thuê 03 năm; Mục đích thuê nhà kho làm nxưởng kinh doanh sản
xuất bao nylon. Giá thuê 70.000.000đ/tháng. Trong thời gian thuê kho phía
công ty có láng nền epoxy toàn bộ kho với số tiền 206.900.000đ; xây dựng nhà để xe
cho nhân viên, thi công lại hệ thống điện trong khu nhà kho trị giá 227.541.000đ, lắp
đặt trần chống nóng trị giá 109.000.000đ.
- Hợp đồng thuê ngày 19/4/2019 sau 03 năm đã kết thúc, nên hai bên tiến hành
gia hạn hợp đồng vào ngày 03/12/2021 hai bên phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ
điều chỉnh hợp đồng cho thuê kho số 02/HĐTMB/2019 về việc gia hạn thời hạn cho
thuê nhà kho thêm 01 năm từ ngày 01/3/2022 đến ngày 01/3/2023.
- Ngày 28/02/2023 nguyên đơn bị đơn lại tiếp tục hợp đồng thuê nhà
kho số 03/HĐTMB/2023, hai bên thỏa thuận cho thuê nhà kho trên về thời hạn thuê
03 năm kể từ ngày 01/3/2023, với giá thuê 88.000.000đ/tháng chưa tính thuế giá trị
gia tăng 10% khi xuất hoá đơn; phía nguyên đơn đặt cọc cho bị đơn số tiền
528.000.000đ.
Hai bên thoả thuận trường hợp bị đơn cần lấy lại nhà kho trước thời hạn thì
phải thông báo cho nguyên đơn trong thời hạn 60 ngày, và hoàn trả lại tiền cọc
bồi thường bằng số tiền cọc. Nếu bên nguyên đơn kết thúc hợp đồng trước thời hạn
thì bên bị đơn sẽ không hoàn trả lại tiền cọc trong trường hợp nguyên đơn có lỗi.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng thì Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Long
chỉ điều chỉnh thời hạn hoạt động dự án xưởng sản xuất, gia công màng Vinyl túi
3
nylon các loại của nguyên đơn đến ngày 31/3/2024. Nguyên nhân do nhà xưởng của
bị đơn cho nguyên đơn thuê không đủ giấy tờ pháp lý, nhà xưởng không giấy
phép xây dựng, hồ sơ hoàn công từ cơ quan có thẩm quyền, phía công ty Thiên Long
không đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Luật bất động sản để cho thuê n
kho, nên nguyên đơn phải chấm dứt hợp đồng thtrước hạn. Phía nguyên đơn đã
gửi văn bản đến bị đơn 02 lần vào các ngày 06/11/2023 09/01/2024 để chấm dứt
hợp đồng, nhưng phía bị đơn không hợp tác, không phản hồi. Đây trường hợp bất
khả kháng theo chính sách của Nhà nước buộc dự án phải chấm dứt do lỗi của phía
cho thuê nhà xưởng không đáp ứng đủ điều kiện cho thuê theo quy định của pháp
luật.
Do không thể tiếp tục kinh doanh, nên nguyên đơn đã chấm dứt hoạt động
theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền từ sau ngày 31/3/2024. Từ ngày
31/5/2024 phía nguyên đơn đã di dời toàn bộ tài sản của công ty ra khỏi phần nhà
kho thuê của phía bị đơn đã thông báo cho bị đơn bằng văn bản về việc này,
nhưng phía bị đơn không phản hồi tiếp nhận nhà kho, nên hiện nay nguyên đơn
đóng cửa nhà kho phía nguyên đơn cử người trông coi bảo quản, quản tài sản
trên phần đất cho thuê kho. Phía nguyên đơn đã thanh toán đầy đủ tiền thuê kho cho
bị đơn đến hết tháng 5/2024. Phía nguyên đơn khi thuê kho của bị đơn thì chỉ biết
phần đất cất nhà kho nằm trên hai thửa đất thửa số 109, 110, tờ bản đồ số 33, tọa lạc
ấp Tân Hưng, Tân Hạnh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Đến năm 2023 phía
nguyên đơn mới biết phần thửa đất 109 diện tích 2.853m
2
, loại đất cơ sở sản xuất phi
nông nghiệp, thời hạn sử dụng lâu dài, thửa 110 diện tích 5410m
2
loại đất nông
thôn và trồng cây lâu năm.
Nguyên đơn yêu cầu khởi kiện như sau:
- Yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê kho số 03/HĐTMB/2023 ngày 28/2/2023
giữa Công ty TNHH NSTL và Công ty TNHH TMV VL kể từ ngày 31/5/2024.
- Yêu cầu Công ty TNHH NSTL trả đầy đủ tiền đặt cọc là 528.000.000đ.
- Công ty TNHH TMV VL t lại một phần khởi kiện đối với bị đơn về việc
yêu cầu thanh toán toàn bộ chi phí xây dựng hoàn chỉnh nhà xưởng cho Công ty
TNHH TMV VL tạm tính 770.726.152đ, tương đương 70% giá trị sử dụng còn lại
của các hạng mục Công ty TNHH TMV VL đã đầu xây dựng hoàn chỉnh nhà
xưởng.
- Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại đơn phản tố, tại phiên toà:
người đại diện hợp pháp của bị đơn anh Lê Anh T trình bày:
Ngày 19/4/2019 giữa bị đơn và nguyên đơn có ký hợp đồng cho thuê nhà kho
số 02/HĐTMB/2019 về việc cho thuê nhà kho là ntiền chế, khung cột tông cốt
thép, vách tường, mái tole, nền tông, diện tích khoảng 2.100m
2
, xây dựng trên
phần đất thửa số 109, 110, tờ bản đồ số 33, tọa lạc ấp Tân Hưng, Tân Hạnh,
huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Trong đó phần thửa đất 109 diện tích 2.853m
2
, loại
đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, thời hạn sử dụng lâu dài, thửa 110 diện ch
4
5410m
2
loại đất nông thôn trồng cây lâu năm. Phần đất này của nhân anh
Huỳnh Phước Bình đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh Bình làm hợp
đồng uỷ quyền giao toàn bộ tài sản trên đất quyền sử dụng đất cho Công ty
TNHH NSTL quản lý, sử dụng, cho thuê, thực hiện tất cả các quyền của chủ sử
dụng. Các tài sản có trên đất thửa 109, 110 đều không có giấy chứng nhận sở hữu tài
sản trên đất. Thời hạn thuê 03 năm; Mục đích thuê nhà xưởng là kinh doanh sản xuất
bao bì nylon; Giá thuê là 70.000.000đ/tháng.
Ngày 03/12/2021 hai bên phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ điều chỉnh hợp
đồng cho thuê kho số 02/HĐTMB/2019 về việc gia hạn thời hạn cho thuê nhà kho
thêm 01 năm từ ngày 01/3/2022 đến ngày 01/3/2023
Sau khi chấm dứt hợp đồng số 02/HĐTMB/2019 thì vào ngày 28/02/2023
nguyên đơn và bị đơn tiếp tục hợp đồng thuê nkho số 03/HĐTMB/2023, hai
bên thỏa thuận cho thuê nhà kho về thời hạn thuê 03 năm kể từ ngày 01/3/2023, ngày
kết thúc hợp đồng 01/3/2026, với giá thuê 88.000.000đ/tháng chưa tính thuế giá trị
gia tang 10% khi xuất hoá đơn.
Tại Điều 4 Hợp đồng quy định: Bên nguyên đơn mất toàn bộ tiền cọc bồi
thường thiệt hại nếu khi bên nguyên đơn đơn phương chấp dứt hợp đồng bên
phía bị đơn không có lỗi, hoặc bên bị đơn yêu cầu chấm dứt hợp đồng do bên nguyên
đơn vi phạm hợp đồng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên cho thuê đã thực hiện đầy đủ quyền
nghĩa vụ của bên cho thuê, phần đất bị đơn cho thuê nằm trên hai thửa là 109
110 đất sở sản xuất phi nông nghiệp, cộng với đất ở, đất trồng cây lâu năm,
phù hợp với quy định của pháp luật. Theo hợp đồng số 03 thì thời hạn cho thuê đến
năm 2026. Phía bị đơn nhận được văn bản số 5886 ngày 19/10/2023 của Uỷ ban
nhân dân tỉnh Vĩnh Long điều chỉnh thời gian hoạt động của công ty TNHH TMV
VL đến tháng 12/2024, nên phía bị đơn có thiện chí chỉ yêu cầu bên nguyên đơn tiếp
tục thực hiện hợp đồng thuê đến tháng 12/2024. Bên bị đơn có nhận được 02 văn bản
xin chấm dứt hợp đồng trước hạn 01 thông báo bàn giao nhà kho của bên nguyên
đơn, nhưng phía bên bị đơn không đồng ý, nên không có phản hồi thông báo.
Theo yêu cầu của nguyên đơn nên bị đơn không đồng ý: phía bị đơn yêu cầu:
- Tiếp tục thực hiện hợp đồng số 03 đến hết tháng 12/2024 theo văn bản số
5886/UBND-KTNV ngày 19/10/2023, tờng hợp nguyên đơn đơn phương chấp dứt
hợp đồng trước tháng 12/2024 thì bên bị đơn không đồng ý hoàn trả lại tiền đặt cọc
528.000.000đ cho nguyên đơn.
- Hiện nay công ty TNHH TMV VL đã trả tiền thuê kho đến tháng 5/2024, phía
nguyên đơn yêu cầu phản tố yêu cầu Công ty TNHH TMV VL trả tiền thuê
tháng 6/2024 với số tiền là 96.800.000đ đã bao gồm thuế.
- Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Huỳnh
Thị Mỹ H trình bày:
5
Anh Huỳnh Phước B người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thửa đất số 109,110 tờ bản đồ số 33, tọa lạc tại ấp TH, TH, huyện Long Hồ, tỉnh
Vĩnh Long. Ngày 29/12/2022 anh nh có ủy quyền cho công ty TNHH NSTL được
quyền trực tiếp quản lí, sử dụng, cho thuê kho, kết hợp đồng cho thuê kho, thanh
hủy bhợp đồng. Tiền cho thuê kho công ty NSTL được hưởng, các nghĩa vụ
liên quan do công ty TNHH NSTL chịu trách nhiệm thực hiện. Anh B không ý
kiến gì liên quan đến vụ kiện, giao toàn quyền cho công ty TNHH NSTL quyết định.
Phần tranh luận:
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn khi nguyên đơn ký kết hợp đồng
thuê nhà kho với bị đơn thì phía bên bị đơn hỗ trợ cho nguyên đơn trong việc xin
giấy phép đầu tư, phía nguyên đơn hoàn toàn tin tưởng vào đối tác của mình, hợp
đồng đầu tiên đều thực hiện tốt nên phía nguyên đơn mới tiếp tục kết hợp đồng
thuê kho số 03, tuy nhiên khi xin gia hạn giấy phép đầu của dự án thì gặp khó
khăn phần đất bên nguyên đơn thuê của bị đơn không phù hợp quy hoạch đất
của địa phương, phần nhà kho bị đơn cho nguyên đơn thuê chưa giấy chứng
nhận quyền sở hu tài sản, nên không phù hợp theo luật kinh doanh bất động sản.
Các quan Nhà nước đồng ý cho bên phía nguyên đơn gia hạn thời gian hoạt động
đến hết tháng 12/2024 tạo điều kiện cho nguyên đơn tìm kiếm đại điểm mới,
nhưng kèm theo điều kiện phải đảm bảo các điều kiện về đất đai, xây dựng, môi
trường…. Do mục đích thuê nhằm phục vụ sản kinh doanh nhưng không đạt được,
nên công ty TMV VL chỉ xin gia hạn đến hết tháng 3/2024, trước đó phía nguyên
đơn cũng đã gửi văn bản xin chấm dứt hợp đồng thuê trước hạn gửi cho bị đơn. Việc
chấm dứt hợp đồng trước hạn hoàn toàn không do lỗi của phía nguyên đơn mà
nguyên nhân là do phía bên bị đơn.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn cho rằng hợp đồng thuê tài sản giữa nguyên
đơn bị đơn được kết từ năm 2019, phía bên nguyên đơn đã biết tình trạng
phần đất thuê kho, phía bị đơn cũng đã hỗ trợ cho bên nguyên đơn trong quá trình
xin giấy phép đầu dự án, phần đất cho thuê kho đất sản xuất kinh doanh, mặc
tài sản trên đất không giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, nhưng nhà kho
này được xây dựng trước năm 2004, nên phù hợp với quy định của pháp luật. Phía bị
đơn thiện chí chyêu cầu bên nguyên đơn thực hiện hợp đồng thuê đến hết tháng
12/2024 nhưng phía nguyên đơn không đồng ý, nên căn cứ vào hợp đồng số 03 bên
bị đơn không đồng ý trả lại số tiền cọc 528.000.000đ cho nguyên đơn và yêu cầu bên
nguyên đơn trả tiền thuê tháng 6/2024 với số tiền 96.800.000đ.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ:
1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư
phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ cho đến trước thời
điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng đầy đủ các quy định của pháp
luật.
6
2. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá
trình giải quyết vụ án
Nguyên đơn, bị đơn, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đầy
đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73, 234 B lut TTDS.
3. Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Nguyên đơn u cầu cấm dứt hợp đồng thuê số 03 căn cứ theo quy định
tại khoản 1 Điều 428, 478 BLDS vì phía bị đơn có một phần lỗi dẫn đến việc các bên
không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng. Tại Điều 4 hợp đồng số 03 quy định phía bị
đơn phải đảm bảo cho bên B sử dụng ổn định trong thời gian thuê. Tuy nhiên tại Công
văn số 1878/SKHĐT-KT, ngày 20/6/2023 của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Long
thể hiện “....vị trí xây dựng n kho cho Công ty TNHH TMV VL thuê thuộc quy hoạch
đất ở kết hợp với đất thương mại, dịch vụ, do đó việc y dựng tại vị trí này không
phù hợp quy hoạch sử dụng đất. Đồng thời, theo quy định của pháp luật về kinh
doanh bất động sản thì điều kiện để đưa bất động sản vào kinh doanh phải có đăng
quyền sở hữu công trình xây dựng gắn liền với đất trong giấy chứng nhận về quyền s
dụng đất (Điều 9 Luật Kinh doanh bất động sản)....”.
Đối với phần tiền cọc mà phía bị đơn đã nhận, do phía bị đơn lỗi dẫn đến
việc hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện theo thỏa thuận, vậy bị đơn phải
nghĩa vụ trả lại cho nguyên đơn số tiền cọc là 528.000.000 đồng.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn yêu cầu Công ty TNHH TMV VL trả tiền
thuê tháng 6/2024 với số tiền 96.800.000 đồng cho Công ty TNHH NSTL, xét thấy
bị đơn bên lỗi dẫn đến việc hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện theo thỏa
thuận, nên yêu cầu này không có cơ sở.
Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ Điu 147, 217, 219, 227, 228, 244 Bluật TTDS năm 2015; Điều 422,
khoản 1 Điều 428, 472, 478 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1, 2, 5 Điều 26 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTV Quốc Hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH TMV
VL đối với yêu cầu buộc Công ty NSTL thanh toán toàn bộ chi phí xây dựng hoàn
chỉnh nhà xưởng cho Công ty TNHH TMV VL tạm nh 770.726.152 đồng, tương
đương 70% giá trị sử dụng còn lại của các hạng mục Công ty TNHH TMV VL
đã đầu tư xây dựng hoàn chỉnh nhà xưởng.
- Chấp nhn tn bộ yêu cầu khởi kin của nguyên đơn Công ty TNHH TMV VL
Chấm dứt hợp đồng thuê kho số 03/HĐTMB/2023 ngày 28/2/2023 giữa Công ty
TNHH NSTL và Công ty TNHH TMV VL.
Buộc Công ty TNHH nông sản Thiên Long nghĩa vụ trả cho Công ty TNHH
TMV VL số tiền 528.000.000 đồng tiền đặt cọc.
7
Buộc Công ty TNHH TMV VL phải nghĩa vụ giao lại nhà kho đã thuê tại
Hợp đồng thuê nhà kho số 03/HĐTMB/2023, ngày 28/02/2023trên thửa số 109,
110, tờ bản đồ số 33, tọa lạc ấp TH, n Hạnh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long
cho phía Công ty TNHH NSTL.
- Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH NSTL đối với
yêu cầu buộc Công ty TNHH TMV VL trả tiền thuê tháng 06/2024 với số tiền
96.800.000 đồng cho Công ty TNHH NSTL.
- Về án phí: buộc Công ty TNHH NSTL phải chịu 32.960.000 đồng tiền án phí
KDTM sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan htranh chấp, thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu
cầu chấm dứt hợp đồng thuê tài sản (nhà kho) đòi lại số tiền cọc. Nguyên đơn
bị đơn đều đăng ký kinh doanh mục đích lợi nhuận. Bị đơn và bất động sản
thuê toạ lạc tại xã Tân Hạnh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Theo quy định tại Điều
30, 35, 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ.
[2] Về nội dung vụ án:
- Nguyên đơn và bị đơn thừa nhận hai bên hợp đồng cho thuê nhà kho
số 03/HĐTMB/2023 ngày 28/2/2023; thuê nhà kho nhà tiền chế, khung cột bê
tông cốt thép, vách tường, mái tole, nền bê tông, diện tích khoảng 2.100m
2
, xây dựng
trên phần đất thửa số 109, 110, tờ bản đồ số 33, tọa lạc ấp TH, TH, huyện Long
Hồ, tỉnh Vĩnh Long do ông Huỳnh Phước Bình đứng tên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thời hạn thuê 03 m; Mục đích thuê nhà kho làm nhà xưởng sản xuất
kinh doanh bao nylon. Giá thuê 88.000.000đ/tháng chưa tính thuế giá trị gia
tăng 10% khi xuất hoá đơn. Nguyên đơn đặt cọc cho phía bị đơn số tiền
528.000.000đ. Đây những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định
tại Điều 92 Bộ luật T tụng dân sự.
[2.1] Xét thấy, việc công ty TMV VL yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê kho với
công ty Thiên Long từ ngày 31/5/2024 schấp nhận, bởi lẽ: sau khi kết
hợp đồng thuê số 03 ngày 28/02/2023, Công ty TMV VL tiến hành xin gia hạn giấy
phép hoạt động dự án, nhưng tại Công văn số 1878/SKHĐT-KT của Sở Kế hoạch và
Đầu tỉnh Vĩnh Long ngày 20/6/2023 gửi Công ty TMV VL thì vị trí phần đất
Công ty TMV VL thuê từ Công ty NSTL thuộc quy hoạch đất kết hợp đất thương
mại, dịch vụ, do đó, việc xây dựng nhà nhà kho cho công ty TMV VL thuê thực hiện
dự án xưởng sản xuất, gia công màng Vinyl và túi nylon tại vị trí này không phù
hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt. Đồng thời, theo quy định của
pháp luật về kinh doanh bất động sản thì điều kiện để đưa bất động sản vào đăng
kinh doanh phải có đăng ký quyền sở hữu công trình xây dựng gắn liền với đất trong
8
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Điều 9 Luật kinh doanh bất động sản). Như vậy
phần lỗi dẫn đến việc không tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê nhà kho số 03 ngày
28/02/2023 thuộc về phía Công ty NSTL. Phía bị đơn không đáp ứng được các điều
kiện cho thuê nhà xưởng theo quy định pháp luật m cho nguyên đơn gặp khó khăn
trong việc xin gia hạn giấy phép hoạt động dự án, mục đích thuê nhà kho làm nơi sản
xuất kinh doanh của nguyên đơn không đạt được. Do phía nguyên đơn không lỗi,
nên phần tiền đặt cọc 528.000.000đ buộc công ty NSTL trách nhiệm trả lại cho
công ty TMV VL.
[2.2] Đối với yêu cầu phản tố của công ty NSTL yêu cầu Công ty TNHH TMV
VL trả tiền thuê tháng 6/2024 là 96.800.000đ là không có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ, lỗi
trong việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà kho trước thời hạn thuộc về phía công ty
Thiên Long, phía công ty TMV VL thông báo với công ty NSTL yêu cầu chấm
dứt hợp đồng thuê nhà kho từ tháng 3/2024, nhưng phía công ty TMV VL vẫn thanh
toán tiền thuê đến hết tháng 5/2024 cho công ty NSTL, mới di dời tài sản và gửi
thông báo bàn giao kho cho phía bị đơn là có lợi cho phía bị đơn.
Việc công ty Thiên Long cho rằng dán của công ty TMV VL được Sở Kế
hoạch Đầu tư tỉnh Vĩnh Long cho gia hạn giấy phép đầu đến hết tháng
12/2024, nên yêu cầu công ty TMV VL tiếp tục hợp đồng thuê kho không
sở, bởi lẽ, việc gia hạn thời gian hoạt động của công ty là cơ quan Nhà nước tạo điều
kiện cho công ty TMV VL thời gian để tìm địa điểm khác để thực hiện dự án,
đồng thời khi gia hạn đến hết tháng 12/2024 phải có điều kiện ràng buộc Công ty
TNHH TMV VL phải hoàn toàn chịu trách nhiệm tuân thủ thực hiện đầy đủ các
quy định liên quan trong quá trình sản xuất kinh doanh ất đai, đầu tư, xây dựng,
môi trường, PCCC,...) ch không phải đương nhiên được gia hạn đến hết tháng
12/2024; phần đất nhà kho cho thuê không đáp ứng điều kiện như yêu cầu của
quan quản lý Nhà nước, nên không thể thực hiện được.
[2.3] Công ty TNHH TMV VL rút lại yêu cầu đối với bị đơn về việc yêu cầu
thanh toán toàn bộ chi phí xây dựng hoàn chỉnh nhà xưởng cho Công ty TNHH
TMV VL tạm tính 770.726.152đ, tương đương 70% giá trị sử dụng còn lại của các
hạng mục Công ty TNHH TMV VL đã đầu xây dựng hoàn chỉnh nhà xưởng,
đây sự tự nguyện của phía nguyên đơn, phù hợp với quy định pháp luật, nên Hội
đồng xét xử Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của nguyên đơn
[3] Về án phí: Buộc Công ty TNHH NSTL phải chịu tiền án phí kinh doanh
thương mại sơ thẩm cụ thể như sau:
- 3.000.000đ tiền án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm không có giá ngạch
- 25.120.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm gngạch do chấp nhận yêu cầu
của nguyên đơn [20.000.000đ + 5.120.000đ ( 4% của số tiền vượt quá 400.000.000đ
trong tổng số tiền 528.000.000đ)]
- 4.840.000đ tiền án phí do yêu cầu phản t của bị đơn không được chấp nhận.
Tổng cộng 32.960.000đ.
9
[4] Xét đề nghị của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là
có cơ sở chấp nhận toàn bộ.
[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa sở
chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 147, 244 Bộ luật tố tụng Dân s; Điều 269, 270, 271, 275
Luật thương mại năm 2005; Điều 428, 472, 481, 482, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Chấm dứt hợp đồng thuê kho số 03/HĐTMB/2023 ngày 28/2/2023 giữa Công
ty TNHH TMV Vĩnh Long và Công ty TNHH NSTL kể từ ngày 31/5/2024.
Công ty TNHH TMV VL có nghĩa vụ giao trả lại nhà kho đã th tại “Hợp đồng
thuê nhà kho số 03/HĐTMB/2023, ngày 28/02/2023được xây dựng trên phần đất
thửa số 109, 110, tờ bản đồ số 33, tọa lạc ấp TH, TH, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh
Long cho Công ty TNHH NSTL.
- Buộc Công ty TNHH NSTL nghĩa vụ trả lại cho công ty TNHH TMV
VLsố tiền đặt cọc là 528.000.000đ (Năm trăm hai mươi tám triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả
các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật
Dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty TNHH NSTL đòi Công ty
TNHH TMV VL trả tiền thuê tháng 6/2024 với số tiền 96.800.000đ.
3. Đình chỉ xét xđối phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH TMV VL
yêu cầu Công ty TNHH NSTL thanh toán toàn bộ chi phí xây dựng hoàn chỉnh nhà
xưởng là 770.726.152đ, tương đương 70% gtrị sử dụng còn lại của các hạng mục
mà Công ty TNHH TMV VL đã đầu tư xây dựng hoàn chỉnh nhà xưởng.
4. Về án phí kinh doanh thương mại thẩm: Buộc Công ty TNHH NSTL
phải chịu 32.960.000đ (Ba mươi hai triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng) nhưng
đưc tr vào s tin tm ng án phí kinh doanh thương mại thẩm đã nộp
2.420.000đ theo biên lai thu tiền số 0001257 ngày 18/6/2024 của Chi cục thi hành án
dân sự huyện Long Hồ; Công ty TNHH NSTL còn phải nộp 30.540.000đ (Ba mươi
triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng) tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
10
Hoàn trả cho Công ty TNHH TMV VL số tiền 25.480.000 (Hai ơi lăm triệu
bốn trăm tám mươi nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số
0000909 ngày 19/3/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh
Long.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật thi hành án dân
sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn
15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Vĩnh Long THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Long Hồ; (Đã ký)
- Chị cục THADS huyện Long Hồ;
- Các đương sự;
- Lưu VP, HS./.
Đặng Thị Ngọc Tú
Tải về
Bản án số 06/2024/KDTM Bản án số 06/2024/KDTM

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 06/2024/KDTM Bản án số 06/2024/KDTM

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất