Bản án số 02/2025/KDTMPT ngày 10/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về cung ứng dịch vụ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2025/KDTMPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2025/KDTMPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2025/KDTMPT
Tên Bản án: | Bản án số 02/2025/KDTMPT ngày 10/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về cung ứng dịch vụ |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về cung ứng dịch vụ |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 02/2025/KDTMPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/01/2025 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 02/2025/KDTM-PT
Ngày 10 - 01- 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng dịch vụ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Dương Hùng Quang.
Các Thẩm phán: Bà Châu Minh Hoàng.
Bà Đinh Cẩm Đào.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Bằng là Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Cà Mau
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa: Ông
Hữu Duy Khánh – Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 10/2024/TLPT-
KDTM ngày 23 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”
Do bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số số: 25/2024/DS-ST ngày 12
tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 10/2024/QĐ-PT ngày 08
tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Tư vấn và đầu tư xây
dựng H.
Địa chỉ: Số I, N, Khóm H, phường E, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Đại diện hợp pháp: Ông Võ Văn H, sinh năm 1978
Địa chỉ: Khóm D, phường E, thành phố C, tỉnh Cà Mau (có mặt)
- Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH MTV) Huỳnh
C.
Địa chỉ: Số E, N, khu V, phường A, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện hợp pháp: Ông Đào Công K, sinh năm: 1964
Địa chỉ: Số A, L, khóm G, phường H, thành phố C, tỉnh Cà Mau (có mặt).
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty P – Công ty cổ phần (viết
tắt là PVFCCo)
Địa chỉ: Số D, đường M, phường Đ, quận A, thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quốc T, bà Trần Thanh H1, bà Lê Thị
T1.
Cùng địa chỉ: Số D, đường M, phường Đ, quận A, thành phố Hồ Chí Minh
(có mặt).
Người kháng cáo: Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Tư vấn và đầu tư
xây dựng H là nguyên đơn và Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
(TNHH M) Huỳnh C là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn và trong quá trình giải quyết vụ án thể
hiện:
Ngày 11/6/2018, Công ty TNHH T (gọi tắt là Công ty H) ký Hợp đồng Tư
vấn số 15/2018/HĐ-TV về việc tư vấn đo vẽ hiện trạng thửa đất, lập bản vẽ, thủ
tục và xin giấy phép quy hoạch khu đất, khảo sát đo đạc địa hình, lập đề xuất dự án
đầu tư -Xin cấp chứng nhận đầu tư, Lập dự án đầu tư xây dựng - Thiết kế cơ sở,
Lập hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công- dự toán, Xin phép xây dựng HTKT, Nhà ở đối
với dự án Khu nhà ở liên kế tổ hợp Thương mại C tại phường E, thành phố C.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng Công ty H đã thực hiện được các công việc
theo hợp đồng và đã bàn giao sản phẩm cho Công ty H.
Quá trình thực hiện hợp đồng Công ty H đã tạm ứng số tiền 280.000.000
đồng từ Công ty H. Giá trị hoàn thành các phần việc trong hợp đồng tương ứng với
số tiền 1.088.796.000 đồng. Do Giám đốc Công ty TNHH MTV H (gọi tắt là Công
ty H) là ông Châu Thành N phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” liên quan đến
dự án trên nên hai bên không thể tiếp tục hợp đồng tư vấn số 15/2018/HĐ-TV. Tại
bản án số 1002/2023/HS-PT ngày 22/12/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh buộc Công ty H nộp lại số tiền 280.000.000 đồng đã tạm
ứng của Công ty H. Do đó, hiện nay Công ty H yêu cầu Công ty H thanh toán cho
Công ty H số tiền 1.088.796.000 đồng.
Đồng thời, ngày 05/7/2016, Công ty H và Công ty P có thỏa thuận hợp tác
số 388A/2016/PVFCCo (gọi tắt là thỏa thuận hợp tác). Tại điểm 2.1 điều 2 của
thỏa thuận hợp tác, phụ lục 01, 02 giữa Công ty H và Công ty P có liên quan đến
nội dung hợp đồng tư vấn giữa Công ty H và Công ty H. Điểm c mục 3.1.1 điều 3
của Thỏa thuận hợp tác nêu thì công ty H có toàn quyền đầu tư, xây dựng, khai
thác. Từ nội dung thỏa thuận này thì Công ty H mới ký hợp đồng tư vấn với Công
ty H để thực hiện các mục của công trình Khu nhà ở liên kế thuộc Tổ hợp Thương
mại C1. Căn cứ điểm b mục 3.2 điều 3 của Thỏa thuận hợp tác có nêu bên Công ty
3
H có quyền thay mặt bên Công ty D để ký các hợp đồng thực hiện các nội dung để
phục vụ dự án nêu trên.
Hiện nay Công ty P là người chiếm hữu và hưởng lợi các sản phẩm từ hợp
đồng tư vấn đã ký kết giữa Công ty H và Công ty H. Công ty P biết và đồng ý việc
ký hợp đồng giữa Công ty H và Công ty H. Giữa Công ty H và Công ty P có các
trao đổi trực tiếp qua mail về việc thực hiện các nội dung của hợp đồng tư vấn giữa
Công ty H và Công ty H.
Từ đó Công ty H yêu cầu buộc Công ty P phải có nghĩa vụ liên đới với
Công ty H trả cho Công ty H số tiền 1.088.796.000 đồng theo Hợp đồng số
15/2018/HĐ-TV ngày 11/6/2018 giữa Công ty H và Công ty H. Ngoài ra không
yêu cầu gì khác.
* Bị đơn trình bày:
Thừa nhận ngày 11/6/2018, Công ty H và Công ty Đ có ký hợp đồng số
15/2018/HĐ-TV. Quá trình thực hiện hợp đồng Công ty H đã tạm ứng số tiền
280.000.000 đồng. Ngày 31/12/2020, hai bên đã gặp nhau để đối chiếu công nợ có
biên bản đối chiếu kèm theo, bên Công ty H còn nợ lại công ty H tổng số tiền
808.796.000 đồng. Tuy nhiên, do phía bên Công ty H đã nộp lại số tiền
280.000.000 đồng tạm ứng của Công ty H trước đây trong vụ án hình sự của ông
Châu Thành N nên số tiền Công ty H còn nợ Công ty H tổng cộng là
1.088.796.000 đồng.
Ngày 05/7/2016 Công ty H và Công ty P có ký thỏa thuận hợp tác số
388A/2016/PVFCCo – Huynh Chau – Hop tac với nội dung là chuyển mục đích sử
dụng khu đất diện tích 1.23 hecta tại phường E, thành phố C để thực hiện dự án
Khu nhà ở liên kế thuộc Tổ hợp Thương mại C1. Hai bên thỏa thuận phía bên
Công ty H được quyền nhân danh bên PVFCCo toàn quyền thực hiện tất cả các thủ
tục để đầu tư, xây dựng, chuyển mục đích sử dụng đất, xin phép xây dựng để thực
hiện dự án trên. Trong quá trình thực hiện hợp đồng do nhiều nguyên nhân nên kéo
dài thời gian so với thỏa thuận. Sau đó, PVFCCo đơn phương chấm dứt thỏa thuận
giữa hai bên nhưng không thông báo trước cho Công ty H. Do PVFCCo đã đơn
phương chấm dứt hợp đồng làm cho Công ty H tổn thất và hiện nay PVFCCo là
người thừa hưởng những sản phẩm mà phía bên Công ty H và Công ty H đã thực
hiện tại Hợp đồng tư vấn số 15/2018/HĐ-TV. Nay Công ty đồng ý thanh toán cho
Công ty H số tiền 1.088.796.000 đồng nhưng yêu cầu PVFCCo cùng có trách
nhiệm liên đới với Công ty H trả số tiền 1.088.796.000 đồng cho bên Công ty H.
Ngoài ra, Công ty không yêu cầu gì khác.
Theo các văn bản trình bày ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án, được bổ
sung tại phiên tòa đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
Công ty P - CTCP trình bày: Tổng công ty là chủ đầu tư dự án trên khu đất 1.23ha
thuộc tổ hợp Trung tâm thương mại C2 tại phường E, thành phố C. Căn cứ chủ
4
trương trong việc triển khai thực hiện dự án được cấp có thẩm quyền của Tổng
công ty phê duyệt thì Tổng công T2 và Công ty H có ký thỏa thuận hợp tác số
388A/2016/PVFCCo và phụ lục số 01, 02 ngày 05/7/2016. Nội dung của Thỏa
thuận hợp tác liên quan đến việc phối hợp giữa các bên để thực hiện các thủ tục
chuyển đổi mục đích sử dụng đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên. Quá
trình thực hiện thỏa thuận hợp tác tại phụ lục 04 ký ngày 03/9/2019 có nêu thời hạn
để bên H hoàn thành các thủ tục trước ngày 31/12/2020. Tuy nhiên, đến ngày này
thì Công ty H vẫn chưa thực hiện xong nên phía PVFCCo đã có thông báo số 796
ngày 19/5/2021 thông báo chấm dứt hợp đồng với Công ty H vì Công ty H vi phạm
thỏa thuận hợp tác cụ thể là Công ty H đã có hành vi huy động vốn trái pháp luật vi
phạm các nội dung trong thỏa thuận hợp tác mà hai bên đã ký kết. Hiện nay
PVFCCo có sử dụng sản phẩm của Công ty H nhưng đây là sản phẩm do Công ty
H bàn giao cho PVFCCo theo thỏa thuận hợp tác giữa hai bên.
PVFCCo được biết Công ty H và Công ty H có ký hợp đồng tư vấn số
15/2018/HĐ-TV. Chủ thể của hợp đồng này là Công ty H và Công ty H, nội dung
hợp đồng không có điều khoản nào liên quan đến quyền và nghĩa vụ của PVFCCo,
việc ký hợp đồng giữa Công ty H và Công ty H không có can thiệp, không có tác
động. Do đó, PVFCCo không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn về
việc yêu cầu PVFCCo cùng có trách nhiệm liên đới trả nợ cho Công ty H. Ngoài
ra, PVFCCo không có yêu cầu nào khác.
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 25/2024/DS-ST ngày 12
tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau quyết định:
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH T.
Buộc Công ty TNHH Một thành viên H thanh toán cho Công ty TNHH T
tổng số tiền là 1.088.796.000 đồng (Một tỷ không trăm tám mươi tám triệu bảy
trăm chín mươi sáu nghìn đồng).
2/ Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH T về việc yêu cầu Tổng
công ty P có trách nhiệm liên đới với Công ty TNHH Một thành viên H thanh toán
cho Công ty TNHH T tổng số tiền là 1.088.796.000 đồng theo Hợp đồng dịch vụ
số 15/2018/HĐ-TV ngày 11/6/2018 giữa Công ty TNHH T và Công ty TNHH Một
thành viên H.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, lãi suất chận thi hành và quyền
kháng cáo.
Ngày 23/9/2024, Công ty TNHH T kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm
buộc Tổng công ty P – CTCP có trách nhiệm liên đới với Công ty TNHH Một
thành viên H thanh toán nợ.
5
Ngày 30/9/2024, Công ty TNHH Một thành viên H kháng cáo yêu cầu sửa
án buộc Tổng công ty P có trách nhiệm liên đới với Công ty TNHH Một thành
viên H thanh toán số tiền 1.088.796.000đ.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn và bị đơn vẫn giữ nguyên kháng cáo,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của
Bộ luật tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của Công ty Trách nhiệm hữu
hạn (TNHH) Tư vấn và đầu tư xây dựng H và Công ty Trách nhiệm hữu hạn một
thành viên (TNHH M) Huỳnh C. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án kinh
doanh thương mại sơ thẩm số 25/2024/KDTM-ST ngày 12/8/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Cà Mau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Xét kháng cáo của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
(TNHH) Tư vấn và đầu tư xây dựng H và Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành
viên (TNHH M) Huỳnh C. Nội dung kháng cáo yêu cầu buộc Tổng công ty P –
CTCP liên đới cùng Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH M)
Huỳnh C thanh toán số tiền buộc trả.
[2] Công ty TNHH T khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH Một thành viên H và
yêu cầu Tổng công ty P cùng có trách nhiệm liên đới thanh toán số tiền còn nợ tại
Hợp đồng tư vấn số 15/2018/HĐ-TV ngày 16/11/2018 là 1.088.796.000 đồng. Bị
đơn Công ty H đồng ý thanh toán cho nguyên đơn số tiền 1.088.796.000 đồng và
yêu cầu PVFCCo cùng có trách nhiệm liên đới với Công ty H trả cho Công ty H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Tổng công ty P (P) không đồng ý với
yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn.
Xét kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn về chủ thể ký hợp đồng tư vấn
15/2018/HĐ-TV ngày 11/6/2018 chỉ có 02 chủ thể là Công ty H và Công ty H,
trong đó Công ty H là chủ đầu tư, Công ty H2 nhà thầu. Ngoài hợp đồng tư vấn số
15/2018/HĐ-TV thì giữa Công ty H và Công ty H không có ký thêm phụ lục hợp
đồng nào khác. Theo nội dung hợp đồng tư vấn số 15/2018/HĐ-TV thể hiện sau
khi Công ty H thực hiện các phần việc nêu tại hợp đồng thì Công ty H sẽ thanh
toán giá trị tương ứng do hai bên thỏa thuận. Đồng thời, theo quy định tại điều 513,
514, 515 của Bộ luật dân sự quy định về hợp đồng dịch vụ và đối tượng của hợp
đồng như sau: “hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung
ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải
trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ”, “đối tượng của hợp đồng dịch vụ là
công việc có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội”, theo đó nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ là “...trả tiền dịch vụ cho
6
bên cung ứng dịch vụ theo thỏa thuận”. Như vậy, đây là hợp đồng dịch vụ được ký
kết giữa hai chủ thể là Công ty H là Công ty H. Công ty H là bên cung ứng dịch
vụ, Công ty H là bên sử dụng dịch vụ. Do đó, theo quy định thì Công ty H phải có
trách nhiệm thanh toán tiền cho Công ty H như đúng theo hợp đồng đã ký kết giữa
hai bên là phù hợp với quy định của pháp luật.
Tại các điều khoản trong hợp đồng chỉ quy định về quyền và nghĩa vụ giữa
Công ty H và Công ty H, không có điều khoản nào ràng buộc trách nhiệm hay liên
quan đến PVFCCo. Tổng công ty P không phải là chủ thể của hợp đồng tư vấn số
15/2018/HĐ-TV ngày 11/6/2018. Tại các tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn cung
cấp cũng không thể hiện PVFCCo có liên quan đến hợp đồng tư vấn số
15/2018/HĐ-TV ngày 11/6/2018. Do đó, hợp đồng tư vấn số 15/2018/HĐ-TV
ngày 11/6/2018 chỉ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa Công ty H và Công ty H
không liên quan đến PVFCCo.
[3] Xét yêu cầu của bị đơn về việc yêu cầu PVFCCo cùng có trách nhiệm
liên đới với Công ty H thanh toán cho Công ty H số tiền 1.088.796.000 đồng vì
PVFCCo là đơn vị đang chiếm hữu và sử dụng sản phẩm của Công ty H, Hội đồng
xét xử nhận thấy: Yêu cầu này của bị đơn trùng với yêu cầu của nguyên đơn, đồng
thời trong vụ án này người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là PVFCCo cũng
không có yêu cầu độc lập nên yêu cầu của bị đơn không phải là yêu cầu phản tố
nên không cần phải nộp đơn theo quy định. Tuy nhiên, ý kiến của bị đơn không có
cơ sở chấp nhận, bởi lẽ: hợp đồng tư vấn số 15/2018/HĐ-TV ngày 11/6/2018 giữa
Công ty H với Công ty H và Thỏa thuận hợp tác số 388A/2016/PVFCCo và phụ
lục số 01, 02 ngày 05/7/2016 giữa Công ty H và PVFCCo là hai hợp đồng độc lập,
các chủ thể trong hợp đồng khác nhau và nội dung của hai hợp đồng không có nội
dung liên quan hay ràng buộc trách nhiệm của các bên. Trường hợp Công ty H3
thấy quyền lợi của Công ty H bị xâm phạm do phát sinh từ thỏa thuận 388A thì có
quyền khởi kiện thành vụ án khác. Án sơ thẩm cũng đã giành quyền khởi kiện cho
Công ty H nên không ảnh hưởng quyền lợi của đương sự.
[4] Đối với việc Công ty H hiện đã bị thu hồi giấy phép kinh doanh, hiện
nay cũng chưa có tài liệu chứng, cứ chứng minh của cơ quan thẩm quyền xác định
Công ty H giải thể cho nên án sơ thẩm buộc Công ty H thanh toán nợ là phù hợp.
[5] Tại Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 191/2024/QĐ-
SCBSQĐ ngày 11/11/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau sửa chữa, bổ
sung Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 23/2024/KDTM-ST ngày
12/8/2024 thành Bản án số 25/2024/KDTM-ST. Đối với ngày tháng năm dự nộp án
phí bản án sơ thẩm ghi có sai số năm “2014” là không đúng, mà phải là “2024” nên
cấp phúc thẩm điều chỉnh lại đúng theo biên lai.
Từ các phân tích trên, án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
về việc buộc bị đơn và người liên quan liên đới thanh toán nợ là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo không đưa ra tài liệu chứng cứ nào
mới, để làm căn cứ kháng cáo và cũng như các phân tích trên, cho nên không chấp
nhận kháng cáo.
7
[6] Ý kiến phát biểu của đại viện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử giữ
nguyên bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Cà
Mau. Đề nghị này là phù hợp với các phân tích trên.
[7] Án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty TNHH Một thành viên
H phải chịu là 44.663.880 đồng (Bốn mươi bốn triệu sáu trăm sáu mươi ba nghìn
tám trăm tám mươi đồng) (chưa nộp).
Công ty TNHH T không phải chịu án phí. Ngày 11/4/2024, Công ty TNHH
T đã dự nộp số tiền 22.332.000 đồng, theo biên lai số 008394 tại Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố Cà Mau, được nhận lại toàn bộ.
[8] Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Nguyên đơn và bị đơn phải
chịu theo quy định.
Vì các l trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH T và Công ty TNHH Một
thành viên Huỳnh Châu
Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 25/2024/KDTM-ST
ngày 12/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
Tuyên Xử:
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH T.
Buộc Công ty TNHH Một thành viên H thanh toán cho Công ty TNHH T
tổng số tiền là 1.088.796.000 đồng (Một tỷ không trăm tám mươi tám triệu bảy
trăm chín mươi sáu nghìn đồng).
Kể từ ngày Công ty TNHH T có đơn yêu cầu thi hành án, Công ty TNHH
Một thành viên H không tự nguyện thi hành xong thì phải trả thêm khoản lãi phát
sinh theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng
với số tiền và thời gian chậm thi hành.
2/ Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH T về việc yêu cầu Tổng
công ty P có trách nhiệm liên đới với Công ty TNHH Một thành viên H thanh toán
cho Công ty TNHH T tổng số tiền là 1.088.796.000 đồng theo Hợp đồng dịch vụ
số 15/2018/HĐ-TV ngày 11/6/2018 giữa Công ty TNHH T và Công ty TNHH Một
thành viên H.
3/ Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm có giá ngạch:
8
Công ty TNHH Một thành viên H phải chịu là 44.663.880 đồng (Bốn mươi bốn
triệu sáu trăm sáu mươi ba nghìn tám trăm tám mươi đồng) (chưa nộp).
Công ty TNHH T không phải chịu án phí. Ngày 11/4/2024, Công ty TNHH
T đã dự nộp số tiền 22.332.000 đồng, theo biên lai số 008394 tại Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố Cà Mau, được nhận lại toàn bộ.
4/ Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty TNHH T và Công ty
TNHH Một thành viên H phải chịu mỗi người 2.000.000 đồng. Ngày 26/9/2024,
Công ty H đã nộp 2.000.000 đồng (lai số 0009293). Ngày 09/10/2024, Công ty H
đã dự nộp 2.000.000 đồng (lai số 0009404) tại chi cục thi hành án dân sự thành
phố Cà Mau. Được chuyển thu.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau;
- Chi cục THADS thành phố Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT, (TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Dương Hùng Quang
9
10
11
12
Tải về
Bản án số 02/2025/KDTMPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 02/2025/KDTMPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 09/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Bản án số 08/2024/KDTM-PT ngày 29/08/2024 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp về cung ứng dịch vụ
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 15/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Bản án số 07/2024/KDTM-PT ngày 13/08/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp về cung ứng dịch vụ
Ban hành: 13/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 12/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 08/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm