Bản án số 05/2021/DS-ST ngày 19/04/2021 của TAND huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 05/2021/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 05/2021/DS-ST ngày 19/04/2021 của TAND huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Định Hóa (TAND tỉnh Thái Nguyên)
Số hiệu: 05/2021/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/04/2021
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 05/2021/DS-ST NGÀY 19/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 4 năm 2021, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 73/2020/TLST-DS ngày 14 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXX-ST ngày 02 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Y, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Xóm N, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên tòa)

Bị đơn: Chị Dương Thị T, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Xóm T, xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa các đương sự trình bày:

Nguyên đơn Chị Lê Thị Y trình bày: Do chị và Chị Dương Thị T có quan hệ là chị em họ của nhau nên chị Thùy có đặt vấn đề vay tiền của chị. Cụ thể vào ngày 01/11/2019 chị đã cho chị Thùy vay số tiền 300.000.000 đồng. Có viết giấy vay tiền, chị Thùy có ký xác nhận phần người vay tiền. Thời hạn vay là 01 năm, hẹn đến ngày 01/11/2020 chị Thùy sẽ trả chị số tiền trên, lãi suất thỏa thuận miệng giữa hai bên.

Đến ngày 27/01/2020 chị Thùy có gọi điện cho chị và bảo cần vay nóng thêm chị số tiền16.000.000 đồng để đóng bảo hiểm. Chị nhất trí và hai bên hẹn nhau tại cổng Vincom Thái Nguyên, tại đây chị đưa số tiền 16.000.000 đồng cho chị Thùy vay, khi đưa tiền đối với khoản vay này hai bên không viết giấy tờ gì. Hai bên thỏa thuận miệng đến tháng 4/2020 chị Thùy sẽ trả chị, qua tháng 4/2020 chị có yêu cầu chị Thùy trả số tiền 16.000.000 đồng nhưng chị Thùy chưa trả được nên chị yêu cầu chị Thùy viết giấy vay tiền để xác định tổng số nợ cả hai lần vay là 316.000.000 đồng. Tại mã vay tiền này có thỏa thuận thời hạn thanh toán là ngày 16/11/2020, lãi suất thỏa thuận miệng trả theo lãi suất ngân hàng. Đến hạn chị Thùy không trả, chị đòi nhiều lần nhưng chị Thùy đều khất nợ, chị Thùy đã trả được cho chị số tiền lãi khoảng 10.000.000 đồng.

Trong quá trình giải quyết chị yêu cầu Tòa án buộc chị Thùy phải trả toàn bộ số tiền gốc còn nợ là 316.000.000 đồng, và tiền lãi phát sinh kể từ thời điểm vay là ngày 01/11/2019 cho đến khi xét xử. Tại phiên tòa chị yêu cầu chị Thùy trả chị số tiền gốc còn nợ là 316.000.000 đồng và tiền lãi theo lãi suất ngân hàng quy định từ ngày 01/11/2020 đến khi xét xử sơ thẩm.

Bị đơn Chị Dương Thị T trình bày: Chị xác nhận có vay của chị Yến số tiền là: 316.000.000 đồng. Cụ thể ngày 01/11/2019 chị có vay của chị Yến số 300.000.000 đồng để làm ăn, chị có viết giấy vay và ký xác nhận bên vay. Thời hạn vay là 01 năm, lãi suất thỏa thuận miệng là 3%/tháng. Chị đã trả tiền lãi đến tháng 5/2020 cho chị Yến là khoảng 45.000.000 đồng. Đến tháng 01 năm 2020 chị lại tiếp tục vay nóng chị Yến số tiền là 16.000.000 đồng, khi vay không viết giấy vay. Đến tháng 6 năm 2020 chị Yến có vào nhà chị đòi tiền, nhưng chị ngày 16/11/2020 chị sẽ trả tổng số tiền là 316.000.000 đồng. Nhưng đến ngày 01/11/2020 chị Yến đã vào nhà chị đòi tiền, nói chuyện xong không thỏa thuận được chị Yến đã làm đơn ra tòa.

Quá trình giải quyết chị xác định còn nợ chị Yến số tiền nợ gốc là 316.000.000 đồng là đúng. Do hoàn cảnh có khó khăn nên chị xin chị Yến tiền lãi và muốn thỏa thuận trả tiền gốc mỗi tháng trả 5.000.000 đ/tháng, trả từ tháng 02/2021. Tại phiên tòa chị đề nghị chị Yến cho chị trả dần số tiền nợ gốc cứ 05 tháng chị trả chị Yến số tiền 50.000.000 đồng cho đến khi trả hết nợ và chị nhất trí trả tiền lãi cho chị Yến từ thời điểm ngày 01/11/2020 đến nay như yêu cầu của chị Yến.

Quá trình giải quyết Toà án đã tiến hành hoà giải, xong các bên vẫn giữ nguyên quan điểm không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên phải đưa vụ án ra xét xử ngày hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Lê Thị Y khởi kiện Chị Dương Thị T có địa chỉ: Xóm T, xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tài sản quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự, do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về nội dung:

Về số tiền nợ gốc: Xét thấy quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa các đương sự đều thừa nhận về việc chị Thùy có vay của chị Yến tổng số tiền là 316.000.000 đồng, vay làm hai lần. Cụ thể: vào ngày 01/11/2019 chị Thùy vay 300.000.000 đồng, có viết giấy vay, thời hạn vay là 01 năm. Ngày 27/01/2020 chị Thùy vay 16.000.000 đồng, khi vay không làm giấy tờ, thỏa thuận đến tháng 4 năm 2020 trả. Sau đó do chưa trả được số tiền 16.000.000 đồng theo thỏa thuận nên chị Thùy xin khất nợ và có viết giấy vay tổng số tiền là 316.000.000 đồng, có hẹn đến ngày 16/11/2020 sẽ trả, lãi suất thỏa thuận miệng giữa hai bên. Tại phiên tòa chị Thùy xin chị Yến cho chị trả dần số tiền nợ gốc cứ 05 tháng chị trả cho chị Yến 50.000.000 đồng cho đến khi trả hết số Hội đồng xét xử thấy: Đây là hợp đồng vay có kỳ hạn, có lãi suất. Tại Điều 466 của Bộ luật dân sự quy định về nghĩa vụ của bên vay: “1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn...”. Đến nay, thời hạn vay đã hết nhưng bị đơn là chị Thùy chưa trả tiền cho chị Yến là vi phạm nghĩa vụ của người vay, tại phiên tòa chị Yến yêu cầu chị Thùy thanh toán nợ một lần, không đồng ý với yêu cầu xin trả nợ dần của chị Thùy. Do vậy yêu cầu của chị Yến buộc chị Thùy trả số tiền gốc còn nợ là 316.000.000 đồng là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 463, 466 của Bộ luật dân sự, nên cần chấp nhận.

Về lãi suất: Tại phiên tòa các đương sự thỏa thuận phần lãi đã trả cho nhau từ thời điểm vay tiền đến trước ngày 01/11/2020 do không nhớ được chính xác số tiền nên không yêu cầu giải quyết do vậy Hội đồng xét xử không xem xét. Đồng thời, các đương sự thỏa thuận Chị Dương Thị T sẽ có trách nhiệm trả lãi cho Chị Lê Thị Y đối với khoản nợ gốc số tiền 316.000.000 đồng kể từ ngày 01/11/2020 đến thời điểm xét xử sơ thẩm theo mức lãi suất ngân hàng quy định. Xét thấy, việc thỏa thuận này của các đương sự phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự và Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm nên cần chấp nhận.

Quyết định số 2868/QĐ-NHNH ngày 29/11/2010 mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9,0 %/năm = 0,75%/tháng. Cụ thể:

Đối với khoản vay 316.000.000 đồng x 0,75% = 2.370.000 đồng/tháng.

Thời gian từ 01/11/2020 đến ngày 19/4/2021 là: 05 tháng 19 ngày x 2.370.000 đồng = 13.351.000 đồng.

Tổng số tiền lãi chị Thùy phải thanh toán trả cho chị Yến là: 13.351.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền cả gốc và lãi chị Thùy phải có trách nhiệm trả chị Yến là 329.351.000 đồng.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên Chị Dương Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch nộp ngân sách nhà nước.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, 147, 235, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 357, 463, 466 và 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Lê Thị Y đối với Chị Dương Thị T.

2. Buộc Chị Dương Thị T phải có trách nhiệm trả cho Chị Lê Thị Y tổng số tiền là 329.351.000 đồng (Ba trăm hai mươi chín triệu ba trăm năm mươi mốt nghìn đồng), trong đó số tiền nợ gốc là 316.000.000 đồng (Ba trăm mười sáu triệu đồng) và tiền lãi là 13.351.000 đồng (Mười ba triệu ba trăm năm mươi mốt nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Dương Thị T phải chịu 16.467.550 đồng (Mười sáu triệu bốn trăm sáu mươi bảy nghìn năm trăm năm mươi đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch nộp ngân sách Nhà nước. Hoàn trả Chị Lê Thị Y số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 7.900.000 đồng (Bẩy triệu chín trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000132 ngày 10 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P.

5. Về quyền kháng cáo: án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị Yến, chị Thùy, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 05/2021/DS-ST Bản án số 05/2021/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất