Bản án số 03/2025/DS-PT ngày 02/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 03/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 03/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 03/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 03/2025/DS-PT ngày 02/01/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm... |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 03/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn S, bà Trần Thị L – Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 202/2024/DS-ST, ngày 05/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 03/2025/DS-PT
Ngày 02-01-2025
V/v Tranh chấp lối đi
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
-Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Duy Thuấn
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Ngọc Sâm, bà Nguyễn Thị Hằng
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Văn Hoàng –Thư ký TAND tỉnh Đắk Lắk
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà Lương
Thị Diệu Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 02/01/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công
khai vụ án dân sự thụ lý số 286/2024/TLPT-DS, ngày 15 tháng 10 năm 2024, về việc
“Tranh chấp lối đi”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 202/2024/DS–ST, ngày 05/4/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk có kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số: 409/2024/QĐ–PT, ngày 09/12/2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Trần Hoài N, sinh năm 1989; địa chỉ: Số A thôn A, xã
H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – vắng mặt.
Bị đơn: Ông Lê Chí T, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị Thu T1, sinh năm 1964;
địa chỉ: Số nhà A thôn A, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đỗ Thị Hoàng Y, sinh năm 1988; địa
chỉ: Số A thôn A, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông N và người liên quan bà Y: Ông
Nguyễn Văn S, sinh năm 1953 và bà Trần Thị L, sinh năm 1956; địa chỉ: Số A thôn A,
xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – có mặt.
* Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn S, bà Trần Thị L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn, và của người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan là ông Nguyễn Văn S, bà Trần Thị L trình bày:
Năm 1987, Gia đình ông S được Nông trường cà phê CD cấp cho một lô đất có diện
tích 2.747m
2
, đến năm 1999 gia đình ông S được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Gia đình ông T, bà T1 thì nhận chuyển nhượng của 03 hộ là bà Đậu Thị L1, ông
Nguyễn Hồng T2 và ông Nguyễn Thanh T3; giữa 03 lô đất nêu trên có một con đường
dân sinh rộng 7m, dài khoảng 60m từ giáp đất gia đình ông S đến con đường bê tông đi
xuống suối. Sau khi vợ chồng ông T, bà T1 nhận chuyển nhượng của ba hộ trên thì tự ý
bít lối đi nêu trên và sử dụng từ khoảng năm 1996, do vợ chồng ông S làm nhà bên phải
vườn, lại bận công tác nên không biết được sự việc trên, mặt khác con đường không nằm
trong khuôn viên đất gia đình ông S. Năm 1999 thì Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đắk
Lắk cấp cho gia đình ông T, bà T1 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất
số 35, tờ bản đồ 29, diện tích 6177 m
2
. Việc nhập 03 thửa đất và sáp nhập con đường
dân sinh theo quy hoạch ban đầu của Nông trường Cà phê CD là bất hợp pháp vì theo
bản đồ gia cư tờ số 02 của nông trường cà phê CD thể hiện có con đường.
Năm 2017 vợ chồng ông S có cho con là Nguyễn Trần Hoài N một phần đất trong
diện tích đất nêu trên thì cơ quan Nhà nước đã thu hồi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cũ và cấp lại cho gia đình ông S giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 668306
ngày 11/5/2017 đối với thửa đất số 8 (cũ 34); tờ bản đồ số 76 (cũ 29), và cấp cho con trai
ông là Nguyễn Trần Hoài N giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 602863 ngày
13/7/2017 đối với thửa đất số 100; tờ bản đồ số 76; diện tích 475,1 m
2
.
Phía trước đất của anh N bị gia đình ông T, bà T1 tự ý lấn chiếm cơi nới, dùng lưới
B40 rào chắn con đường trước, mà không được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền
để trồng một số cây cối thành khu đất thuộc vườn của mình, xâm phạm đến lối đi vào
đất của anh N.
Đối với kết quả đo đạc của Công ty TNHH Đ xác định diện tích ttranh chấp trong
vụ án là 96,1 m
2
thì nguyên đơn đồng ý và không có ý kiến gì.
Nay nguyên đơn khởi kiện các vấn đề sau: Yêu cầu ông T, bà T1 trả lại phần đất
đường đi chung tự ý lấn chiếm và đang rào chắn bằng lưới B40 một phần con đường
trước vườn của Nguyễn Trần Hoài N không nằm trong Sổ đỏ (thửa 35) của gia đình ông
T - bà T1. Tổng diện tích lấn chiếm là 96,1 m
2
. Có tứ cận: Phía đông giáp vườn anh N
(từ một phần của thửa 34), phía tây giáp vườn ông T (thửa 35), phía đông bắc giáp đất
trống, phía bắc giáp con đường đi dài.
Đối với yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu ông T, bà T1 trả lại con đường dân sinh
lấn chiếm nguyên thuỷ theo quy hoạch trước đây của nông trường cà phê CD dài khoảng
50m, rộng 7m đang nằm trong sổ đỏ (thửa 35) cho cộng đồng dân cư thôn A, xã H tiện
sử dụng cho mục đích đi lại chung thì nguyên đơn không khởi kiện.
* Quá trình tham gia tố tụng, bị đơn trình bày:
Vợ chồng ông T, bà T1 là chủ quản lý, sử dụng thửa đất số 35, tờ bản đồ số 29,
diện tích 6177m
2
tại xã H, huyện C (nay là thành phố B), tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số P054392 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 14/10/1999.
Lô đất này được gia đình ông T nhận chuyển nhượng của 03 hộ gồm ông Nguyễn Hồng
T2, ông Nguyễn Thanh T3 vào năm 1991 và bà Đậu Thị L1 vào năm 1997.
Thời điểm trước đây thì ông T3 có mở một con đường mòn có chiều ngang 1.5m
dài 60m trên đất của ông T3 để các hộ dân thuận tiện trong việc đi lại. Sau khi ông T3,
ông T2, bà L1 chuyển nhượng 3 lô đất cho ông T bà T1 thì ông T, bà T1 đã thương lượng
với các hộ dân sẽ hiến một phần đất của mình để mở con đường khác và bít con đường
trên đất của ông T bà T1 (do ông T3 mở trên đất của ông T3) để các hộ dân đi lại dễ dàng
hơn thì các hộ dân đồng ý. Hiện con đường này là lối đi chung và đã được các hộ dân
đóng góp làm đường bê tông. Đến năm 1999 gia đình ông T được cấp GCNQSDĐ đất
đối với thửa đất số 35, tờ bản đồ số 29, diện tích 6177m², thửa đất này là thửa đất được
hợp từ 03 thửa đất mà gia đình ông T nhận chuyển nhượng. Do đó phần đất được cấp có
hình thể thống nhất, không bị chia cắt bởi lối đi nào và gia đình ông T đã sử dụng ổn
định, ranh giới không thay đổi từ đó đến nay kể cả phần đất tiếp giáp với ông N mà
không có ai ý kiến hay tranh chấp gì.
Ông N cho rằng trước đây Nông trường Cà phê Cư D đã quy hoạch con đường dân
sinh làm lối đi chung cho các hộ dân nhưng nay con đường đó đã bị lấp và nằm trong
phần diện tích đất mà gia đình ông T được cấp GCNQSDĐ đất nên gia đình ông T phải
trả lại là không có căn cứ. Bởi lẽ, bản vẽ của Nông trường Cà phê Cư Dlê chỉ để thể hiện
việc chia đất cho công nhân chứ không có giá trị cấp quyền sử dụng đất cũng như quy
hoạch sử dụng đất tại địa phương.
Ông T bà T1 xác định, bờ ranh giữa đất nhà ông T bà T1 và đất nhà ông N đã có từ
xưa tới giờ, và ranh giới này được xác định theo phần GCNQSDĐ đất mà ông T bà T1
được cấp năm 1999 chứ không phải do ông T bà thảo vừa mới thay đổi gần đây. Năm
2017 gia đình ông S tiến hành tách đất cho con là ông N, trong giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của ông N thể hiện phần diện tích tiếp giáp với con đường chỉ là 3.01m
2
.
Quá trình làm thủ tục tách thửa đất và cấp giấy tờ ông S và ông N không có ý kiến gì.
Đối với kết quả đo đạc của Công ty TNHH Đ xác định diện tích tranh chấp trong
vụ án là 96,1m
2
thì bị đơn đồng ý và không có ý kiến gì. Theo công văn số 164 của
UBND xã H về việc trả lời đơn tố cáo của ông S, bà L thì không có con đường công cộng
tại vị trí theo nội đơn ông S gửi. Vậy nên, việc ông N khởi kiện cho rằng ông T bà T1 tự
ý lấn chiếm phần đất tiếp giáp đường và đất của ông N có diện tích 96,1 m² là không
đúng sự thật, không có căn cứ để chấp nhận.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 202/2024/DS-ST, ngày 05/9/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Áp dụng khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39 Điều
147; 157; 158; 165; 166; 273 và 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 245 và Điều 246, 254 của Bộ luật dân sự;
Căn cứ Điều 166, 169, 170, 179, 202, 203 Luật đất đai 2013.
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án;
1. Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Trần
Hoài N về việc yêu cầu bị đơn ông T, bà T1 trả lại phần đất đường đi chung tự ý lấn
chiếm và đang rào chắn bằng lưới B40 một phần con đường trước vườn của Nguyễn
Trần Hoài N không nằm trong Sổ đỏ (thửa 35) của gia đình ông T, bà T1. Tổng diện tích
lấn chiếm là 96,1 m2. Có tứ cận: Phía đông giáp vườn anh N (từ một phần của thửa 34),
phía tây giáp vườn ông T (thửa 35), phía đông bắc giáp đất trống, phía bắc giáp con
đường đi dài. (theo trích đo hiện trạng thửa đất ngày 08/07/2024 của Công ty TNHH Đ).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo
theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/9/2024, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên
đơn là ông S và bà L kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản
án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự giữ nguyên nội dung đã trình bày, người
kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký, các đương
sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng
dân sự, không chấp nhận kháng cáo của người kháng cáo, giữ nguyên nội dung bản án
sơ thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xe xét đầy đủ các tài liệu chứng cứ lời
trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ngày 14/10/1999, hộ ông Nguyễn Văn S được UBND huyện C cấp GCNQSDĐ
số O418997 đối với thửa đất số 34, tờ bản đồ số 29, tại xã H. Ngày 14/10/1999, hộ ông
Lê Chí T được cấp GCNQSDĐ số P054392 đối với thửa đất số 35, tờ bản đồ số 29, tại
xã H. Theo trích lục bản đồ số 29 tại thời điểm cấp GCNQSDĐ đối với hộ ông S và hộ
ông T đều không thể hiện con đường đi qua thửa đất của ông T như nguyên đơn trình
bày.
Mặc dù nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận trước thời điểm được cấp GCNQSDĐ,
gia đình ông T có nhận chuyển nhượng đất của 03 hộ dân và giữa 03 thửa đất này có con
đường mòn dài khoảng 60 giáp đất ông S đến con đường bê tông đi xuống suối. Tuy
nhiên, nguồn gốc của lối đi nêu trên do Nông trường cà phê Cư D vẽ sơ đồ sử dụng đất
cho công nhân, không phải là căn cứ thể hiện thông tin quản lý hành chính Nhà nước về
đất đai.
[2] Năm 2017, ông S làm thủ tục tách một phần thửa đất của mình để tặng cho ông
Nguyễn Trần Hoài N, bà Đỗ Thị Hoàng Y. Ngày 13/7/2017 ông N, bà Y được cấp
GCNQSDĐ số CI 602862 đối với thửa đất số 100, tờ bản đồ số 76 tại xã H, thửa đất nằm
tiếp giáp với đất ông T và diện tích đất hiện các bên đang tranh chấp. Sơ đồ thửa đất tại
GCNQSDĐ số CI 602862 thể hiện mặt tiếp giáp đường của thửa đất số 100 là 3,01m,
phần không tiếp giáp đường là 15,66m.
[3] Căn cứ Công văn số 164/CV-UBND, ngày 27/9/2023 về việc “Trả lời đơn của
ông Nguyễn Văn S và bà Trần Thị L” và công văn 182/CV-UBND, ngày 26/8/2024 của
UBND xã H thể hiện nội dung “Qua rà soát, đánh giá quỹ đất của nông trường Cư D sau
khi giải thể bàn giao lại cho địa phương quản lý được đo đạc bản đồ giải thửa năm 1999
và bản đồ quy hoạch sử dụng đất của địa phương đến năm 2030 được cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt thì không có quy hoạch con đường công cộng tại vị trí theo nội dung
đơn tố cáo của hộ ông Nguyễn Văn S”.
[4] Từ những phân tích, nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn là không có căn cứ, vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng
cáo của người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn, giữ nguyên nội dung bản án sơ
thẩm số 202/2024/DS-ST, ngày 05/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk.
[5] Về án phí:
[5.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Nguyễn Trần Hoài N phải chịu án
phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng. Khấu trừ số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng theo
biên lai số 0004350 ngày 14/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk.
[5.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người
kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[6] Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn phải chịu chi phí đo vẽ kỹ thuật, chi phí thẩm
định và định giá tài sản là 10.000.000 đồng, nguyên đơn đã nộp xong.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực
thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ điểm khoản 1 Điều 308; Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông
Nguyễn Văn S, bà Trần Thị L – Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 202/2024/DS-ST,
ngày 05/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Áp dụng khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39
Điều 147; 157; 158; 165; 166; 273 và 280 Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 245 và Điều 246, 254 Bộ luật dân sự;
Căn cứ Điều 166, 169, 170, 179, 202, 203 Luật Đất đai 2013.
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án;
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Trần Hoài
N về việc yêu cầu bị đơn ông T, bà T1 trả lại phần đất đường đi chung tự ý lấn chiếm và
đang rào chắn bằng lưới B40 một phần con đường trước vườn của Nguyễn Trần Hoài N
không nằm trong Sổ đỏ (thửa 35) của gia đình ông T, bà T1. Tổng diện tích lấn chiếm là
96,1 m2. Có tứ cận: Phía đông giáp vườn anh N (từ một phần của thửa 34), phía tây giáp
vườn ông T (thửa 35), phía đông bắc giáp đất trống, phía bắc giáp con đường đi dài.
(Theo trích đo hiện trạng thửa đất ngày 08/07/2024 của Công ty TNHH Đ).
[3] Về án phí:
[3.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Nguyễn Trần Hoài N phải chịu án
phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng. Khấu trừ số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng theo
biên lai số 0004350, ngày 14/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk.
[3.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn S và bà Trần Thị L mỗi người
phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm; được khấu trừ số tiền đã nộp tạm ứng
theo Biên lai số AA/2023/0013577, ngày 26/9/2024 và Biên lai số AA/2023/0013576,
ngày 26/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
[4] Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn phải chịu chi phí đo vẽ kỹ thuật, chi phí thẩm
định và định giá tài sản là 10.000.000 đồng, nguyên đơn đã nộp xong.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND Thành phố B;
- Chi cục THA Thành phố B;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Duy Thuấn
Tải về
Bản án số 03/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 03/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 21/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm