Bản án số 07/2025/DS-ST ngày 19/03/2025 của TAND huyện Ea H'Leo, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 07/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 07/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 07/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 07/2025/DS-ST ngày 19/03/2025 của TAND huyện Ea H'Leo, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Ea H'Leo (TAND tỉnh Đắk Lắk) |
Số hiệu: | 07/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | TT |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN E
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 07/2025/DS- ST
Ngày: 19 - 3 - 2025
“V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất
và tranh chấp lối đi chung”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ NHÂN DÂN HUYỆN E
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Bích Thủy.
Các Hội thẩm nhân dân: - Ông: Nguyễn Khắc Vũ;
- Ông: Bùi Hoàng Sơn
- Thư ký phiên toà: Hoàng Công Đức - Thư ký Toà án nhân dân huyện E,
tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên
tòa: Ông Trịnh Văn Hai - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 3 năm 2025 tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện E xét
xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 235/2022/TLST - DS, ngày 21 tháng
6 năm 2022 về việc kiện “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 106/2024/QĐXXST-DS, ngày 12/12/2024 và các Quyết định hoãn
phiên tòa số 03/2024/QĐST-DS, ngày 13 tháng 01 năm 2025, Thông báo mở lại
lịch phiên tòa số 03/2025/TB-TA, ngày 12 tháng 02 năm 2025, Quyết định hoãn
phiên tòa số 12/QĐST-DS, ngày 06 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh T - Sinh năm: 1959 - Có mặt.
Trú tại: Tổ dân phố A, thị trấn Đ, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hồng T1 - Vắng mặt.
Trú tại: Thôn T, xã D, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.
- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Mỹ H - Địa
chỉ: Tổ dân phố A, thị trấn Đ, huyện E, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.
- Ông Nguyễn Quang Th và bà Phan Thị Thanh Th1; Địa chỉ: Tổ dân phố A,
thị trấn Đ, huyện E, tỉnh Đăk Lăk. Có mặt.
Ông Nguyễn Thanh T và bà Lê Thị Mỹ H ủy quyền cho ông Nguyễn Quang
Th - Trú tại: Tổ dân phố A, thị trấn Đ, huyện E, tỉnh Đăk Lăk tham gia tố tụng.
- Ngân hàng A - Phòng Giao dịch E, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.
Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện E, Đăk Lăk;
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn
Thanh T và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (đồng thời là người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan), ông Nguyễn Quang Th trình bày:
Vào ngày 28/07/2003, ông Nguyễn Thanh T và Lê Thị Mỹ H có nhận sang
nhượng của ông Nguyễn Xuân Tr và bà Vũ Thị V, trú tại Thôn T, xã D, huyện E,
tỉnh Đăk Lăk một lô đất diện tích khoảng 8 sào. Thửa đất có tứ cận như sau: Phía
Đông giáp đất nghĩa địa; phía Bắc giáp đất ông S; phía Nam giáp đất chú 10 (hiện
ông T1 quản lý sử dụng); phía Tây giáp đất ông T. Giá chuyển nhượng thửa đất
là 12.000.000 đồng. Ông Nuyễn Thanh Tiến và bà H đã giao đủ tiền và sử dụng
ổn định, liên tc từ 2003 đến nay. Khi chuyển nhượng, hai bên có lập “Giấy sang
nhượng đất” viết tay với nhau.
Trong quá trình quản lý, sử dụng diện tích đất trên, ông Nguyễn Hồng T1,
trú tại thôn T, xã D, huyện E, tỉnh Đăk Lăk có lấn chiếm sang đường đi chung và
đất của ông Nguyễn Thanh T và ông Nguyễn Hồng T1 diện tích đất cụ thể như
sau:
- Lấn chiếm diện tích lối đi chung phần phía Nam thửa đất của ông T, bà
H: Chiều dài khoảng 150 m; chiều rộng đầu đường 2m, cuối đường 1m; diện tích
đường đi chung bị lấn chiếm khoảng 225 m
2
.
- Lấn chiếm sang phần phía Nam diện tích đất của ông Nguyễn Thanh T và
bà Lê Thị Mỹ H: Chiều dài khoảng 150 m, rộng khoảng 1m; tổng diện tích
khoảng 150 m
2
.
Vì vậy, ông Nguyễn Thanh T làm đơn yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn
Hồng T1 trả lại diện tích lối đi chung là 225m
2
và diện tích đất mà ông T1 đã lấn
sang đất của gia đình ông Nguyễn Thanh T là 150m
2
.
Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của ông T và bà H, anh Nguyễn
Quang Th có trình bày: Hiện nay về ranh giới giữa hai bên đã sử dụng đúng. Tuy
nhiên, ông T1 vẫn lấn chiếm lối đi chung nên đề nghị Tòa án buộc ông T1 phải
trả lại cho gia đình ông Nguyễn Thanh T lối đi chung.
Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và trong quá trình làm việc bị đơn
ông Nguyễn Hồng T1 trình bày:
Bố mẹ ông Nguyễn Hồng T1 là ông Nguyễn Văn T2 và bà Trần Thị Kim
Th2 có 01 thửa đất số 11, tờ bản đồ số 26, tại Thôn Tri C1, xã D, huyện E, tỉnh
Đăk Lăk; diện tích thửa đất là 11.574 m
2
. Thửa đất này ba mẹ ông T1 đã canh tác
từ năm 1994, đến năm 2007 thì được UBND huyện E cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AG 796773, ngày 08/01/2007. Tứ cận thửa đất như sau:
Phía Đông giáp đất ông Ch; phía Tây giáp đất ông H, ông S; phía Nam đất ông N,
ông S; Phía Bắc giáp đất ông T.
Đến năm 2021, bố mẹ của ông T1 đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất
trên cho ông T1. Từ khi nhận sử dụng đất đến nay, ông T1 đã sử dụng đúng phần
diện tích đất được cấp, không có lấn chiếm đất của ông T.
Còn về lối đi chung, theo ông T1 là không có lối đi chung giữa rẫy ông T1
và rẫy ông T. Từ trước đến nay, các bên vẫn sử dụng đường ranh chung để đi bộ
lên xuống rẫy, chứ không có lối đi chung cho nên không có việc ông T1 lấn
3
chiếm lối đi chung.
Nay ông T khởi kiện yêu cầu ông T1 phải trả lại lối đi chung với diện tích
là 225m
2
và trả lại phần đất mà ông T cho rằng ông T1 đã lấn chiếm của ông T là
150 m
2
thì ông T1 không đồng ý, vì thực tế ông T1 không có lấn chiếm đất của
ông T và cũng không có lấn chiếm lối đi chung như ông T trình bày.
Tại bản tự khai, bà Lê Thị Mỹ H trình bày:
Gia đình bà H có mua mảnh rẫy tại thôn T, xã D của ông Tr và bà V bán
lại, mua từ năm 2003, chỉ có giấy viết tay, diện tích khoảng sào. Gia đình bà H
cho con trai là Nguyễn Quang Th làm từ khi mua đến giờ. Tứ cận của thử đất:
Đông giáp nghĩa địa xã (cũ); Tây giáp ông T, ông S; Bắc giáp rẫy ông Đ; Nam
giáp đường đi.
Việc khởi kiện tại Tòa án, bà H ủy quyền cho con trai là Nguyễn Quang Th
bà H tham gia vụ kiện ông T1 rào đường đi và lấn chiếm vào bồn cà phê gia đình
ông T đang canh tác. Đề nghị Tòa án xem xét cho gia đình bà H có đường đi canh
tác.
Quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, anh
Nguyễn Quang Th và chị Phan Thị Thanh Th1 trình bày:
Anh Nguyễn Quang Th là con trai của ông Nguyễn Thanh T và bà Lê Thị
Mỹ H. Chị Phan Thị Thanh Th1 là vợ của anh Nguyễn Quang Th.
Đối với thửa đất số 56, tờ bản đồ số 35 (thửa số 4, tờ bản đồ số 16), khu
vực thôn Tri C1, xã D, huyện E anh Th canh tác từ năm 2003, do ông Nguyễn
Thanh T và bà Lê Thị Mỹ H là bố mẹ của anh Th cho làm. Vào năm 2007, anh
Th cưới chị Th1 về và hai vợ chồng cùng canh tác trên diện tích đất này cho đến
nay. Việc ông T, bà H tặng cho đất cho anh Th khi anh Th chưa cưới vợ. Ông T,
bà H chỉ nói miệng việc cho đất cho anh Th chứ không có giấy tờ văn bản gì. Vì
thực tế, ông T chỉ sang nhượng bằng giấy viết tay từ ông Tr và bà V diện tích đất
trên chứ chưa có giấy tờ xác nhận quyền sở hữu. Hiện nay cả ông T, bà H và anh
Th, chị Th1 đều chưa làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên
diện tích đất trên.
Nay ông Nguyễn Thanh T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông
Nguyễn Hồng T1 trả lại cho ông T diện tích đất đã lấn chiếm của ông T khoảng
150m
2
và diện tích lối đi chung khoảng 225 m
2
. Anh Th và chị Th1 có ý kiến như
sau: Hiện nay anh Th và chị Th1 đang canh tác trên diện tích đất trên. Tuy nhiên,
diện tích đất này là của ông T, bà H cho anh Th canh tác. Thực tế ông T1 cũng có
lấn chiếm diện tích đất và lối đi chung như ông T trình bày. Do vậy, anh Th và
chị Th1 đồng ý yêu cầu của ông Nguyễn Thanh T.
Do chưa làm thủ tục đo đạc, chưa làm hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nên anh Th, chị Th1 không không biết rõ diện tích đất mình đang sử
dụng là bao nhiêu. Đồng thời anh Th, chị Th1 cũng không có tài liệu, chứng cứ gì
chứng minh quyền sở hữu và thông tin diện tích đất trên để cung cấp cho Tòa án
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Ngân hàng A trình bày:
Hiện ông Nguyễn Hồng T1 có thế chấp cho Ngân hàng 01 thửa đất số 11,
tở bản đồ số 16, địa chỉ thửa đất tại thôn Tri C1, xã D, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.
Thời gian thế chấp vào ngày 03/02/2021. Đối với việc tranh chấp đất giữa ông
4
Nguyễn Thanh T và ông Nguyễn Hồng T1, Ngân hàng đề nghị Tòa án giải quyết
theo quy định pháp luật.
Tại biên bản lấy lời khai đề ngày 03/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện
Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, người làm chứng ông Nguyễn Xuân Ch (tên gọi khác
là Nguyễn Xuân Tr) và bà Vũ Thị V trình bày:
Vào ngày 20/7/2003, ông Nguyễn Văn Tr và bà Vũ Thị V có chuyển
nhượng cho ông Nguyễn Thanh T cư trú tại khối 1 (nay là tổ dân phố 14, thị trấn
Đ) diện tích đất khoảng 8 sào theo giấy sang nhượng viết tay (ông T cung cấp
bản pho to cho Tòa án) Tòa án gửi kèm quyết định ủy thác cho Tòa án nhân dân
huyện K, tỉnh Thái Bình. Ông Tr và bà V dã xem lại giấy sang nhượng. Diện tích
cụ thể các bên không xác định được, còn tứ cận theo như nội dung đã ghi trong
giấy sang nhượng đất. Về nguồn gốc toàn bộ diện tích đất trên là do ông Tr và bà
V mua chung với ông P ở cùng xóm, họ tên, ngày tháng năm sinh của ông P ông
Tr và bà V không biết và cũng không nhớ là nhận chuyển nhượng của ai, không
có giấy tờ gì.
Việc chuyển nhượng là do sự đồng ý của hai vợ chồng ông Tr và bà V dù
bà Vân không có ký vào giấy sang nhượng nhưng bà Vân hoàn toàn nhất trí với
việc chuyển nhượng diện tích đất trên cho gia đình ông T.
Tại thời điểm chuyển nhượng, phía Bắc thửa đất có đường đi kích thước
khoảng 3m xe công nông có thể đi được, là đường chung của các hộ đi từ bên
trong ra bên ngoài.
Quá trình giải quyết vụ án, ngoài giấy viết tay sang nhượng đất từ ông
Nguyễn Xuân Tr và bà Vũ Thị V, ông Nguyễn Thanh T không cung cấp được bất
cứ tài liệu, chứng cứ khác gì thể hiện quyền sở hữu tài sản đối với diện tích đất
nói trên.
Quá trình giải quyết vụ án theo hồ sơ ông Nguyễn Hồng T1 cung cấp và
qua thu thập tài liệu, hồ sơ tại Chi nhánh Văn phòng thể hiện:
Ông Nguyễn Văn T2 và bà Trần Thị Kim Th2 được UBND huyện E cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 796773, thửa đất số 11, tờ bàn đồ số
16; địa chỉ tại thôn Tri C1, xã D, huyện E, Đăk Lăk, diện tích sử dụng 11.574 m
2
.
Ngày 08/01/2021, ông T2 và bà Th2 lập hợp đồng tặng cho toàn bộ diện tích đất
trên cho ông Nguyễn Hồng T1, chỉnh lý động trên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 26/01/2021.
Theo bản vẽ hiện trạng sử dụng đất theo chỉ dẫn của các đương sự thì:
- Tổng diện tích đất thực tế ông Thoại đang quản lý sử dụng là: 7.092,6 m
2
,
thửa đất số 56 (mới), tờ bản đồ số 35, khu vực thôn T;
- Tổng diện tích thực tế đất của ông T1 là 13.821 m
2
(thửa đất số 67, tở bản
đồ số 35, khu vực thôn T, xã D);
Diện tích đất tranh chấp là 146,7m
2
, thuộc phần diện tích ông T1 đang
quản lý sử dụng; diện tích đất của ông T1 còn lại sau khi trừ đi phần diện tích
tranh chấp là: 13.674,8 m
2
.
Nội dung biên bản xác minh tại UBND xã D, ngày 04/10/2023 thì:
- Thửa đất số 04, tờ bản đồ số 16 (nay là thửa đất số 56, tờ bản đồ số 35)
theo diệnb tích trên bản đồ, thửa đất có diện tích là 6.962 m
2
.
Theo sổ mục kê
UBND xã quản lý, thửa đất này chưa đăng ký kê khai tên người sử dụng. Theo hệ
5
thống đo đạc năm 2009, tờ bản đồ số 35, thửa 56 thì ông Nguyễn Quang Th là
người đang trực tiếp quản lý sử dụng.
- Giữa thửa đất 04 và 11, tờ bản đồ 16 theo hệ thống đo đạc năm 1999 (nay
là 56 và 67, tờ bản đồ số 35, theo hệ thống đo đạc năm 2009) không thể hiện
đường đi.
Theo biên bản xác minh tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện E
đề ngày 04/12/2024:
Theo hồ sơ địa chính lưu trữ tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
huyện E thì:
Thửa đất số 04, tờ bản đồ số 16 (hệ thống đo đạc năm 1999) khu vực thôn
Tri C1, xã D, huyện E, tỉnh Đăk Lăk có diện tích là 6.962 m
2
, chưa có tên người
sử dụng đất;
Thửa đất số 56, tờ bản đồ số 35 (hệ thống đo đạc năm 2013) khu vực thôn
Tri C1, xã D, huyện E, tỉnh Đăk Lăk có diện tích là 6.086 m
2
, tên người quản lý
sử dụng đất là hộ ông Nguyễn Quang Th và bà Phan Thị Thanh Th1. Thửa đất
này hiện chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất.
Giữa thửa đất số 04 và 11, tờ bản đồ số 16 (hệ thống đo đạc năm 1999),
không thể hiện đường đi trên bản đồ tổng thể;
Giữa thửa đất số 56 và 67, tờ bản đồ số 35 (hệ thống đo đạc năm 2013),
không thể hiện đường đi trên bản đồ tổng thể;
Ý kiến của Kiểm sát viên:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện E phát biểu quan điểm về việc tuân
thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng
xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ
lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của
pháp luật.
Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cứ đã được thu thập tại hồ sơ vụ án và
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Tòa án áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a
khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 95, 100, 166
Luật đất đai, đề nghị tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án Tranh chấp quyền sử dụng
đất giữa nguyên đơn ông Nguyễn Thanh T với bị đơn ông Nguyễn Hồng T1 là
đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Thanh T ủy
quyền cho ông Nguyễn Quang Th tham gia tố tụng tại Tòa án là đúng quy định
pháp luật.
Bị đơn ông Nguyễn Hồng T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không
có mặt tại phiên tòa. Do vậy, căn cứ quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 227 Bộ
luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.
6
[2] Về nội dung: Nguyên đơn ông Nguyễn Thanh T yêu cầu ông Nguyễn
Hồng T1 phải trả lại diện tích lối đi chung và diện tích đất mà ông Nguyễn Hồng
T1 đã lấn chiếm của ông Nguyễn Thanh T, cụ thể:
- Lấn chiếm diện tích lối đi chung phần phía Nam thửa đất của ông T, bà
H: Chiều dài khoảng 150 m; chiều rộng đầu đường 2m, cuối đường 1m; diện tích
đường đi chung bị lấn chiếm khoảng 225 m
2
.
- Lấn chiếm sang phần phía Nam diện tích đất của ông Nguyễn Thanh T và
bà Lê Thị Mỹ H: Chiều dài khoảng 150 m, rộng khoảng 1m; tổng diện tích
khoảng 150 m
2
.
Bị đơn ông Nguyễn Hồng T1 cho rằng nguồn gốc thửa đất trên có được từ
bố mẹ tặng. Quá trình quản lý sử dụng, ông T1 không lấn chiếm đất của ông T
nên không đồng ý trả lại diện tích đất như ông T trình bày. Về lối đi chung, theo
ông T1 giữa rẫy ông T1 và rấy ông T.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ
đối với diện tích đất tranh chấp nói trên.
Kết quả thẩm định và đo đạc hiện trạng thực tế thể hiện: Cạnh phía Nam
đất gia đình ông T (hiện ông Thoại và bà Thủy đang sử dụng) giáp đất ông T1;
đồng thời, cạnh phía Bắc đất ông T1 giáp đất ông T.
Hiện tại, diện tích đất tranh chấp không còn thể hiện con đường đi chung
giữa các bên, không thể hiện ranh giới con đường. Tại diện tích đất tranh chấp
theo ý kiến của nguyên đơn có 2 hàng trụ bê tông do các bên chôn làm ranh, 01
cây xoài, và 05 trụ tiêu (do ông T1 trồng).
Theo bản vẽ hiện trạng sử dụng đất thực tế: Tổng diện tích đất thực tế ông
Thoại đang quản lý sử dụng là: 7092,6 m
2
; Tổng diện tích thực tế đất của ông T1
là 13.821 m
2
; Diện tích đất tranh chấp là 146,7m
2
, diện tích đất của ông T1 còn
lại sau khi trừ đi phần diện tích tranh chấp là: 13.674,8 m
2
.
Quá trình giải quyết vụ án, ngoài giấy viết tay sang nhượng đất từ ông
Nguyễn Xuân Tr và bà Vũ Thị V, ông Nguyễn Thanh T không cung cấp được bất
cứ tài liệu, chứng cứ khác gì thể hiện quyền sở hữu tài sản đối với diện tích đất
nói trên, không cung cấp được thông tin thửa đất.
Quá trình giải quyết vụ án theo hồ sơ ông Nguyễn Hồng T1 cung cấp và
qua thu thập tài liệu, hồ sơ tại Chi nhánh Văn phòng thể hiện:
Ông Nguyễn Văn T2 và bà Trần Thị Kim Th2 được UBND huyện E cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 796773, thửa đất số 11, tờ bàn đồ số
16; địa chỉ tại thôn Tri C1, xã D, huyện E, Đăk Lăk, diện tích sử dụng 11.574 m
2
.
Ngày 08/01/2021, ông T2 và bà Th2 lập hợp đồng tặng cho toàn bộ diện tích đất
trên cho ông Nguyễn Hồng T1, chỉnh lý động trên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 26/01/2021.
Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Thanh T
có cung cấp cho Tòa án 01 giấy sang nhượng đất viết tay. Ngoài ra không cùng
cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh quyền sử hữu tài sản của ông
T trên diện tích đất nói trên. Tại giấy viết tay, chỉ nêu tứ cận thửa đất chứ không
ghi cụ thể diện tích đất mà ông Trường, bà Vân sang nhượng cho ông Nguyễn
Thanh T là bao nhiêu. Tại biên bản lấy lời khai, người chuyển nhượng đất cho
7
ông T, ông Tr và bà V chỉ trình bày tứ cận thửa đất là đúng chứ không rõ diện
tích chính xác của thửa đất đã chuyển nhượng cho ông T là bao nhiêu.
Theo quy định tại Điều 95 Luật Đất đai 2013:
“1. Đăng ký đất đai là bắt buộc đối với người sử dụng đất và người được
giao đất để quản lý, đăng ký quyền sở hữu và tài sản gắn liền với đất thực hiện
theo yêu cầu của chủ sở hữu;
...
7. Việc đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất có hiệu lực kể từ thời điểm
đăng ký vào sổ địa chính.”
Gia đình ông T chưa thực hiện kê khai, do vậy chưa phát sinh quyền sử
dụng đối với diện tích đất tranh chấp.
Mặt khác, tại giấy sang nhượng đất đề ngày 28/7/2003 giữa ông T và ông
Trường có ghi Nam giáp chú 10; Bắc giáp đường; biên bản lấy lời khai đề ngày
03/02/2023, ông Tr và bà V trình bày là Phía Bắc giáp đường đi kích thước
khoảng 3 m. Không thể hiện có đường đi phía Nam đối với thửa đất ông Tr
chuyển nhượng cho ông T.
Theo hiện trạng thực tế, giữa thửa đất ông T và ông T1 không có con
đường đi.
Theo biên bản xác minh tại UBND xã D, ngày 04/10/2023 thì, giữa thửa
đất 04 và 11, tờ bản đồ 16 theo hệ thống đo đạc năm 1999 (nay là 56 và 67, tờ
bản đồ số 35, theo hệ thống đo đạc năm 2009) không thể hiện đường đi.
Theo biên bản xác minh tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện E
đề ngày 04/12/2024:
Theo hồ sơ địa chính lưu trữ tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
huyện E thì:
Thửa đất số 04, tờ bản đồ số 16 (hệ thống đo đạc năm 1999) khu vực thôn
T1, xã D, huyện E, tỉnh Đăk Lăk có diện tích là 6.962 m
2
, chưa có tên người sử
dụng đất;
Thửa đất số 56, tờ bản đồ số 35 (hệ thống đo đạc năm 2013) khu vực thôn
T1, xã D, huyện E, tỉnh Đăk Lăk có diện tích là 6.086 m
2
, tên người quản lý sử
dụng đất là hộ ông Nguyễn Quang Th và bà Phan Thị Thanh Th1. Thửa đất này
hiện chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất.
Giữa thửa đất số 04 và 11, tờ bản đồ số 16 (hệ thống đo đạc năm 1999),
không thể hiện đường đi trên bản đồ tổng thể;
Giữa thửa đất số 56 và 67, tờ bản đồ số 35 (hệ thống đo đạc năm 1999),
không thể hiện đường đi trên bản đồ tổng thể;
Vậy, theo sổ mục kê, hiện thửa đất số 56, tờ bản đồ số 35 do anh Nguyễn
Quang Th và chị Phan Thị Thanh Th1 trực tiếp quản lý, sử dụng, diện tích thực tế
6.086 m
2
.
8
Ông T, anh Th, chị Th1 không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào chứng minh
mình được cấp quyền sử dụng đối với thửa đất trên và không xác định được
chính xác diện tích đất mình đang trực tiếp quản lý sử dụng là bao nhiêu.
Do vậy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Thanh T
về việc yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Hồng T1 trả lại cho ông T diện tích đất
đã lấn chiếm và lối đi chung.
[4]. Đối với phần công trình nhà ở, cây trồng trên diện tích đất trên. Do
yêu cầu của ông T không được chấp nhận nên không xem xét giải quyết.
[5]. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản: Do
yêu cầu của ông Nguyễn Thanh T không được chấp nhận nên ông T phải chịu
toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản cho yêu cầu của
mình với số tiền là 1.800.000 đồng. Khấu trừ vào số tiền tạm ứng chi phí tố tụng
mà ông đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Thanh T đã nộp tại tòa án và chi
phí hết; ông Nguyễn Thanh T phải chịu 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) tiền chi
phí đo đạc mà đại diện theo ủy quyền của ông T là ông Nguyễn Quang Th đã nộp
cho Công ty đo đạc D.
[6] Về án phí dân sự: Do yêu cầu của ông Nguyễn Thanh T không được
chấp nhận nên cần buộc ông Nguyễn Thanh T phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ
thẩm theo quy định của pháp luật. Ông Nguyễn Thanh T là người cao tuổi, có
đơn xin miễn, giảm án phí nên căn cứ điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị định
326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016, miễn toàn bộ án phí DSST cho ông
Nguyễn Thanh T.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 6; khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a
khoản 1 Điều 39; Điều 91; điểm b khoản 1 Điều 92; khoản 1 Điều 147; Điều 157.
Điều 164, khoản 2 Điều 227, Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng
dân sự; Điều 26, Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 163, 164 Bộ luật Dân sự;
Khoản 9 Điều 3, khoản 1, 3, 7 Điều 95 Đất đai 2013; điểm đ, khoản 1 Điều 12
Nghị định 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016.
- Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh T về các nội
dung: Yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Hồng T1:
- Trả lại cho ông T diện tích đất mà ông T1 đã lấn chiếm của gia đình ông
Nguyễn Thanh T là 150m
2
;
- Trả lại lối đi chung diện tích là 225m
2
.
2. Về chi phí tố tụng: Buộc ông T phải chịu 1.8000.000 đồng chi phí xem
xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, khấu trừ vào số tiền tạm ứng mà ông
Nguyễn Thanh T đã nộp tại Tòa án nhân dân huyện E va đã chi phí hết. Ông
Nguyễn Thanh T phải 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) chi phí đo đạc mà đại
9
diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Thanh T đã nộp chi phí đo đạc tại Công ty
đo đạc Duy Bình.
3. Về án phí dân sự: Miễn toàn bộ án phí DSST cho ông Nguyễn Thanh T.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, những người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản
án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Viện KSND huyện E;
- Chi cục THADS huyện E;
- Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk;
- Cổng TTĐT Tòa án;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Thị Bích Thủy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 16/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 24/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 10/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm