Bản án số 76/2024/DS-PT ngày 18/10/2024 của TAND tỉnh Ninh Thuận về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 76/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 76/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 76/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 76/2024/DS-PT ngày 18/10/2024 của TAND tỉnh Ninh Thuận về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Ninh Thuận |
Số hiệu: | 76/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | bà Trịnh Thị B tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Nguyễn Như L |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NINH THUẬN
Bản án số: 76/2024/DS-PT
Ngày: 18 - 10 - 2024
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng
đất; Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất; Yêu
cầu hủy Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH THUẬN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Ngô Thị Trang.
Các Thẩm phán:Ông Hàng Lâm Viên;
Bà Phm Thị Anh Trang.
- Thư ký phiên tòa: Bà Bùi Thị Hoàng Xuân - Thư ký Tòa án, Tòa án nhân
dân tỉnh Ninh Thuận.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Thuận tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Thắng - Kiểm sát viên trung cấp.
Vào các ngày 19 tháng 9 và ngày 18 tháng 10 năm 2024, tại Tòa án nhân dân
tỉnh Ninh Thuận xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
22/2024/TLPT-DS ngày 19 tháng 03 năm 2024 về việc“Tranh chấp quyền sử
dụng đất; Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; Yêu cầu hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 05 tháng 02 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam tỉnh Ninh Thuận bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 52/2024/QĐ-PT ngày
01/7/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 35/QĐ-PT ngày 19/7/2024; Thông báo
thời gian mở phiên tòa số 26/TB-TA ngày 23/7/2024; Thông báo thay đổi thời
gian mở lại phiên tòa số 32/TB-TA ngày 16/8/2024; Quyết định tạm ngừng phiên
tòa số 01/2024/QĐ-PT ngày 19/9/2024:
1. Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị B, sinh năm: 1954 (vắng mặt).
2
Địa chỉ: Thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thành Â, sinh năm 1995 (có
mặt);
Địa chỉ: Thôn N, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Như L, sinh năm 1959 (có mặt);
Địa chỉ: Thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
3. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Ngô Thị C, sinh năm 1959 (có mặt);
Địa chỉ: Thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
3.2. Bà Lê Thị L1 (chết năm 2023)
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Lê Thị L1:
3.2.1. Bà Lương Thị N, sinh năm 1971; 2.2. Bà Lương Thị Đ, sinh năm 1975;
2.3. Bà Lương Thị M, sinh năm 1964 (vắng mặt - có yêu cầu giải quyết vắng mặt);
3.2.4. Ông Lương L2 (đã chết)
Những người kế thừa quyền nghĩa vụ của ông Lương L2:
3. 2.4.1. Bà Tạ Thị Ánh X; 3.2.4.2. Chị Lương Tạ Ái S; 3.2.4.3. Chị Lương
Tạ Ái V; 3.2.4.4. Chị Lương Tạ Huyền T; 3.2.4.5. Chị Lương Tạ Ái H; 3.2.4.6.
Chị Lương Tạ Ái T1; 3.2.4.7. Chị Lương Tạ Ái L3; 3.2.4.8. Anh Lương Tạ Trung
Đ1; 3.2.4.9. Anh Lương Tạ Thiên D (có yêu cầu giải quyết vắng mặt);
3.2.5. Ông Lương T2 (đã chết);
Những người kế thừa quyền nghĩa vụ của ông Lương T2:
3.2.5.1. Bà Phạm Thị H1; 3.2.5.2. Chị Lương Thị T3, sinh năm 1985; 3.2.5.3.
Anh Lương Tấn C1, sinh năm 1986; 3.2.5.4. Anh Lương Tấn C2, sinh năm 1988;
3.2.5.5. Chị Lương Thị T4, sinh năm 1990; 3.2.5.6. Chị Lương Thị Kim H2, sinh
năm 1993; 3.2.5.7. Chị Lương Thị Kim H3, sinh năm 1994; 3.2.5.8. Chị Lương
Thị Kim H4, sinh năm 1996 (có yêu cầu giải quyết vắng mặt);
3.2.6. Bà Lương Thị L4 (đã chết);
Những người kế thừa quyền nghĩa vụ của bà Lương Thị L4: Anh Hồ Tấn H5,
sinh năm 1988; (Vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
3.3. Ủy ban nhân dân huyện T;
Người đại diện theo pháp luật của UBND huyện T: ông Trương Xuân V1,
3
chức vụ: Chủ tịch UBND huyện T.
Người đại diện theo ủy quyền của UBND huyện T: Ông Lê Xuân T5 - Phó
trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T (Có mặt)
3.4. Ủy ban nhân dân xã P;
Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Thành T6, chức vụ: Phó Chủ
tịch UBND phụ trách. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Đăng T7 - Cán bộ địa chnh xã P
(Có mặt)
4. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Như L là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Quá trình tố tụng nguyên đơn bà Trịnh Thị B và tại phiên tòa ông Nguyễn
Thành  là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Vào năm 2010, bà Trịnh Thị B nhận chuyển nhượng thửa 48a và thửa 68 từ
bà Lê Thị L1, do bà Nguyễn Thị H6 (đã chết) đứng ra môi giới. Bà H6 là người
đứng ra giới thiệu và làm thủ tục chuyển nhượng các thửa đất số 48a, 68, cùng tờ
bản đồ số 41 xã P, huyện T này giữa bà B với bà Lê Thị L1. Bà B với bà L1 và bà
H6 đã cùng nhau đã đến UBND xã P làm Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất có chứng thực của UBND xã P. Bà H6 là người trực tiếp giới thiệu, đứng
ra làm các thủ tục chuyển nhượng đất, bà B và bà Lê Thị L1 ký Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất tại UBND xã P ngày 22/10/2010 và được UBND xã
P. Còn giữa bà H6 với bà L1 có giao dịch, thỏa thuận gì hay không thì bà B không
biết. Bà B đã giao tiền chuyển nhượng đầy đủ cho bà L1. Sau đó, căn cứ trên Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/10/2010 thì bà B được UBND
huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 272238 ngày 21/01/2011
đối với các thửa đất số 48a, 68, cùng tờ bản đồ số 41 xã P, huyện T. Hiện nay thì
bà L1 và bà H6 đã chết nên bà B không thể mời đến Tòa án đối chất được.
Khi nhận chuyển nhượng thửa đất số 48a, 68 này thì bà B với bà H6 và bà
L1 có đi đến đất chỉ mốc giới tại thực địa. Khi đó, bà H6 và bà L1 cho biết tại mặt
hướng Bắc thửa đất chuyển nhượng này có giáp đất người khác mà sau này bà B
mới biết là ông Nguyễn Như L. Khi bà B nhận sang nhượng thửa đất này thì ranh
giới mặt hướng Bắc đất của bà B với đất ông L là hai bụi gai xương rồng. Trên
đất chuyển nhượng này của bà B đã có cây tạp, cây mãng cầu không ai chăm sóc,
sau khi nhận chuyển nhượng thì bà B để đất trống nhưng bà có đi thăm đất, quản
lý đất này. Khi hai bên xảy ra tranh chấp thì ông L tự ý đến dựng trụ bê tông trên
4
đất của bà B. Bà B đã ngăn cản và báo chnh quyền địa phương nhưng ông L vẫn
cố ý trồng trụ bê tông trên đất của bà B. Do đó, bà B không đồng ý toàn bộ yêu
cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Như L. Trường hợp Tòa án nếu có hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà B với bà L1 ngày 22/10/2010 thì
bà B không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề hậu quả hợp đồng vô hiệu trong vụ
án này.
Bà Trịnh Thị B yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Như L, bà Ngô Thị C trả lại tài sản là quyền
sử dụng đất thuộc các thửa đất số 48a, 68 cùng tờ bản đồ số 41 xã P, có tổng diện
tích là: 3.015 m
2
đã được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BĐ 272238 ngày 21/11/2011; yêu cầu ông Nguyễn Như L, bà Ngô Thị C
tháo dỡ, di dời 14 cây trụ bê tông cao 1,2m trồng trên thửa đất này.
- Về chi ph xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản thì đồng ý các
khoản chi ph xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và yêu cầu giải quyết
theo quy định pháp luật. Do hiện nay các cây mãng cầu chỉ mọc rải rác và 02 cây
trụ gộc (gỗ) không còn giá trị sử dụng nên bà B không yêu cầu giải quyết.
Bị đơn ông Nguyễn Như L trình bày:
Trước đây, vợ chồng ông có nhận chuyển nhượng của bà Phạm Thị Như H7
một thửa đất diện tch 5.000 m
2
tại thôn L, xã P. Đến năm 1999, vợ chồng ông đã
đổi thửa đất 5.000 m
2
này với bà Phan Thị H8 để nhận một thửa đất có diện tch
đất 7.500 m
2
của bà H8, việc đổi đất này hai bên chỉ đưa giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho nhau giữ, đổi đất không bù chênh lệch. Nguồn gốc Thửa đất số
48a và thửa 68 đang tranh chấp hiện nay nằm trong diện tch 7.500 m
2
đất của vợ
chồng ông được đổi từ bà H8 nêu trên, nay gồm các thửa 48, 48a, 68, cùng tờ bản
đồ số 41 xã P. Khi đổi đất thì bà H8 chỉ đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với các thửa đất 48, 48a, 68 này cho vợ chồng ông giữ, không lập giấy tờ đổi
đất. Đến năm 2005, khi vợ chồng ông mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của bà H8 để sang tên qua vợ chồng ông thì cán bộ địa chnh chỉ làm thủ tục sang
tên thửa đất 48, tờ bản đồ số 41 xã P cho vợ chồng ông, còn thiếu thửa đất số 48a
và thửa 68 thì không sang tên được cho vợ chồng ông vì cán bộ địa chnh làm
thiếu sót. Vợ chồng ông vẫn quản lý đất này đến nay. Từ trước đến nay, vợ chồng
ông đã đắp mương nổi dẫn nước và canh tác trên đất này.
Vào năm 2012, UBND huyện T đã ban hành Quyết định số 52/QĐ-UBND
ngày 19/3/2012 về việc thu hồi đất của hộ gia đình ông để thực hiện Dự án Công
trình Phong điện 1 - Ninh Thuận, diện tch đất thu hồi là 102 m
2
thuộc thửa 69, tờ
bản đồ số 41 xã P này ông khẳng định nằm trong khu đất mà vợ chồng ông đổi
đất từ bà Phan Thị H8 trước đây. Hiện nay, hiện trạng trên thửa đất số 48a và thửa
5
68 này có cây mãng cầu do vợ chồng ông trồng và trụ bê tông trồng để xác định
ranh giới, giữ đất. Ông chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ông được
quyền sử dụng đất tranh chấp này. Đối với 30 cây mãng cầu ta và 02 cây trụ gộc
(gỗ) do không còn giá trị sử dụng nên vợ chồng ông không yêu cầu giải quyết.
Vì vậy, ông không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị B.
Ông có yêu cầu phản tố như sau:
- Công nhận cho vợ chồng ông được quyền sử dụng diện tch đất thuộc thửa
48a, giới hạn các điểm (3,4,9,10) diện tch 2.000 m
2
và thửa 68, giới hạn các điểm
(5,6,7,8) diện tch 1.015 m
2
, cùng tờ bản đồ địa chnh số 41 xã P, huyện T, tỉnh
Ninh Thuận;
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị L1 với bà
Trịnh Thị B lập ngày 22/10/2010 về việc sang nhượng thửa đất số 48a và thửa 68.
Lý do vì đất này là đất của vợ chồng ông nhưng bà L1 và bà B lại tự ý chuyển
nhượng cho nhau. Ông chỉ yêu cầu được quyền sử dụng đất, không yêu cầu Tòa
án giải quyết hậu quả hợp đồng khi tuyên bố hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất
giữa bà L1 và bà B vô hiệu. Trong vụ án này: Ông có yêu cầu hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ngày 25/11/2004 của UBND huyện N cấp cho bà Lê Thị
L1 và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số BĐ 272238 ngày 21/01/2011 của UBND huyện T
cấp cho bà Trịnh Thị B.
- Về án ph xin được miễn án ph vì là cao tuổi; về chi ph xem xét, thẩm
định tại chỗ và định giá tài sản thì ông yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.
Đối với 02 cây trụ gộc và 30 cây mãng cầu ta trên đất do không còn giá trị sử
dụng nên vợ chồng ông không yêu cầu giải quyết.
Quá trình tố tụng và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Ngô Thị C trình bày:
Bà không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị B, đồng ý toàn
bộ yêu cầu phản tố của ông L không có bổ sung gì thêm.
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Lê Thị L1 trình
bày:
- Bà Lương Thị N, bà Lương Thị Đ, bà Lương Thị M trình bày:
Nguyên vào năm 1986, mẹ các bà là Lê Thị L1 được Nhà nước cấp diện tch
đất khoảng hơn 3.000 m
2
tại thôn L, xã P. Bà Lê Thị L1 được Nhà nước cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 25/11/2004 cấp cho bà Lê Thị L1 được quyền
sử dụng thửa đất số 48a và thửa 68, cùng tờ bản đồ số 41 xã P đối với diện tch
đất này. Các bà xác nhận toàn bộ diện tch đất thuộc thửa 48a, thửa 68 này bà Lê
6
Thị L1 đã chuyển nhượng cho người khác từ hơn 10 năm nay và không còn liên
quan, không tranh chấp gì đến hai thửa đất này.
Vì vậy, các bà đề nghị Tòa án không đưa vào tham gia tố tụng trong vụ án
này, từ chối nhận bất kỳ văn bản tố tụng của Tòa án và xin được vắng mặt tại tất
cả các giai đoạn tố tụng trong vụ án này theo quy định pháp luật.
- Bà T Thị Ánh X (vợ ông Lương L2) và các con ông Lương L2 (đã
chết) gồm: chị Lương Tạ Ái S, chị Lương Tạ Ái V, chị Lương Tạ Huyền T, chị
Lương Tạ Ái H, chị Lương Tạ Ái T1, chị Lương Tạ Ái L3, chị Lương Tạ Ái T8,
anh Lương Tạ Trung Đ1; anh Lương Tạ Thiên D; bà Phạm Thị H1 (vợ ông Lương
T2) và các con ông Lương T2 (đã chết) gồm: chị Lương Thị T3, anh Lương Tấn
C1, anh Lương Tấn C2, chị Lương Thị T4, chị Lương Thị Kim H2, chị Lương
Thị Kim H3, chị Lương Thị Kim H4; anh Hồ Tấn H5 là con của bà Lương Thị L4
(bà L4 đã chết) từ chối nhận văn bản tố tụng của Tòa án, từ chối tham gia tố tụng
tại Tòa án, xin vắng mặt tại tất cả các giai đoạn tố tụng tại Tòa án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND huyện T trình bày:
Về hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị L1 gồm:
Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất lập ngày 21/9/1999, có xác nhận của UBND
xã P vào ngày 02/11/1999, xác nhận của Phòng địa chnh huyện N ngày
07/01/2000; Về nguồn gốc đất: Theo Sổ mục kê đất đai tại xã P lập ngày 05/3/1999
thể hiện tên chủ sử dụng đất tại thửa 48a, 68, cùng tờ bản đồ số 41 xã P là bà Lê
Thị L1; Quá trình cấp giấy chứng nhận: Bà Lê Thị L1 được UBND huyện N cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S501140, số vào sổ
00490/QSDĐ/90/QĐ/H/2002 cấp ngày 25/11/2004, tổng diện tch 3.015 m
2
thuộc
thửa 48a, 68, cùng tờ bản đồ số 41 xã P. Sau đó bà Lê Thị L1 chuyển nhượng lại
toàn bộ diện tch đất này cho bà Trịnh Thị B theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất số 304.T49 quyển số 01 do UBND xã P ngày 22/10/2010. Trên cơ sở
này, bà Trịnh Thị B được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 272238,
số vào sổ 00103 cấp ngày 21/01/2011 đối với thửa đất số 48a và thửa 68, tổng
diện tch 3.015 m
2
.
Vì vậy, UBND huyện T không đồng ý yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số S501140, số vào sổ 00490/QSDĐ/90/QĐ/H/2002 cấp ngày
25/11/2004 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 272238 cấp ngày
21/01/2011 này của ông L.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 05/02/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận quyết định:
Căn cứ vào các điều 26, 34, 35, 39, 147, 157, 158, 165, 166, 227, 228, 271,
273, 280 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Các điều 122, 688, 689, 697, 698, 699, 700,
7
701, 702 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 163 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Các điều 105, 106, 113, 127 của Luật Đất đai năm 2003; Các điều 12, 14 của Nghị
quyết số 326/NQ-HĐTP ngày 31/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trịnh Thị B.
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Như L về
việc: Yêu cầu được quyền sử dụng thửa đất số 48A, 68, tờ bản đồ số 41 xã P; yêu
cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 304.T49 quyển số 01 do
UBND xã P ngày 22/10/2010; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số S501140 số vào sổ 00490/QSDĐ/QĐ/H/2002 ngày 25/11/2004 của UBND
huyện N cấp cho bà Lê Thị L1 và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BĐ 272238, số vào sổ 00103 cấp ngày 21/01/2011 của UBND huyện T cấp
cho bà Trịnh Thị B.
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Như L, bà Ngô Thị C tháo dỡ, di dời 14 cây trụ
bê tông cao 1,2m để trả lại cho bà Trịnh Thị B diện tch đất 3.015m
2
được giới
hạn bởi các điểm (3,4,9,10) và (5,6,7,8) thuộc thửa đất số 48a (diện tích 2.000 m
2
)
và thửa đất số 68 (diện tích 1.015 m
2
), cùng tờ bản đồ số 41 tọa lạc tại thôn L, xã
P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận, trên đất có 30 cây mãng cầu ta chưa thu hoạch (mãng
cầu ta, giống địa phương) và 02 cây trụ gộc (gỗ), theo Trích lục bản đồ địa chính
số 161/2023 ngày 07/02/2023 của Văn phòng Đ2 (theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BĐ 272238, cấp ngày 21/01/2011 của UBND huyện T) và không
được cản trở việc sử dụng đất của bà Trịnh Thị B.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án ph, quyền kháng cáo và điều kiện
thi hành án.
Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 05/02/2024, bị đơn ông Nguyễn Như L làm đơn
kháng cáo yêu cầu: Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày
05/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận. Yêu cầu
giải quyết cho vợ chồng ông Nguyễn Như L, bà Ngô Thị C3 được quyền sử dụng
diện tích đất tranh chấp thuộc các thửa 48a, thửa 68, cùng tờ bản đồ số 41 xã P,
huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn tranh luận:
Đồng ý chịu chi ph định giá tài sản tại giai đoạn sơ thẩm và đề nghị Hội đồng xét
xử phúc thẩm bác kháng cáo của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn đề nghị: Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của pha bị đơn, công nhận cho vợ chồng bị
đơn được quyền sử dụng các thửa 48a, thửa 68, tờ bản đồ số 41 xã P, huyện T,
tỉnh Ninh Thuận.
8
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ
án như sau:
Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị
án.
Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn đồng ý chịu chi ph định giá tài sản tại giai đoạn sơ thẩm là hoàn toàn tự
nguyện, phù hợp quy định của pháp luật. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 2 Điều 308
Bộ luật tố tụng dân sự theo hướng bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông
Nguyễn Như L, sửa một phần bản án về chi ph thẩm định không buộc bị đơn trả
cho nguyên đơn 7.200.000 đồng chi ph định giá tài sản tại giai đoạn sơ thẩm và
giữ nguyên các phần còn lại của bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày
05/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.
Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ c trong hồ sơ vụ án và lời trnh bày
của các đương sự đã được thẩm tra tại phiên tòa.
Căn cứ kết quả xét hỏi công khai tại phiên tòa.
Sau khi Hội đồng xét xử phúc thẩm nghị án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Ngày 15 tháng 02 năm 2024 bị đơn ông Nguyễn Như L nộp đơn kháng
cáo là còn trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật
tố tụng dân sự nên được chấp nhận.
[1.2] Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trịnh Thị B vắng mặt nhưng có mặt người
đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Thành Â; những người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan đều có yêu cầu vắng mặt. Căn cứ các điều 227, 228 của Bộ luật tố
tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử.
[1.3] Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và bị
đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án.
[2] Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận
thấy: Tòa án sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp cần giải quyết của vụ án là:
“Tranh chấp quyền sử dụng đất; Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất; Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” là đúng quy định của
pháp luật.
9
[3] Về nội dung: Xét nội dung kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử xét
thấy:
[3.1] Về nguồn gốc đất: Theo Sổ mục kê đất đai xã P được xác lập ngày
05/3/1999 thể hiện, tên chủ sử dụng thửa đất số 48a (diện tch 2.000 m
2
) và thửa
đất số 68 (diện tch 1.015 m
2
), tờ bản đồ số 41 xã P là bà Lê Thị L1, được UBND
huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho hộ bà Lê Thị L1
ngày 25/11/2004, nguồn gốc do UBND xã cấp năm 1986. Tại công văn số
1519/CAH (QLHC) ngày 07/9/2023 của Công an huyện T: Hộ bà Lê Thị L1 vào
thời điểm ngày 25/11/2004 chỉ có 01 nhân khẩu là bà Lê Thị L1, sinh năm 1932
đã chết. Tại Công văn số 209/PTNMT-ĐĐ ngày 21/3/2023 của Phòng Tài nguyên
và Môi trường huyện T thể hiện: thửa đất số 48a được hình thành từ thửa đất gốc
là thửa 48a (diện tch 2.000 m
2
) và thửa đất số 68 được hình thành từ thửa đất gốc
số 68 (diện tch 1.015 m
2
), tờ bản đồ số 41 xã P được đo đạc tháng 3/1997, xác
lập ngày 05/3/1999 (BL 136, 137, 148-149).
[3.2] Về quá trình sử dụng đất: Tại Công văn số 209/PTNMT-ĐĐ ngày
21/3/2023 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T, Văn bản trình bày ý
kiến của UBND huyện T ngày 11/7/2023 và tài liệu trong hồ sơ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ngày 25/11/2004 thu thập tại Văn phòng Đ2 - Đ2 thể
hiện: Bà Lê Thị L1 được UBND huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
năm 2004, diện tích 3.015 m
2
gồm thửa 48a và thửa 68. Sau đ bà Lê Thị L1
chuyển nhượng lại toàn bộ diện tích đất này cho bà Trịnh Thị B theo Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 304.T49 quyển số 01 do UBND xã P hợp
pháp ngày 22/10/2010. Bà Trịnh Thị B được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BĐ 272238 ngày 21/01/2011 (BL 108-133).
[3.3] Tại phiên tòa, bị đơn trình bày: thửa 48a, thửa 68 và thửa 48 (thửa 48
đã được cấp giấy chứng nhận cho bị đơn) là do vợ chồng ông đổi đất từ bà Phan
Thị H8 vào năm 1999. Bà H8 có chỉ đất và giao Sổ đỏ cho vợ chồng ông giữ và
ông canh tác quản lý đất từ đó đến nay. Nhưng trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của bà H8 không có các thửa số 48a, 68 (BL 265). Sau khi đổi đất ông
cng không đi đăng ký với chnh quyền địa phương. Thời điểm bà L1 được cấp
GCNQSD đất đối với các thửa 48a, 68 vào năm 2004 ông cng không có ý kiến
hay khiếu nại.
[3.4] Lời khai những người làm chứng:
[3.4.1] Lời khai của các người làm chứng ở giai đoạn sơ thẩm: Những người
làm chứng do bị đơn ông L đề nghị đến phiên tòa để làm chứng cho ông chỉ xác
nhận ông L có diện tch đất sử dụng tại khu vực đất tranh chấp, không xác định
được diện tch đất ông L sử dụng là những thửa nào nên chưa đảm bảo căn cứ
10
chứng minh cho việc ông L được quyền sử dụng các thửa đất đang tranh chấp (BL
74-79).
[3.4.2] Lời khai của các người làm chứng ở giai đoạn phúc thẩm:
Lời khai người làm chứng ông Nguyễn Văn L5 (BL 321 - Tập 22) trình bày:
Về nguồn gốc thửa đất số 48a, 68 cùng tờ bản đồ địa chnh số 41 được UBND cấp
cho bà Lê Thị L1 theo diện tch tế mới. Sau khi bà L1 và ông L được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông L và ông Nguyễn Tấn C4 đã chết có đến
gặp ông và thông báo về việc cấp nhầm thửa đất số 48a của ông L vào giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của bà L1 nên ông và ông L, ông C4 có xuống kiểm tra
lại xác định thời điểm đó là đất trống. Sau khi kiểm tra ông có ghi lưu ý nội dung:
Thửa 48a đã cấp cho bà L1 khi sang nhượng nhớ lưu ý vì thửa đất số 48a là của
ông L trong bản đồ địa chnh đo vẽ năm 1996 đang lưu giữ tại Ủy ban nhân dân
xã. Sau thời gian đó không có ai ý kiến về việc cấp sổ nữa nên hồ sơ vẫn để như
hiện nay (BL 284, 321). Ngoài ra, ông L5 không cung cấp được chứng cứ nào
khác.
Lời khai người làm chứng ông Nguyễn T9 (BL 320 - Tập 22) trình bày:
Nguồn gốc các thửa số 48, 48a, 68 nguyên do Nhà nước cấp cho hộ bà Phan
Thị H8 theo dạng chnh sách vào năm 1987, sau khi được cấp hộ gia đình bà H8
có canh tác, sử dụng đất. Sau đó giữa bà H8 và ông L có thỏa thuận đổi đất như
sau:Ông L sử dụng các thửa số 48, 48a, 68. Bà H8 sử dụng thửa số 75 có nguồn
gốc do ông L nhận chuyển nhượng từ bà Phạm Thị Như H7 (đã chết). Sau khi đổi
đất ông L canh tác liên tục trồng cây bông vải, thuốc lá và một số cây mãng cầu.
Đến năm 2003 khu đất bị nhiễm mặn nên không canh tác hoa màu được nên chỉ
còn một số cây lâu năm. Tại giai đoạn lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho bà L1, bà
H8, ông L do Ban kinh tế mới (Ban định canh, định cư huyện N) họp xét và tiến
hành các thủ tục để cấp giấy cho các hộ dân theo quy định. Ông ở ngay khu vực
đất tranh chấp thì từ năm 2011 đến nay không thấy bà Trịnh Thị B canh tác, sử
dụng đất. Ông T9 cng không cung cấp được hồ sơ cấp đất của Ban kinh tế mới.
Lời khai của các con của bà Lê Thị L1:
Bà Lương Thị Đ trình bày: Diện tch đất nhà bà được cấp theo trch lục tương
ứng thửa 48a, 68. Sau khi được cấp đất, mẹ bà Lê Thị L1 có cùng các con canh
tác trồng bắp, đậu ván ăn theo nước trời, gia đình canh tác liên tục đến khoảng
năm 1994 thì bà kết hôn theo chồng về sống trong làng thì mẹ bà do đã nhiều tuổi
nên cng không canh tác nữa để đất trống. Sau đó thì mẹ bà bán diện tch đất này
lại cho ai thì bà không rõ. Thời điểm mẹ bà được cấp đất thì gia đình có 02 người
là mẹ và chị bà Lương Thị M (BL 324).
Bà Lương Thị M trình bày: Sau khi được cấp đất, gia đình bà có trồng hoa
11
màu, bông, bắp, đậu ván. Nhà nước cấp cho hộ nhà bà là 04 sào đất cho 04 thành
viên. Bà chỉ biết có trồng màu trên đất đó trong nhiều năm nhưng không nhớ rõ
thời gian và không rõ chủ sử dụng đất những thửa đất xung quanh. Sau đó bà đi
lấy chồng nên bà không biết gì thêm về thửa đất đang tranh chấp đó nữa. Việc mẹ
bà Lê Thị L1 chuyển nhượng đất cho ai thì bà cng không biết và không liên quan
(BL 323).
[3.5] Thửa đất số 48a và 68 cùng tờ bản đồ địa chnh số 41 xã P theo Sổ mục
kê đất đai xã P được xác lập ngày 05/3/1999 được thể hiện: Quy chủ tên sử dụng
đất là bà Lê Thị L1, có sử dụng 02 thửa đất trên và đã được UBND huyện N cấp
QSDĐ số S 501140, số vào sổ cấp giấy 00490/QSDĐ/2002 ngày 15/11/2004;
nguồn gốc sử dụng đất là do UBND xã cấp năm 1986 (BL 318). Bà L1 đã chuyển
nhượng cho nguyên đơn theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
22/10/2010 không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên
đáp ứng đủ điều kiện có hiệu lực của hợp đồng quy định tại Điều 122 của Bộ luật
dân sự năm 2005, đúng trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất quy
định tại Điều 127 của Luật đất đai năm 2003. Việc chuyển nhượng đất giữa bà L1
với bà B đã thực hiện hoàn thành, bà B đã nhận đất, đã được đăng ký sang tên.
[3.6] Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị
đơn: Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 304.T49 quyển số 01
do UBND xã P ngày 22/10/2010; Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
S501140; 00490/QSDĐ/QĐ/H/2002 ngày 25/11/2004 của UBND huyện N cấp
cho bà Lê Thị L1 và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ
272238, số vào sổ 00103 cấp ngày 21/01/2011 của UBND huyện T cấp cho bà
Trịnh Thị B là có căn cứ.
[3.7] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn đồng ý chịu 7.200.000 đồng (bằng
chữ: Bảy triệu hai trăm nghn đồng) chi ph xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá
tài sản tại giai đoạn sơ thẩm nên Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng:
Bị đơn không phải hoàn trả chi ph xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản
tại giai đoạn sơ thẩm cho nguyên đơn.
[4] Từ những phân tch, đánh giá chứng cứ như trên, Hội đồng xét xử phúc
thẩm bác yêu cầu kháng cáo của bị đơn; Chấp nhận toàn bộ đề nghị của Kiểm sát
viên tại phiên tòa. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 05
tháng 2 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.
[5] Về chi ph tố tụng và án ph:
Về chi phí tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn đồng ý chịu 7.200.000
đồng (bằng chữ: Bảy triệu hai trăm nghn đồng) chi ph xem xét, thẩm định tại chỗ
và định giá tài sản tại giai đoạn sơ thẩm và đã nộp đủ.
12
Tại giai đoạn phúc thẩm ông Nguyễn Như L đã nộp tạm ứng số tiền 3.856.900
đồng (Ba triệu tám trăm năm mươi sáu ngàn chn trăm đồng). Do yêu cầu kháng
cáo của ông L không được chấp nhận nên ông L phải chịu toàn bộ và đã nộp đủ.
Án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự phúc thẩm: Vợ chồng ông L, bà C là
người cao tuổi, đã có đơn xin miễn án ph. Căn cứ các điều 12, 14 Nghị quyết số
326/NQ-HĐTP ngày 31/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, vợ chồng ông
L, bà C được miễn toàn bộ án ph dân sự sơ thẩm, phúc thẩm.
V các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Tuyên bố: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Như L.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 02/2024/DS-ST ngày 05 tháng 02 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.
Căn cứ vào các điều 26, 34, 35, 39, 147, 157, 158, 165, 166, 227, 228 Bộ
luật tố tụng dân sự; Các điều 122, 688, 689, 697, 698, 699, 700, 701, 702 Bộ luật
dân sự năm 2005; Các điều 12, 14 của Nghị quyết số 326/NQ-HĐTP ngày
31/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trịnh Thị B.
2. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Như L
về việc: Yêu cầu được quyền sử dụng thửa đất số 48a, 68, tờ bản đồ số 41 xã P;
yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 304.T49 quyển số
01 do UBND xã P ngày 22/10/2010; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số S501140 số và sổ 00490/QSDĐ/QĐ/H/2002 ngày 25/11/2004 của UBND
huyện N cấp cho bà Lê Thị L1 và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BĐ 272238, số vào sổ 00103 cấp ngày 21/01/2011 của UBND huyện T cấp
cho bà Trịnh Thị B.
3. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Như L, bà Ngô Thị C tháo dỡ, di dời 14 cây
trụ bê tông cao 1,2m để trả lại cho bà Trịnh Thị B diện tch đất 3.015m
2
được giới
hạn bởi các điểm (3,4,9,10) và (5,6,7,8) thuộc thửa đất số 48A (diện tích 2.000
m
2
) và Thửa đất số 68 (diện tích 1.015 m
2
), cùng tờ bản đồ số 41 tọa lạc tại thôn
L, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận, trên đất có 30 cây mãn cầu ta chưa thu hoạch
(mãn cầu ta, giống địa phương) và 02 cây trụ gộc (gỗ), theo Trích lục bản đồ địa
chính số 161/2023 ngày 07/02/2023 của Văn phòng Đ2 (theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BĐ 272238, số vào sổ 00103 cấp ngày 21/01/2011 của
UBND huyện T) và không được cản trở việc sử dụng đất của bà Trịnh Thị B.
13
4. Về án ph:
Ông Nguyễn Như L, bà Ngô Thị C được miễn toàn bộ án ph dân sự sơ thẩm
Ông Nguyễn Như L, bà Ngô Thị C được miễn toàn bộ án ph dân sự phúc
thẩm
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Án xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
(Kèm theo là Trích lục bản đồ địa chính số 161/2023 ngày 07/02/2023 của
Văn phòng Đ2)./.
Nơi nhận:
- Đương sự (26);
- VKSND tỉnh Ninh Thuận (1);
- TAND huyện Thuận Nam (1);
- Chi cục THADS huyện Thuận Nam (1);
- Phòng KTNV & THA (1);
- Lưu hồ sơ, án văn, HC-TP (3).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Ngô Thị Trang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm