Bản án số 173/2025/DS-PT ngày 22/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 173/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 173/2025/DS-PT ngày 22/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 173/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngày 25/9/2013 ông Nguyễn Văn T có nhận chuyển nhượng của bà Huỳnh Thị O thửa đất số 122, tờ bản đồ số 59, diện tích 8342,7m2 tọa lạc tại xã E, thành phố B....
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 173/2025/DS-PT
Ngày: 22-4-2025
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng đất;
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hằng
Các Thẩm phán: Ông Võ Thanh Hà
Ông Bùi Quốc Hà
- Thư phiên tòa: Ông Vũ Văn Hoàng - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Ông Nguyễn Chí Hiếu-
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 22 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ số: 83/2025/TLPT-DS ngày
20 tháng 01 năm 2025 về việc Tranh chấp quyền sử dụng đất; công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 283/2024/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 133/2025/QĐXX-PT ngày
07 tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
-Nguyên đơn
1.Ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1978; Địa chỉ: Tổ dân phố F, phường T,
Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
Đại diện theo y quyền: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1966; Địa chỉ: G T,
phường T, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
2
2. Ông Quách H1, sinh năm: 1976; địa chỉ: Cụm F, thôn A, H, thành phố
B, tỉnh Đắk Lắk ( Đồng thời là người liên quan có yêu cầu độc lập), có mặt.
- Bị đơn:
1. Ông Quách L, sinh năm: 1954; Địa chỉ: 138/1/19 N, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Quách L: Ông Trọng T1; Địa chỉ:
8 G, tổ dân phố F, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Quách L: Bà Đặng Phương
L1- Luật sư văn phòng L2- Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk, có mặt
2. Ông Quách M, sinh năm: 1962 và Nguyễn Thị S; Địa chỉ: Thôn C,
E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
3. Dương Thị Thu H2 và ông Đức C; Địa chỉ: D M, phường T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
4. Huỳnh Thị O; Địa chỉ: B A, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk,
vắng mặt.
-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị H3, địa chỉ: 138/1/19 N, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng
mặt.
2. Trần Thị Kim B, địa chỉ: cụm F, thôn A, Nguyễn Lương B1, Thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
3. Văn phòng C1; Địa chỉ: C N, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
4. Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố B; Địa chỉ: C T, Thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
5. Ủy ban nhân dân xã E, thành phố B; Địa chỉ: Thôn A, xã E, Thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
6. Ủy ban nhân dân thành phố B; Đại diện theo ủy quyền: Thị Thanh
V- Phó phòng TNMT thành phố B; Địa chỉ: A L, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk,
vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Nguyễn Thị H4; sinh năm: 1970; Hiện đang chấp hành án tại Đội 1,
phân trại K2, Trại giam Đ, vắng mặt;
2. Bùi Thị Mai H5, sinh năm: 1972; địa chỉ: Thôn C, E, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt .
3. Ông Quách B2, sinh năm: 1959; Địa chỉ: Thôn C, E, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Tại đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa đại diện
nguyên đơn Nguyễn Văn T là ông Nguyễn Văn H trình bày có nội dung:
3
Ngày 25/9/2013 ông Nguyễn Văn T nhận chuyển nhượng của Huỳnh
Thị O thửa đất số 122, tờ bản đồ số 59, diện tích 8342,7m
2
tọa lạc tại xã E, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk và ông T cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, sau đó do bị mất nên ông T đã làm thtục xin cấp lại đã được Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CS 038514 ngày 29/10/2019. Khi ông T làm thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì quan chức năng cũng đã kiểm tra hiện trạng thực tế
không gặp ai đang ở hay canh tác và cũng đã niêm yết công khai theo quy định.
Khi ông T nhận chuyển nhượng Quyền sử dụng đất nêu trên thì O bàn
giao đất cho ông T và nói đang cho người khác canh tác nhờ và trên đất có trồng
cây cà phê, khi đó do chưa có nhu cầu sử dụng nên ông T vẫn để cho ông Quách
L canh tác, ông T cũng đến gặp ông L nhiều lần để đòi lại nhưng ông L cho rằng
nguồn gốc đất là của ông Quách M em trai ông L giao cho ông L sử dụng và ông
M đang thế chấp ngân hàng nên từ từ rồi ông L trả lại đất cho ông T, việc ông T
làm việc với ông L chỉ bằng lời nói, không lập thành văn bản gì, thời gian gần
đây ông T yêu cầu ông L trả lại diện tích đất nêu trên nhưng ông Quách L
không đồng ý nên ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Quách L
trả lại diện tích đất nêu trên cho ông T. Diện tích đất nêu trên ông T mua bằng
tiền của cá nhân, không liên quan đến vợ con ông T.
Việc ông Quách L chuyển nhượng cho ông Quách H1 diện tích đất của ông
T nêu trên là hoàn toàn trái quy định pháp luật nên yêu cầu a án không chấp
nhận yêu cầu độc lập của ông Quách H1.
Đối với tài sản là cây trồng trên đất do ông Quách H1 và ông Quách L trồng
thêm ông T sẽ trả lại theo đúng giá trị cây trồng.
Đối với kết quả thẩm định giá theo chứng thư thẩm định giá ngày
11/01/2023 thì tôi đồng ý và không có ý kiến gì.
2. Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa bđơn ông Quách L trình
bày: Diện tích đất đang tranh chấp nêu trên do nhân tôi khai hoang năm
1990 ( các hộ lân cận làm chứng), các con tôi gồm: Quách H1, sinh năm:
1976; Quách Thị Ngọc H6, sinh năm: 1981; Quách Ngọc H7, sinh năm: 1983;
Quách Nguyên H8, sinh năm: 1985; Quách Nguyên H9, sinh năm: 1988. Khi tôi
khai hoang diện tích đất trên các con tôi đang còn nhỏ, sau này khi lớn lên được
cha mẹ nuôi ăn học rồi đi làm cũng không công sức đóng góp gì. Năm 2001
vợ chồng tôi đã chuyển nhượng diện tích đất nêu trên cho ông Quách H1 đã
nhận đủ tiền nên đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nêu trên giữa vợ chồng tôi và Quách H1.
Do tôi xã H, thành phố B, có các em là ông Quách B2 và ông Quách M
trú E nên cùng nhau đi khai hoang, ông Quách B2 ông Quách M khai
hoang diện tích đất liền kề còn diện tích đất đang tranh chấp một mình tôi
4
khai hoang từ năm 1990, đến 1991 tôi trồng phê. Còn diện tích đất của ông
Quách B2 ông Quách M thì trồng cây ngắn ngày, sau này ông B2 ông M
đã chuyển nhượng cho ai hay còn canh tác thì tôi không biết. Tôi cũng không có
giấy tờ chứng minh nguồn gốc đất chỉ những hộ dân liền kề biết việc tôi
khai hoang canh tác diện tích đất nêu trên gồm: Ông Quách B2, ông Quách
M, bà Bùi Thị Mai H5, bà Tô Thị T4.
Gia đình tôi sống về nông nghiệp nên đất đai về nông nghiệp rất giá trị
với gia đình nên tôi không muốn sang nhượng cho người ngoài
Năm 2022 ông T đến yêu cầu hòa giải ở xã và yêu cầu tôi bàn giao đất thì tôi
mới biết còn từ trước đến nay không ai tranh chấp gì. Do đó tôi không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông T
3. Nguyên đơn đồng thời là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập ông Quách H1 trình bày: Về nguồn gốc diện tích đất nêu trên là do
bố tôi ông Quách L em trai ông Quách B2 ông Quách M khai hoang từ
năm 1990 tổng diện tích khoảng gần 03ha, sau đó chia nhau mỗi người khoảng
01ha để sử dụng, diện tích đất đang tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bố
tôi, và bố tôi sử dụng trồng phê, năm 2001 bố tôi chuyển nhượng lại cho tôi,
khi bố tôi chuyển nhượng cho tôi chỉ giấy viết tay, bố tôi chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sdụng đất, sau khi nhận chuyển nhượng của bố tôi do
cây trồng già cỗi không còn năng suất nên tôi đã trồng lại cây mới nên toàn bộ
tài sản trên đất thuộc quyền sở hữu của tôi. Tài sản trên là của nhân tôi, vợ
con tôi không liên quan gì.
Quá trình tôi sử dụng tnăm 2001 do nhận chuyển nhượng của bố là ông L
thì không có ai đến bàn giao đất, mua bán hay tranh giành quyền sử dụng đất với
tôi. Nguồn gốc đất rõ ràng. Nếu ông T cho rằng nguồn gốc đất ông nhận chuyển
nhượng ttại sao từ năm 2013 nhưng đến năm 2022 mới kiện đòi đất bố tôi.
Ngoài ra, năm 2016 nhận được thông báo của thôn về việc đóng tiền làm đường
mở rộng nông thôn mới. tôi đi công tác xa nên tôi ủy quyền cho bố tôi
đóng tiền tại ban tự quản thôn, tiền này là tiền của tôi nhờ ông Quách L đi đóng
hộ.
Tại Biên bản hòa giải do Ủy ban nhân dân E, thành phố B lập ngày
22/6/2023, ông Quách M trình bày diện tích đất hơn 8000m
2
của tôi nhận
chuyển nhượng của ông Quách L do cấp nhầm chưa từng hợp đồng
chuyển nhượng cho ai. Các Hợp đồng chuyển nhượng từ Hộ ông Quách M sang
ông Đức C, Dương Thị Thu H2; từ ông Đức C, Dương Thị Thu H2
sang bà Huỳnh Thị O; từ bà O sang ông Nguyễn Văn T các bên không thực hiện
nghĩa vụ bàn giao đất ngoài thực địa dẫn đến quyền lợi của người trực tiếp sử
dụng đất là tôi bị ảnh hưởng.
5
Nay ông T kiện btôi đòi lại diện tích đất trên không sở trong
quá trình tôi sử dụng đất không ai tranh chấp, không nhân, tổ chức nào
yêu cầu gia đình tôi giấy tờ giáp ranh gì cả nên tôi yêu cầu Tòa án không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, Yêu cầu công nhận giao dịch chuyển
nhượng diện tích đất trên của bố tôi cho tôi ngày 21/01/2001; Đồng thời yêu cầu
hủy các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hủy bỏ giá trị pháp
của các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cụ thể:
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/11/2009 giữa vợ
chồng ông Quách M, Nguyễn Thị S vợ chồng ông Đức C, Dương
Thị Thu H2; Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/12/2009
giữa vchồng ông Đức C, Dương Thị Thu H2 Huỳnh Thị O; Hủy
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 06/9/2013 giữa bà Huỳnh Thị
O và ông Nguyễn Văn T; Tôi không yêu cầu giải quyết hậu quả của việc hủy các
hợp đồng nêu trên.
- Hủy giá trị pháp lý của một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H
116735 do Ủy ban nhân dân thành phố B cấp ngày 23/11/1995 cho Hộ Quách M
(Phần cấp đối với c thửa đất số 514, 515, 529, 530 tờ bản đồ 19); Hủy giá trị
pháp lý của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 675400 do Ủy ban nhân
dân thành phố B cấp ngày 31/10/2008 cho Hộ ông Quách M; Hủy giá trị pháp lý
của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sAN 675400 do Ủy ban nhân dân
thành phố B cấp ngày 31/10/2008 được Văn phòng đăng đất đai thành phố B
(Nay Chi nhánh văn phòng đăng đất đai thành phố B) chỉnh biến động
sang tên ông Lê Đức C, Dương Thị Thu H2 ngày 3/12/2009; Hủy giá trị pháp
của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sAN 675400 do Ủy ban nhân dân
thành phố B cấp ngày 31/10/2008 được Văn phòng đăng đất đai thành phố B
(Nay Chi nhánh văn phòng đăng đất đai thành phố B) chỉnh biến động
sang Huỳnh Thị O ngày 28/12/2009; Hủy giá trị pháp của Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AN 675400 do Ủy ban nhân dân thành phố B cấp
ngày 31/10/2008 được Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B (Nay là Chi
nhánh văn phòng đăng đất đai thành phố B) chỉnh biến động sang ông
Nguyễn Văn T ngày 25/9/2013; Hủy giá trị pháp của Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CS 038514 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp
ngày 29/10/2019 cấp cho ông Nguyễn Văn Thanh.
Đối với chứng thư thẩm định giá ngày 11/01/2023 thì tôi đồng ý và không
ý kiến gì.
Tôi không yêu cầu giám định và không yêu cầu giải quyết hậu quả của việc
hủy giá trị pháp lý của các Giấy chứng nhận QSDĐ.
4. Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa bị đơn ông Quách M trình
bày: Tôi ông Quách L anh em ruột, còn tôi những đương sự khác trong
6
vụ án không quan hệ gì cả, tôi không biết Nguyễn Thị H4 vợ chồng bà
H2, ông C là ai.
Trước đây tôi là thành viên hợp tác xã C2, xã E, thành phố B. Năm 1995 nhà
nước có kế hoạch cấp đất tập trung nên ông Hà Công T5 trước đây là chủ nhiệm
hợp tác đưa đơn đăng cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất đề
ngày 05/4/1995 cho tôi để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
vì tôi có nhiều đất khai hoang trong xã E nên không biết diện tích đất trong đơn
kê khai lô nào nên tôi có ký vào đơn, sau đó tôi được UBND thành phố B cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H116735 đề ngày 23/11/1995, sau đó tôi
phát hiện ra toàn bộ diện ch đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu
trên không phải đất của tôi nên tôi đã làm đơn xin điều chỉnh lại quyền sử dụng
đất đề ngày 20/9/2007 nộp lại bản gốc GCNQSDĐ nêu trên cho Tài nguyên
môi trường, sau đó tôi không biết cơ quan chức năng cấp lại đất cho ai tôi không
biết và không liên quan gì nữa. Tôi cũng không biết vì lý do gì mà UBND thành
phố lại cấp lại cho hộ gia đình tôi GCNQSDĐ số AN 675400 ngày 31/10/2008
đối với thửa đất 514; 515; 530; 529; Tờ bản đồ số: 19, tôi không sử dụng diện
tích đất trên cũng không được biết mình được cấp diện tích đất nêu trên,
chữ ký, chữ viết trong đơn xin cấp sổ năm 2008 không phải chữ chữ viết của
tôi ( Thực tế diện tích đất này là của ông Quách L).
Đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng tôi
Quách M Nguyễn Thị S với vchồng ông Đức C, bà ơng Thị Thu H2,
tôi không hề biết vì tại trang 1, 2 của hợp đồng có nội dung việc chuyển nhượng
nhưng không chữ , chữ viết của vợ chồng tôi, tại trang thứ 3 chữ ký,
chữ viết đề tên vợ chồng tôi tại Bên A nhưng tôi không hề biết, ngoài ra con dấu
giáp lai giữa các trang nêu trên không khớp, tôi không biết vợ chồng ông C,
H2 ai, năm 2008 các con tôi đều đã trưởng thành nhưng không hề vào hợp
đồng nêu trên, cũng không giấy y quyền, sổ hộ khẩu vẫn làm thủ tục
sang tên cho vợ chồng ông C, bà H2 là hoàn toàn vi phạm.
Tôi khẳng định vợ chồng tôi không hề cũng không hề chuyển nhượng
diện tích đất nêu trên cho vợ chồng ông C, bà H2, cũng không sử dụng diện tích
đất nêu trên từ trước tới nay.
Đối với yêu cầu khởi kiện của các đương sự trong vụ án tôi đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định pháp luật.
Vợ tôi Nguyễn Thị S không biết và không liên quan nên vợ tôi từ chối
tham gia tố tụng
5. Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa bị đơn bà Dương Thị Thu
H2 tự khai như sau: Tôi vợ ông Đức C trước đây quen biết với bà
Nguyễn Thị H4, chồng tên V1 trước đây trú đường N, H, thành phố B,
7
tỉnh Đắk Lắk, hiện nay H4 đang đi thi hành án phạt còn thi hành đâu tôi
không rõ.
Trước đây tôi cho Nguyễn Thị H4 vay tiền nhiều lần, tổng cộng đến
khi H4 bị xét xử H4 còn nợ tôi 9.800.000.000đ. Trong quá trình vay
mượn tiền H4 làm hồ chuyển nhượng cho vợ chồng tôi một đất
E, để trừ nợ, sau đó do tôi nợ tiền Huỳnh Thị O (Tôi không biết hiện nay bà
O đang tđâu) nên tôi đã làm thủ tục chuyển nhượng cho O diện tích
đất nêu trên để trừ nợ. Thời gian đã lâu tôi cũng không nhớ chính xác, cụ thể
như thế nào vì mọi thủ tục giấy tờ là bà Nguyễn ThH4 trực tiếp liên hệ làm, vợ
chồng tôi chỉ ký hợp đồng chuyển nhượng, sau đó bà O chuyển nhượng diện tích
đất nêu trên cho ai thì tôi không rõ. Việc chuyển nhượng đất trừ nợ đã xong
từ lâu nên tôi không ý kiến, yêu cầu gì. Chồng tôi ông C cũng chỉ tên trên
hợp đồng chuyển nhượng chứ cũng không biết gì vì mọi việc là do tôi cho bà H4
vay tiền, sau đó H4 làm thủ tục chuyển nhượng đất trên cho vợ chồng tôi,
chồng tôi không biết gì.
Quá trình làm hồ chuyển nhượng từ ông Quách M sang cho vợ chồng tôi
vợ chồng tôi chuyển nhượng cho O đều do Nguyễn Thị H4 trực tiếp đi
làm và cầm giấy tờ, vợ chồng tôi không hề giữ giấy tờ gì, còn việc vợ chồng ông
Quách M, bà Nguyễn Thị S H4 quan hệ, nợ nần nhau như thế nào hay
không thì tôi không rõ, còn ông M, bà S không nợ nần gì tôi, còn lý do vì sao vợ
chồng ông Quách M hợp đồng chuyển nhượng diện ch đất nêu trên cho vợ
chồng tôi theo sự sắp xếp của bà H4 thì tôi không biết.
Nay giữa ông Nguyễn Văn T, ông Quách M ông Quách L tranh chấp
nhau diện tích đất nêu trên yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông Quách M Nguyễn Thị S cho vợ chồng tôi Hợp đồng
chuyển nhượng đất giữa vchồng tôi cho Huỳnh Thị O tôi không đồng ý
việc chuyển nhượng diễn ra đã u, tôi đã được quan nhà nước thẩm
quyền công nhận quyền sử dụng vợ chồng tôi đã chuyển nhượng cho
Huỳnh Thị O nên tôi không đồng ý việc khởi kiện yêu cầu hủy các hợp đồng
nêu trên.
Hiện nay vợ chồng tôi không liên quan nữa việc chuyển nhượng đã
hoàn tất từ lâu nên tôi không ý kiến, yêu cầu chỉ đề nghị Tòa án không
chấp nhận yêu cầu hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu
trên, và tôi từ chối tham gia tố tụng.
6. Tại bản tự khai ngày 10/4/2024 người làm chứng Nguyễn ThH4
trình bày: Ông quách M có vay tiền tôi để đầu tư làm rừng, còn ông Quách L tôi
biết gần nhà tôi H, ông M ông L anh em, ông Nguyễn Văn T tôi
không biết, vợ chồng H2 ông C tôi quen làm ăn vay mượn tiền, còn
Huỳnh Thị O tôi không biết.
8
Việc chuyển nhượng các thửa đất số 514, 515, 530, 529, 394, 395, 396, 409,
406 tờ bản đồ số 19, 21 giữa vợ chồng ông Quách M và bà Nguyễn Thị S với vợ
chồng ông C H2 ông M mượn tiền tôi, còn tôi nợ tiền chị H2. Nên ông
M đã đồng ý chuyển nhượng cho H2 để trừ hết số nợ ông M vay của tôi. Sau
đó vợ chồng ông C H2 chuyển nhượng các đất 514, 515, 530, 529 tờ bản
đồ số 19 cho bà Huỳnh Thị O chuyện này tôi không biết ai là người trực tiếp liên
hệ với quan chức năng để lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Vì tôi không quen không biết bà O và cũng không biết việc chuyển nhượng này.
Không việc tôi làm thủ tục chuyển nhượng các thửa đất nêu trên cho vợ
chồng bà H2 ông C. Còn việc chuyển nhượng đất từ ông M cho H2 để trừ nợ
lúc đó tôi đã cấn trừ cho ông M để ông M hết nợ. Mọi giấy tờ đã xong
nên tôi không còn giữ giấy ông M nợ tiền của tôi.
Tôi không ý kiến về việc ông H1 khởi kiện yêu cầu hủy các hợp đồng
vì tôi cũng không biết ông H1 là ai, còn ông M đã đồng ý trả nợ, từ 2009 sao bây
giờ lại có việc kiện này. Nên tôi từ chối không tham gia xét xử vụ này.
Vậy tôi xin cam đoan những lời khai trên đúng sự thật tôi viết những lời
khai này là sức khỏe tôi rất tốt, tinh thần tỉnh táo, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước lời khai trên
7. Tại bản tự khai ngày 06/9/2023 đại diện Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai thành phố B trình bày:
1. UBND thành phố cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 675400,
ngày 31/10/2008 tại thửa đất số 514, 515, 529, 530; tờ bản đồ 19, diện tích
8.220m
2
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất s AN 6755001, ngày
31/10/2008 tại thửa đất số 394, 395, 396, 406A, 409; tờ bản đồ số 21, diện tích
7.675m
2
, mục đích sử dụng: đất trồng cây hàng năm cho hộ ông Quách M
đúng quy định.
2. Quá trình thực hiện chuyển quyền sử dụng đất của hộ ông Quách M:
Ngày 23/11/2009, ông Quách M Nguyễn Thị S chuyển nhượng các
thửa đất nêu trên cho ông Đức C. Ngày 03/12/2009, Văn phòng đăng
quyền sử dụng đất thành phố B xác nhận chỉnh lý biến động chủ sử dụng đất cho
ông Lê Đức C và bà Dương Thị Thu H2.
Ngày 17/12/2009, ông Đức C Dương Thị Thu H2 chuyển nhượng
các thửa đất nêu trên cho Huỳnh Thị O. Ngày 28/12/2009, Văn phòng đăng
quyền sử dụng đất thành phố B xác nhận chỉnh biến động chủ sử dụng đất
cho bà Huỳnh Thị O.
Ngày 06/9/2013, Huỳnh Thị O chuyển nhượng các thửa đất nêu trên cho
ông Nguyễn Văn T. Ngày 29/9/2013, Văn phòng đăng quyền sử dụng đất
thành phố B xác nhận chỉnh biến động chủ sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn
T.
9
Ngày 30/8/2019 ông Nguyễn Văn T nộp hồ cấp lại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 122 (cũ 514, 515, 529, 530), tờ bản đồ số
59 (cũ 19), diện tích 8342.7m
2
(cũ 8220m
2
), mục đích sử dụng: Đất trồng cây
hàng năm, địa chỉ: E, thành phố B. do: Mất Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cấp lại do diện tích tăng. Ngày 29/10/2019 Sở Tài nguyên môi
trường ban hành Quyết định số 287/QĐ-STNMT về việc hủy bỏ giá trị pháp
của Giấy chứng nhận quyền s dụng đất nêu trên, ngày 29/10/2019 Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CS 038514 thửa đất số 122 (cũ 514, 515, 529, 530), tờ bản đồ s59 (cũ 19),
diện tích 8342.7m
2
(cũ 8220m
2
), mục đích sử dụng: Đất trồng cây hàng năm, địa
chỉ: xã E, thành phố B cho ông Nguyễn Văn T.
Như vậy, UBND thành phố B cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất số H
116735, ngày 23/11/1995 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 675400,
ngày 31/10/2008 đúng theo quy định của pháp luật. vậy, đối với nội dung
ông Quách H1 khởi kiện đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H
116735 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 675400 là không cơ sở
giải quyết. Đề nghị Tòa án xem xét các tài liệu, chứng cứ để giải quyết ván
theo quy định.
Tại Bản án dân sự thẩm số 283/2024/DSST ngày 26/9/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột quyết định:
[1] Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 1 Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điều 266, Điều 271, Điều
273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ vào Điều 122, Điều 124, Điều 688, Điều 689, Điều 691, Điều 697;
Điều 698; Điều 701, Điều 702 Bộ luật Dân sự năm 2005
Căn cứ: Điều 95, Điều 166, Điều 167, Điều 169, Điều 170, Điều 179, Điều
188 Luật Đất đai năm 2013
Căn cứ: Điểm đ khoản 1 Điều 12, Khoản 1 Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí tòa
án.
[2] Tuyên xử:
[2.1].Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T.
Buộc ông Quách L và ông Quách H1 có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn T
thửa đất số 122, tờ bản đồ số 59, diện tích 8342,7m
2
tọa lạc tại xã E, thành phố
B, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 038514 ngày
29/10/2019.
10
Ông Nguyễn Văn T nghĩa vụ thanh toán cho ông Quách H1 trị giá cây
trồng trên đất theo chứng thư thẩm định giá số: 008BĐS/2023/CTTĐG-THBM
ngày 11/01/2023 của Công ty cổ phần thẩm định giá Trung Hải Ban
88.473.000đ ( Tám mươi tám triệu, bốn trăm bảy mươi ba ngàn đồng)
[2.2] Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của ông Quách H1 V/v
Yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Quách
L ông Quách H1 không chấp nhận yêu cầu công nhận quyền sdụng đất
cho ông Quách H1 đối với thửa đất số 514, 515, 530, 529 ( hiện nay là thửa 122)
Tờ bản đồ số 59 ( cũ là 19) tại xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
[2.3] Không chấp yêu cầu khởi kiện của ông Quách H1 V/v Tuyên hủy các
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm:
1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Quách
M, Nguyễn Thị S vchồng ông Đức C, Dương Thị Thu H2 đối với
các thửa đất s514, 515, 530, 529, 394, 395, 396, 409, 406A; tờ bản đồ số 19,
21, địa chỉ thửa đất: Thôn C, xã E, thành phố B được chứng thực tại UBND xã E
ngày 23/11/2009;
2. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Đức
C, Dương Thị Thu H2 với Huỳnh Thị O đối với các thửa đất số 514, 515,
530, 529 ; tờ bản đồ số 19 địa chỉ thửa đất: Thôn C, E, thành phố B được
chứng thực tại Văn phòng công chứng T tỉnh Đắk Lắk ngày 17/12/2009;
3. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Huỳnh Thị O với
ông Nguyễn Văn T đối với các thửa đất số 514, 515, 530, 529; tờ bản đồ số 19
địa chỉ thửa đất: Thôn C, xã E, thành phố B được chứng thực tại Văn phòng
công chứng T tỉnh Đắk Lắk ngày 06/9/2013;
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng
cáo, quyền thi hành án cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 08/10/2024, ngày 09/10/2024 ngày 11/10/2024 ông Quách L, ông
Quách M, ông Quách H1 đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm đề nghị Tòa
án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử theo hướng bác toàn byêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của ông Quách L, ông
Quách M, ông Quách H1 thay đổi nội dung kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk xét xử theo hướng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Đặng Phương L1 người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông
Quách L trình bày:
Đất tranh chấp nguồn gốc của ông Quách L khai hoang từ năm 1990,
đến năm 2001 ông L chuyển nhượng toàn bộ đất cây trồng trên đất cho ông
Quách H1, ông Quách M cũng xác định đất do ông L khai hoang, ông M
11
không trực tiếp sử dụng đất, Nhà nước cấp đất cho ông M do sự nhầm lẫn.
Ông L, ông H1 là người sử dụng đất ổn định liên tục, công khai từ năm 1990
đến nay đã hơn 30 m. Quá trình sử dụng đất của ông L, ông H1 xác nhận
của những người sử dụng đất liền kề như bà Bùi Thị Mai H5, bà Tô Thị T4, ông
Quách B2. Tòa án cấp thẩm chỉ dựa vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cấp cho ông T để tuyên buộc ông L, ông H1 trả lại đất cho ông T là không đúng.
Nguyên đơn cũng không xác định được ranh giới, vị trí tứ cận của đất, bà H2
khai chuyển nhượng đất từ ông M là do sự sắp xếp của bà H5, bà H5 khai không
phải người trực tiếp làm thtục chuyển nhượng, lời khai mâu thuẫn nhưng
chưa được làm rõ. Các hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Quách M với ông
Đức C Dương Thị Thu H2, Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Đức C
Dương Thị Thu H2 với Huỳnh Thị O, Hợp đồng chuyển nhượng giữa
Huỳnh Thị O với ông Nguyễn Văn T các bên tham gia giao dịch không thực
hiện nghĩa vụ bàn giao đất ngoài thực địa, mua bán trên giấy tờ, các bên mua
bán chuyển nhượng đất không đúng quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết
vụ án ông M cho rằng dấu giáp lai giữa các trang 1,2 trang 3,4 sự chênh
lệch, không khớp, các trang 1,2 không có chữ ký nháy của các bên tham gia giao
dịch nên yêu cầu giám định khuôn dấu sự cắt ghép không, sự giả mạo
không, ông M đã đóng tiền giám định nhưng không tiến hành giám định. Ông
H1 yêu cầu hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Quách M với ông Đức C Dương Thị Thu H2, Hợp đồng chuyển nhượng
giữa ông Đức C Dương Thị Thu H2 với Huỳnh Thị O, Hợp đồng
chuyển nhượng giữa Huỳnh Thị O với ông Nguyễn Văn T hủy các giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông M, bà H2, ông C, bà O, ông T nhưng
cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết. Do cấp sơ thẩm có nhiều vi phạm tố tụng
nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hủy bản án sơ thẩm. Giao hồ sơ cho cấp sơ
thẩm giải quyết lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk cho rằng:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư ký, các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự.
Về nội dung: Qua phân tích đánh giá, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội
đồng xét xử:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chấp
nhận kháng cáo của ông Quách L, ông Quách M, ông Quách H1. Hủy toàn bộ
Bản án dân sự thẩm số 283/2024/DSST ngày 26/9/2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Giao hồ vụ án cho Tòa án cấp
thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
12
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa,
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu
chứng cứ, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng
xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Quách L, ông Quách M,
ông Quách H1 làm trong hạn luật định, ông L, ông M người cao tuổi được
miễn nộp tạm ứng án phí, ông H1 đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên được
giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Quách L, ông Quách M, ông
Quách H1 đề nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Nguồn gốc đất tranh chấp là thửa đất số 122, tờ bản đồ 59, diện tích
8342,7m
2
nguyên đơn ông T cho rằng: Ông chuyển nhượng lại của Huỳnh
Thị O, diện tích đất trước đó bà O chuyển nhượng lại của bà Dương Thị Thu H2
Dương Thị Thu H2 chuyển nhượng từ ông Quách M và Nguyễn Thị S.
Quá trình giải quyết vụ án bà Dương Thị Thu H2 cho rằng bà có cho bà Nguyễn
Thị H4 vay tiền nhiều lần tổng cộng H4 còn nợ số tiền 9.800.000.000
đồng. Sau đó H4 làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất
trên cho H2 để cấn trừ nợ, do sao vchồng ông Quách M hợp đồng
chuyển nhượng đất cho vợ chồng H2 theo sự sắp xếp của H4 thì H2
không biết. Sau đó do H2 nợ tiền O nên H2 chuyển nhượng quyền sử
dụng đất trên cho bà O để cấn trừ nợ, sau đó bà O chuyển nhượng lại cho ông T.
Ông Quách L cho rằng: Diện tích đất tranh chấp do ông khai hoang từ năm 1990
sử dụng ổn định không tranh chấp, đến năm 2001 thì ông chuyển nhượng
diện tích đất trên cho ông Quách H1 ông H1 canh tác sử dụng đất từ khi chuyển
nhượng đến nay. Ông Quách M cho rằng: Trước đây ông thành viên hợp tác
xã C2, xã E, thành phố B. Năm 1995 nhà nước có kế hoạch cấp đất tập trung nên
ông Công T5 trước đây chủ nhiệm hợp tác đưa đơn đăng cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đngày 05/4/1995 cho ông để làm thủ tục
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vì ông có nhiều đất khai hoang trong xã
E nên không biết diện tích đất trong đơn khai nào nên ông vào
đơn, sau đó ông được UBND thành phố B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số H116735 đề ngày 23/11/1995, sau đó ông phát hiện ra toàn bộ diện tích
đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên không phải đất của ông
nên ông đã làm đơn xin điều chỉnh lại quyền sử dụng đất đề ngày 20/9/2007
nộp lại bản gốc GCNQSDĐ nêu trên cho phòng tài nguyên môi trường ông
không biết quan chức năng cấp lại đất cho ai, ông không còn liên quan
nữa, ông cũng không biết do UBND thành phố lại cấp lại cho hộ gia
đình ông GCNQSDĐ số AN 675400 ngày 31/10/2008 đối với thửa đất 514; 515;
13
530; 529; Tờ bản đồ số: 19, ông không sử dụng diện tích đất trên và cũng không
được biết là mình được cấp diện tích đất nêu trên, chữ ký, chữ viết trong đơn xin
cấp sổ năm 2008 không phải chữ chữ viết của ông. Thực tế diện ch đất này
của ông Quách L. Đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
vợ chồng ông là Quách M Nguyễn Thị S với vợ chồng ông Đức C,
Dương Thị Thu H2, ông không hề biết tại trang 1, 2 của hợp đồng nội
dung việc chuyển nhượng nhưng không chữ ký, chữ viết của vợ chồng ông,
tại trang thứ 3 chữ , chữ viết đề tên vợ chồng ông tại Bên A nhưng ông
không hề biết, ngoài ra con dấu giáp lai giữa các trang nêu trên không khớp, ông
không biết vợ chồng ông C, bà H2 là ai. Ông khẳng định vợ chồng ông không hề
cũng không hchuyển nhượng diện tích đất nêu trên cho vợ chồng ông C, bà
H2, cũng không s dụng diện tích đất nêu trên từ trước tới nay. Người làm
chứng Nguyễn Thị H4 cho rằng: Việc chuyển nhượng các thửa đất số 514,
515, 530, 529, 394, 395, 396, 409, 406 tờ bản đồ số 19, 21 giữa vợ chồng ông
Quách M và Nguyễn Thị S với vợ chồng ông C H2 là vì ông M nợ tiền
H4, còn bà H4 nợ tiền bà H2 nên ông M đã đồng ý chuyển nhượng cho bà H2 để
trừ hết số nợ ông M vay của H4. Sau đó vợ chồng ông C H2 chuyển
nhượng các đất 514, 515, 530, 529, tờ bản đồ số 19 cho Huỳnh Thị O như
thế nào H4 không biết. Như vậy, về nguồn gốc đất các đương sự khai còn
mâu thuẫn, H4 xác định ông M ntiền bà H4, H4 nợ tiền H2 nên ông
M làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho H2 để cấn trừ nợ,
tuy nhiên ông M không thừa nhận nợ tiền H4 không hợp đồng
chuyển nhượng đất cho H2, ông C ông M xác định không diện tích đất
nêu trên nhưng cấp thẩm chưa đối chất làm rõ, chưa thu thập tài liệu chứng
cứ để chứng minh về việc vay nợ, về nguồn gốc quyền sử dụng đất tranh chấp,
việc các bên chuyển nhượng đất cho nhau bàn giao đất trên thực tế hay
không đã buộc ông Quách L, Quách H1 trả lại đất cho ông T chưa đủ
sở vững chắc.
H2 xác định: Hợp đồng chuyển nhượng đất t ông M, S chuyển
nhượng cho ông C, H2 để cấn trừ nợ do H4 trực tiếp đi làm theo sự sắp
xếp của bà H4, bà H2 không biết. Như vậy, không có việc bàn giao đất trên thực
tế giữa ông M và bà H2. Quá trình giải quyết vụ án ông M cho rằng dấu giáp lai
giữa các trang 1,2 trang 3,4 sự chênh lệch, không khớp, các trang 1,2
không chữ nháy của các bên tham gia giao dịch nên yêu cầu giám định
khuôn dấu sự cắt ghép không, sự giả mạo không, ông M đã đóng tiền
trưng cầu giám định nhưng cấp sơ thẩm không tiến hành trưng cầu giám định để
làm rõ tính xác thực của giao dịch, xác định tính hợp pháp của hợp đồng chuyển
nhượng vi phạm quy định tại Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự làm ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
14
Bà H2 xác định ông Quách M ký hợp đồng chuyển nhượng đất cho vợ chồng
H2 theo sự sắp xếp của H4, ông M xác định ông S không hợp
đồng chuyển nhượng đất cho H2, ông C nhưng Tòa án cấp thẩm cũng
chưa tiến hành làm việc với ông Phan Văn T7, Phó chủ tịch ủy ban nhân dân
E người đã công chứng hợp đồng chuyển nhượng nói trên để làm các
nội dung liên quan đến việc ông M, bà S cho rằng chữ trong hợp đồng không
phải của họ.
Đối với đơn khởi kiện yêu cầu độc lập của ông Quách H1 yêu cầu xem xét
hủy các hợp đồng chuyển nhượng cụ thể: Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 23/11/2009 giữa vợ chồng ông Quách M, bà Nguyễn Thị S
vợ chồng ông Đức C, Dương Thị Thu H2; Hủy Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 17/12/2009 giữa vợ chồng ông Lê Đức C, bà Dương Thị
Thu H2 Huỳnh Thị O; Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 06/9/2013 giữa bà Huỳnh Thị O và ông Nguyễn Văn T; Hủy giá trị pháp lý
của một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 116735 do Ủy ban nhân
dân thành phố B cấp ngày 23/11/1995 cho Hộ Quách M (Phần cấp đối với các
thửa đất số 514, 515, 529, 530, tờ bản đồ 19); Hủy giá trị pháp của Giấy
chứng nhận quyền sdụng đất số AN 675400 do Ủy ban nhân dân thành phố B
cấp ngày 31/10/2008 cho Hộ ông Quách M; Hủy giá trị pháp của Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AN 675400 do Ủy ban nhân dân thành phố B cấp
ngày 31/10/2008 được Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B (Nay là Chi
nhánh văn phòng đăng đất đai thành phố B) chỉnh biến động sang tên ông
Đức C, Dương Thị Thu H2 ngày 3/12/2009; Hủy giá trị pháp của Giấy
chứng nhận quyền sdụng đất số AN 675400 do Ủy ban nhân dân thành phố B
cấp ngày 31/10/2008 được Văn phòng đăng đất đai thành phố B (Nay Chi
nhánh văn phòng đăng đất đai thành phố B) chỉnh biến động sang
Huỳnh Thị O ngày 28/12/2009; Hủy giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số AN 675400 do Ủy ban nhân dân thành phố B cấp ngày
31/10/2008 được Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B (Nay là Chi nhánh văn
phòng đăng ký đất đai thành phố B) chỉnh lý biến động sang ông Nguyễn Văn T
ngày 25/9/2013; Hủy giá trị pháp của Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số
CS 038514 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 29/10/2009
cấp cho ông Nguyễn Văn Thanh. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm chưa xem xét đánh giá
tính hợp pháp của các hợp đồng chuyển nhượng chưa xem xét đối với yêu
cầu hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa giải quyết hết các yêu
cầu của đương sự.
Do cấp thẩm nhiều vi phạm tố tụng như chưa thu thập chứng cứ đầy
đủ để xác minh về nguồn gốc đất, đánh giá chứng cứ chưa khách quan toàn diện,
15
giải quyết chưa hết yêu cầu của đương sự. Những vi phạm này cấp phúc thẩm
không thể khắc phục được, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của
đương sự nên cần hủy bản án thẩm, giao hồ vụ án cho cấp thẩm giải
quyết lại theo thủ tục chung.
[3].Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên ông Quách L, ông Quách
M, ông Quách H1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Chấp nhận kháng cáo của ông Quách L, ông Quách M, ông Quách H1. Hủy
toàn bộ Bản án dân sự thẩm số 283/2024/DSST ngày 26/9/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án
cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
[2] Về án phí dân sự thẩm chi phí tố tụng: Sẽ được xác định khi vụ án
được giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Quách L, ông Quách M, ông Quách
H1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Hoàn trả cho ông Quách H1 số tiền 300.000 đồng tạm ứng án pdân sự
phúc thẩm ông H1 đã nộp theo biên lai thu s AA/2023/0013851 ngày
18/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Ông Quách L, ông Quách M thuộc trường hợp được miễn nộp tạm ứng án
phí phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Đắk Lắk; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- TAND Thành phố Buôn Ma Thuột; (Đã ký)
- Chi cục THADS Thành phố B;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Thị Hằng
Tải về
Bản án số 173/2025/DS-PT Bản án số 173/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 173/2025/DS-PT Bản án số 173/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất