Bản án số 169/2025/DS-PT ngày 25/04/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 169/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 169/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 169/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 169/2025/DS-PT ngày 25/04/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 169/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Hồ Xuân K; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 76/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 169/2025/DS-PT
Ngày: 25/4/2025
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu
cầu thực hiện nghĩa vụ và huỷ Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: ông Trần Đức Kiên
Các thẩm phán: ông Phạm Tồn
ông Nguyễn Tiến Dũng
- Thư ký phiên tòa: ông Trương Quốc Lập, Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia
phiên tòa: ông Trần Viết Tuấn, Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 4 năm 2025, tại Trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 21/2025/TLPT-
DS ngày 20 tháng 01 năm 2025 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 76/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1028/2025/QĐPT-DS
ngày 08 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: ông Hồ Xuân D, sinh năm 1959
Địa chỉ: thôn P, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: ông Hồ Xuân M; địa chỉ:
thôn P, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; có mặt.
- Bị đơn: ông Hồ Xuân K, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm
1971.
Địa chỉ: thôn P, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; ông K có mặt, bà L vắng mặt.
2
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn: ông Nguyễn Văn H - Luật
sư thuộc Công ty L1 - Đoàn Luật sư Thành phố H; địa chỉ: C Đồng Nai, phường
B, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trương Thị Kim T, sinh năm 1961
2. Ông Hồ Đức D1, sinh năm 1985
3. Ông Hồ Thế D2, sinh năm 1994
Cùng địa chỉ: thôn P, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; ông D1, ông D2 có mặt;
bà T vắng mặt.
4. Bà Hồ Thị H1, sinh năm 1991; địa chỉ: tổ C, khu phố P, phường T, thành
phố Đ, tỉnh Bình Phước; vắng mặt.
5. UBND xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên
Đại diện theo pháp luật: ông Đinh Ngọc S - Chức vụ: Chủ tịch; vắng mặt và
có đơn xin xử vắng mặt.
6. UBND huyện T, tỉnh Phú Yên
Đại diện theo uỷ quyền: ông Mai N - Chức vụ: Phó Chủ tịch; vắng mặt và có
đơn xin xử vắng mặt.
Người kháng cáo: bị đơn ông Hồ Xuân K.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các lời khai có tại hồ sơ, nguyên đơn ông Hồ Xuân D
trình bày:
Nguồn gốc diện tích đất đang tranh chấp là của cha mẹ ông là ông Hồ Công
H2 (đã chết) và bà Lương Thị T1 để lại. Năm 1993, ông Hồ Xuân K xây dựng
nhà ở trên diện tích đất mà cha mẹ đã chỉ, không nói rõ là diện tích bao nhiêu.
Khi Nhà nước thực hiện việc cân đối đất theo Nghị định 64/CP thì hộ gia
đình ông được Nhà nước cân đối giao đất cho 03 khẩu gồm: Hồ Xuân D, Hồ Đức
D1 và Hồ Thế A (đã chết lúc nhỏ). Trong các thửa đất được cân đối cho hộ của
ông có thửa đất số 150 (3), tờ bản đồ 35-B, diện tích 200m2 (đo đạc thực tế là
203,06m2), loại đất HNK tại thôn P Ngoài, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên, được
UBND huyện T cấp GCNQSDĐ số BX239683 ngày 25/9/2014 cho hộ của ông.
Trên đất có một chuồng heo, chiều rộng 5,3m x chiều dài 26m, một phần diện tích
căn nhà bếp do vợ chồng ông K xây dựng và hàng rào lưới B40. Về số liệu, kết
quả đo đạc đất, công trình tài sản trên đất và kết quả định giá tài sản, ông thống
nhất không có yêu cầu gì. Đối với diện tích đất tăng thêm 3,06m2, ông D không
có ý kiến gì vì đây là sai số trong quá trình đo đạc. Ông D nhiều lần đòi lại đất,
vợ chồng ông K, bà L không chịu trả nên ông D khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết: buộc vợ chồng bị đơn phải có trách nhiệm tháo dỡ chuồng trại, nhà bếp và
các tài sản trên đất để trả lại diện tích đất lấn chiếm cho ông D. Đối với yêu cầu
3
phản tố của bị đơn, ông D không chấp nhận, vì GCNQSD đất cấp cho hộ của hộ
ông là hợp pháp.
Theo đơn phản tố, các lời khai có tại hồ sơ và tại phiên tòa bị đơn vợ chồng
ông Hồ Xuân K, bà Nguyễn Thị L trình bày:
Nguồn gốc diện tích đất đang tranh chấp và việc ông xây dựng công trình
trên đất như nguyên đơn trình bày là đúng. Khi Nhà nước thực hiện việc cân đối
đất theo Nghị định 64/CP thì hộ gia đình ông được Nhà nước cân đối giao đất cho
04 nhân khẩu gồm: Hồ Xuân K, Nguyễn Thị L, Hồ Thị H1 và Hồ Thế D2.
Theo Bản đồ và Sổ địa chính của xã H thể hiện, khi Nhà nước thực hiện cân
đối đất theo Nghị định 64/CP thì hộ gia đình ông được cân đối diện tích đất tại
thửa số 150, tờ bản đồ số 35, diện tích là 600m2, diện tích trên bao gồm cả phần
diện tích chuồng heo và phần diện tích có một phần ngôi nhà cũ của vợ chồng ông
đã xây dựng từ năm 1993. Ngày 21/5/2004, hộ gia đình ông được Nhà nước cấp
200m2 đất thổ tại thửa số 150, tờ bản đồ 35B. Ngày 20/02/2014, được chỉnh lý lại
là 250m2 đất ONT và 150m2 đất HNK, tổng cộng là 400m2, còn lại phần diện
tích đất 200m2 gia đình ông chưa được cấp sổ đỏ nhưng ông D lợi dụng sự thiếu
hiểu biết, ít học của gia đình ông đã làm sổ đỏ đối với diện tích 200m2 đất nêu
trên và bây giờ khởi kiện yêu cầu gia đình ông phải tháo dỡ chuồng trại, một phần
nhà để trả lại đất. Vợ chồng ông đã xây dựng nhà, chuồng trại ở trên phần diện
tích đất trên từ năm 1993 cho đến nay, đây là diện tích đất mà khi Nhà nước cấp
đất theo Nghị định 64/CP cho gia đình ông được hưởng nhưng chưa được cấp sổ
đỏ. Do đó, ông khẳng định sổ đỏ số BX239683 ngày 25/9/2014 cấp cho hộ của
ông D bị trùng lên phần đất Nhà nước đã cân đối cho gia đình ông theo NĐ 64/CP.
Về số liệu, kết quả đo đạc đất, công trình tài sản trên đất và kết quả định giá tài
sản, ông thống nhất không có yêu cầu gì. Đối với diện tích đất tổng thể là
617,42m2 (tăng thêm 17,42m2 theo như kết quả đo đạc) ông không có ý kiến gì
vì đây là sai số cho phép trong quá trình đo đạc. Do đó, vợ chồng ông K, bà L
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông D. Bị đơn có yêu cầu phản tố: hủy
một phần GCNQSDĐ số BX239683 do UBND huyện T cấp ngày 25/9/2014 cho
hộ ông Hồ Xuân D tại thửa số 150 (3), tờ bản đồ số 35-B, tại xã H, huyện T, tỉnh
Phú Yên; công nhận quyền sử dụng đối với phần diện tích đất 200m2 tại thửa 150
(3), tờ bản đồ 35B tại xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên cho bị đơn.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- UBND xã H, huyện T: cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Toà án
và đề nghị HĐXX giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
- UBND huyện T: cung cấp tài liệu, chứng cứ và khẳng định việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nguyên đơn Dâng đối với diện tích đất đang
tranh chấp là đúng đất, đúng đối tượng và đúng quy định pháp luật.
- Bà Trương Thị Kim T trình bày: thống nhất như nội dung và yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
- Các ông bà: Hồ Đức D1, Hồ Thị H1 và Hồ Thế D2 đã được Toà án triệu
tập nhưng không tham gia tố tụng, không có lời khai trình bày ý kiến.
4
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 76/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định: căn cứ vào các Điều 100, 101 của
Luật đất đai, Điều 26, 37, 147, 157, 165, 227, 228 của BLTTDS năm 2015, Điều
274, 275, 281 BLDS năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Xuân D;
1. Buộc bị đơn, vợ chồng ông Hồ Xuân K, bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ tháo
dỡ toàn bộ tài sản gồm: Một phần nhà bếp, chuồng trại chăn nuôi, chái nhà, hàng
rào lưới sắt B40, nền giếng nước… (có bản vẽ kèm theo) đang tồn tại trên diện
tích đất 203,06m2 tại thửa đất 150 (3), tờ bản đồ 35B tại thôn P Ngoài, xã H,
huyện T, tỉnh Phú Yên, được UBND huyện T cấp GCNQSDĐ số BX239683 ngày
25/9/2014 cho hộ nguyên đơn ông Hồ Xuân D gắn liền giới cận: Đông giáp đất
công ích do UBND xã quản lý; Tây giáp đường bê tông; Bắc giáp đất Hồ Mạnh
N1 và Nam giáp đất bị đơn Hồ Xuân K để trả lại đất cho nguyên đơn Hồ Xuân D.
Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về việc hỗ trợ tháo dỡ, di dời các tài
sản nêu trên cho bị đơn tổng số tiền 17.775.000đ (mười bảy triệu bảy trăm bảy
mươi lăm nghìn đồng).
2. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn ông Hồ Xuân K về
việc: huỷ một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX239683 ngày
25/9/2014 do UBND huyện T cấp cho hộ nguyên đơn Hồ Xuân D tại thửa đất số
150 (3), tờ bản đồ 35-B, diện tích 200m2, loại đất HNK (đo đạc thực tế 203,06m2)
tại thôn P, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên để công nhận diện tích đất nêu trên là của
bị đơn.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quy định
về chậm thi hành án và thông báo quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 01/10/2024, bị đơn ông Hồ Xuân K kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu
cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
và chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn không
rút đơn kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án theo quy định.
Kiểm sát viên tại phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều
308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Hồ
Xuân K; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 76/2024/DS-ST ngày 25/9/2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình
bày, tranh luận của các đương sự, của luật sư và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát
tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
5
[1]. Về tố tụng: ngày 01/10/2024, bị đơn ông Hồ Xuân K kháng cáo Bản án
sơ thẩm, Đơn kháng cáo của đương sự là trong thời hạn quy định tại Điều 273 của
Bộ luật Tố tụng dân sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử
phúc thẩm.
[2]. Về nội dung: xét kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử xem xét các vấn
đề liên quan đến việc giải quyết vụ án như sau:
[2.1]. Về nguồn gốc tài sản tranh chấp:
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận nguồn
gốc diện tích đất các bên tranh chấp thuộc thửa đất số 150 (3), tờ bản đồ 35-B,
diện tích 200m2, loại đất HNK (đo đạc thực tế 203,06m2), có giới cận: Đông giáp
đất công ích do UBND xã quản lý, Tây giáp đường bê tông, Bắc giáp đất Hồ Mạnh
N1, Nam giáp đất bị đơn Hồ Xuân K là của cụ Hồ Công H2 (đã chết) và cụ Lương
Thị T2 (là cha mẹ ông D, ông K) để lại tại thôn P Ngoài, xã H, huyện T, tỉnh Phú
Yên. Sau đó ông Hồ Xuân D được Nhà nước cân đối diện tích đất này theo Nghị
định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về việc giao đất nông nghiệp cho
hộ gia đình, cá nhân. Đến ngày 25/9/2014 hộ ông D được UBND huyện T cấp
GCNQSDĐ số BX239683.
Theo các Biên bản hoà giải ngày 14/6/2011 (BL 03) và Biên bản hoà giải
ngày 14/01/2019 (BL 08) các bên đều thừa nhận vào năm 1993, ông K xây dựng
nhà ở và công trình trên thửa đất đang tranh chấp nhưng không xác định diện tích
xây dựng là bao nhiêu; nguyên đơn, bị đơn tranh chấp về quyền sử dụng đất mà
không yêu cầu chia di sản thừa kế theo quy định.
[2.2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn:
Nguyên đơn ông Hồ Xuân D cho rằng diện tích đất 200m2 tại thửa 150(3)
hiện đang tranh chấp đã được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp
cho gia đình ông, do đó, ông khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn ông Hồ Xuân K, bà
Nguyễn Thị L tháo dỡ các tài sản trên đất để trả lại diện tích đất lấn chiếm. Phía
bị đơn phản tố cho rằng diện tích đất nguyên đơn được cấp sổ đỏ bị trùng lên phần
đất đã được Nhà nước cân đối cho gia đình ông theo NĐ 64/CP nên yêu cầu hủy
GCNQSDĐ mang tên hộ ông Hồ Xuân D và công nhận diện tích đất tranh chấp
nói trên thuộc sở hữu hợp pháp của bị đơn.
Tại Biên bản xác minh ngày 23/3/2023 (BL 34) của Toà án nhân dân huyện
Tây Hoà, Công văn số 207/UBND ngày 10/9/2024 (BL 108) của UBND xã H,
Công văn số 1546/CNVPĐKĐĐ ngày 06/9/2024 (BL 131) của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện T và Công văn số 1742/UBND-TNMT ngày
19/9/2024 (BL 147) của UBND huyện T thể hiện nội dung: sau khi được Nhà
nước cân đối theo Nghị định 64/CP đối với thửa đất do cha mẹ để lại thì hộ ông
Hồ Xuân D được cấp diện tích 200m2 (đo đạc thực tế 203,06m2), loại đất HNK,
còn hộ ông Hồ Xuân K được cấp 200m2 đất ở và 200m2 đất QHTC cùng thửa đất
số 704, tờ bản đồ 2B. Đến năm 1996, diện tích ông D được cấp cân đối thành thửa
đất số 150 (3) tờ bản đồ 35B; diện tích ông K được cấp cân đối thành 02 thửa 150
(1) và 150 (2). Năm 2014, thửa đất số 150 (3), tờ bản đồ 35-B, diện tích 200m2
6
(đo đạc thực tế 203,06m2) hiện đang tranh chấp được UBND huyện T (nay là T)
cấp GCNQSDĐ số BX239683 ngày 25/9/2014 cho hộ ông Hồ Xuân D; cùng năm,
hộ ông Hồ Xuân K cũng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa 150(1), còn thửa 150(2) chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ủy ban nhân dân huyện T cũng khẳng định việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho hộ ông Hồ Xuân D và hộ ông Hồ Xuân K là đúng quy định tại
Điều 101 Luật đất đai 2013, Điều 20 Nghị định 43/2024/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ và theo diện tích đất được cân đối theo Nghị định 64/CP.
Mặt khác, bản thân bị đơn ông Hồ Xuân K và bà Nguyễn Thị L đều thừa
nhận tại Biên bản hoà giải ngày 14/01/2019 tại UBND xã H (BL 08) rằng: Diện
tích đất tranh chấp nêu trên là của nguyên đơn D và chấp nhận tháo gỡ công trình
xây dựng lấn chiếm trên đất của nguyên đơn, yêu cầu nguyên đơn hỗ trợ
15.000.000đ để tháo gỡ công trình phụ và trả lại hiện trạng ban đầu đến hết ngày
04/4/2019, nhưng sau đó bị đơn không thực hiện. Bị đơn ông Hồ Xuân K cũng ký
tên tại Biên bản hoà giải ngày 14/6/2011 tại UBND xã H (BL 03) có nội dung:
“… Còn phần đất liền kề anh em đều thống nhất cho vợ chồng ông K tạm thời sử
dụng trong thời hạn 24 tháng, kể từ ngày 14/6/2011. Quá thời hạn trên yêu cầu
ông K phải tháo gỡ công trình xây dựng trên đất đó để trả lại cho cha mẹ. Nếu
ông K không tháo gỡ thì cha mẹ, anh em có quyền tháo gỡ, ông không khiếu nại
gì.”. Cả nguyên đơn ông D và bị đơn ông K đều thống nhất xác nhận: “… Lô đất
200m2, tờ bản đồ 35B, số thửa 150(3) giáp ranh với đất của ông Hồ Xuân K. Nay
chúng tôi đồng ý ranh giới như đã thoả thuận cắm mốc như hiện nay. Vậy chúng
tôi làm giấy này để làm chứng từ cho ông D được quyền tách thửa cho con cháu
theo pháp luật” (Giấy xác nhận ranh giới ngày 06/9/2018 (BL 02).
Như vậy, diện tích 200m2 (đo đạc thực tế 203,06m2) thuộc thửa đất số 150
(3), tờ bản đồ 35-B được UBND huyện T (nay là T) cấp cho hộ ông Hồ Xuân D
theo GCNQSDĐ số BX239683 ngày 25/9/2014 là đúng quy định của pháp luật,
phù hợp với quá trình cân đối, quản lý, sử dụng thửa đất mà các bên đang tranh
chấp. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn ông Hồ Xuân K về việc huỷ
một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX239683 ngày 25/9/2014 cấp
cho hộ nguyên đơn Hồ Xuân D và yêu cầu công nhận diện tích đất nêu trên là của
bị đơn là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án và các
tài liệu, chứng cứ đã viện dẫn như trên. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo của bị đơn ông Hồ Xuân K, giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị
của Kiểm sát viên tại phiên toà.
[3]. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng, án phí
dân sự sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.
[4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên
bị đơn ông Hồ Xuân K phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
7
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Hồ Xuân K; giữ nguyên Bản án
dân sự sơ thẩm số 76/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Yên.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: căn cứ khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng
dân sự; áp dụng khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị đơn ông Hồ Xuân K phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân
sự phúc thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm
ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số 0006864 ngày 05/11/2024 của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên. Ông K đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
3. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng, án phí sơ
thẩm; về thi hành án, chậm thi hành án được thi hành theo Bản án dân sự sơ thẩm
số 76/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Phú Yên;
- VKSND tỉnh Phú Yên;
- Cục THADS tỉnh Phú Yên;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, P.HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Trần Đức Kiên
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 422/2025/DS-PT ngày 08/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Bản án số 398/2025/QĐ-PT ngày 28/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 360/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm