Bản án số 69/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 69/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 69/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 69/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 69/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thái Nguyên |
Số hiệu: | 69/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 36/2024/DSST ngày 11/12/2024 của Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH THÁI NGUYÊN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 69/DSPT
Ngày: 23 tháng 4 năm 2025
V/v tranh chấp QSD đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Mạnh Toàn.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Quế.
Ông Hoàng Văn Giang.
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - Thư ký Toà án nhân dân
tỉnh Thái Nguyên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tham gia phiên tòa:
Bà Đỗ Thị Thu Thuỷ - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
02/2025/TLPT-DS ngày 04 tháng 02 năm 2025 về “Tranh chấp quyền sử dụng
đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 36/2024/DS-ST ngày 11 tháng 12 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 51/QĐPT-DS ngày 21
tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Lâm Thị C, sinh năm 1966; Nơi cư trú: Xóm T, xã V,
huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà C: Ông Nguyễn Tiến D, sinh năm
1977; Nơi cư trú: Xóm T, xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.
(Giấy ủy quyền lập ngày 11/4/2023 – chứng thực tại UBND xã V, huyện P).
2. Bị đơn: Ông Chu Quang L, sinh năm 1949; Nơi cư trú: xóm T, xã V,
huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm
1966 (chết ngày 09/01/2022);
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Nguyễn Văn P:
3.1. Bà Dương Thị Đ, sinh năm 1946 (Vợ ông P), vắng mặt.
3.2. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1987 (Con ông P), vắng mặt.
Cùng cư trú: Xóm T, xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.
3.3. Anh Nguyễn Đức P1, sinh năm 1988 (Con ông P), vắng mặt.
Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, phường Đ, thành phố P, tỉnh Thái Nguyên.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Đ, anh T, anh P1: Ông Nguyễn Tiến
D, sinh năm 1977; Địa chỉ: Xóm T, xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.
4. Người làm chứng: Bà Dương Thị Ánh H, sinh năm 1962; Địa chỉ: Tổ
B, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (Có đơn đề nghị giải quyết vắng
mặt)
Người kháng cáo: Ông Nguyễn Tiến D – là đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn và những người thừa kế quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Tiến D – là
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Khoảng năm 1996, vợ chồng bà C được bố mẹ chồng là ông Nguyễn Xuân
D1 và bà Dương Thị Đề T1 cho thửa đất 332 tờ bản đồ 16 diện tích 2776m2.
Trước khi cho đất, ông D1 và Đ đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hộ
ông Nguyễn Văn P được UBND huyện P cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với thửa 332 tờ bản đồ 16 diện tích 2776m2 theo số vào sổ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 00981 ngày 02/12/2002. Tại thời điểm cấp
giấy chứng nhận, hộ gia đình ông P gồm các thành viên là bà Dương Thị Đ, bà
Lâm Thị C, anh Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Đức P1. Sau khi được cấp quyền
sử dụng đất, gia đình ông P, bà C sử dụng ổn định đến khoảng tháng 9/2021 thì
xảy ra tranh chấp với ông Chu Quang L. Do ông L mua đất của bà Dương Thị
Ánh H. Trong quá trình sử dụng thửa 295 tờ 16 ông L thuê máy xúc san lấp thửa
295 của ông L nhưng đã lấn vào ranh rới thửa 332 tờ 16 của ông Phương diện
T2 65,8m2 làm thiệt hại khoảng 15 cây keo 7 năm tuổi. Tại thửa 333 ông L lấn
vào thửa 332 tờ 16 của ông Phương diện T2 554,4m2 trên đất có khoảng 420
câu keo và đào rãnh hào dài khoảng 55m sâu khoảng 0.25m, rộng khoảng 0.35m
lấn sang thửa 332 làm ảnh hưởng đến sự phát triển của 55 cây keo và làm thiệt
hại 20 cây keo đã được 7 năm tuổi của vợ chồng ông P bà C. Ngoài ra ông L sử
dụng thửa 334 lấn vào thửa 332 tờ 16 diện tích 20m2. Sự việc tranh chấp bắt dầu
xảy ra từ khoảng năm 2021, UBND xã V đã tiến hành hòa giải nhưng không
thành.
Vì vậy, bà C làm đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu Tòa án buộc ông Chu
Quang L trả lại đất tại 3 vị trí đã lấn vào đất của bà C gồm:
+ 554,4m2 tại thửa 333 tờ 16
+ 20m2 tại thửa 334 tờ 16
+ 65,8m2 tại thửa 332 tờ 16
Đồng thời bà C yêu cầu ông Liên thanh T3 giá trị cây cối và khắc phục lại
hiện trạng đất trên diện tích 65,8m2 tại thửa 332 tờ bản đồ 16.
Bị đơn ông Chu Quang L trình bầy:
Ngày 07/2/2020, ông nhận chuyển nhượng của bà Dương Thị Ánh H 03
thửa đất gồm thửa 295, 333, 334 tờ bản đồ 16 xã V. Trước khi chuyển nhượng
cho ông, bà H được Sở Tài Nguyên và môi trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo số CS 39248, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS 00070
ngày 11/10/2019 đứng tên bà Dương Thị Ánh H đối với 3 thửa đất trên. Việc
chuyển nhượng giữa ông và bà H được thực hiện đúng theo quy định của pháp
luật. Ngày 17/3/2020, ông được cấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CU 875905 đối với các thửa
295/1114m2, 333/686m2 và 334/965m2 tờ bản đồ 16 xã V, loại đất rừng sản
xuất. Khi nhận chuyển nhượng, trên các thửa đất số 295, 333, 334 tờ bản đồ 16
đã có các cây keo to nhỏ không đồng đều khoảng 6 - 8 năm tuổi. Ông đã mua
đất và tài sản trên đất của bà H nên ông tiếp tục quản lý sử dụng.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông đã mời đơn vị
đo đạc cắm lại các mốc giới giáp ranh giữa thửa 295, thửa 333 tờ 16 của ông với
thửa 332 tờ 16 của gia đình ông P, bà C; đồng thời ông cũng mời ông P đến
chứng kiến đo đạc nhưng ông P không đồng ý với các mốc giới mà ông đã cắm.
Do vậy, ông đã đào rãnh mương giữa thửa 333 của ông và thửa 332 tờ 16 của
ông P là làm ranh giới rõ ràng giữa đất của hai nhà.
Sau đó ông khai thác toàn bộ số cây keo tại thửa 295, 334 và một phần thửa
333 tờ 16, còn một phần thửa cây keo tại thửa 333 ông để lại do cây còn quá
nhỏ. Năm 2022, ông đã trồng lạị cây keo trên thửa 334, còn thửa 295 hiện nay
ông sử dụng để làm chuồng trại chăn nuôi. Việc san lấp thửa 295 (bao gồm cả
phần tả ly) là do bà H san trước khi bán cho ông.
Trên đất tranh chấp, tại vị trí 20m2 thuộc thửa 334 tờ bản đồ 16 đang có
các cây keo do ông trồng năm 2022. Trên 554,4m2 thuộc thửa 333 tờ 16 là cây
keo của ông mua của bà H ông chưa khai thác. Ông xác định quá trình sử dụng
các thửa 295, 333 và 334 ông sử dụng đúng ranh giới đã mua của bà H và đúng
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhà nước đã cấp, ông không lấn chiếm
vào thửa 332 tờ 16 như nguyên đơn khởi kiện. Nên ông không nhất trí với các
yêu cầu khởi kiện của bà C.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Là bà Dương
Thị Đ, anh Nguyễn Văn T, anh Nguyễn Đức P1 đều nhất trí với quan điểm của
bà Lâm Thị C, đề nghị Toà án xem xét theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của người làm chứng bà Dương Thị Ánh H: Năm 2020, bà bán
các thửa đất số 295/1114m2, 333/686m2 và 334/965m2 tờ bản đồ 16 xã V, loại
đất rừng sản xuất cho ông Chu Quang L. Khi đó, trên đất có cây keo và cây cọ
bà đã bán cả cho ông L.
Nguồn gốc các thửa đất này là bà được chị gái là Dương Thị O tặng cho.
Bà quản lý sử dụng đến năm 2020 thì bán cho ông L. Trước khi bán đất cho ông
L, trên các thửa 295, 334, 333 tờ 16 đã trồng keo, bà đã san một phần đất tại
thửa 295 tờ 16 để lấy đất đổ xuống khu vực trũng khác nhưng việc san lấp
không làm ảnh hưởng hay lấn chiếm vào thửa 332 tờ 16 của gia đình ông P. Bà
H xác định đỉnh đồi (trước đây có cây khế, cây kháo, nay vẫn còn gốc) là đất của
gia đình bà, còn thửa 332 tờ bản đồ 16 của gia đình anh P chỉ nằm ở phía sườn
đồi chứ không kéo lên đến đỉnh đồi.
Bà xác định không còn quyền lợi gì đối với các thửa đất đã bán cho ông L
vì vậy đề nghị Tòa án không triệu tập bà. Do đã nhiều tuổi, đi lại khó khăn nên
bà O đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Tại Bản án Dân sự sơ thẩm số: 36/2024/DS - ST ngày 11/12/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã Quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị C về việc yêu cầu
ông Chu Quang L trả lại đất, bồi thường giá trị cây cối trên đất và khắc phục lại
hiện trạng ban đầu diện tích 65,8m2 tại thửa 332 tờ bản đồ 16 xã V theo vị trí
23, 24, 28, 23 (có sơ đồ kèm theo).
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị C về việc yêu cầu
ông Chu Quang L trả lại diện tích 554,4m2 đất và cây keo trên diện tích này tại
thửa 333 tờ bản đồ 16 theo các điểm 12, 13, 14, 15, 16, 19, 20, 26, 27, 12 (có sơ
đồ kèm theo).
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị C về việc yêu cầu
ông Chu Quang L trả lại diện tích 20m2 tại thửa 334 tờ bản đồ 16 theo các điểm
16, 17, 18, 19, 16 (có sơ đồ kèm theo).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền
kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 20/12/2024 ông Nguyễn Tiến D - là đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn (bà Lâm Thị C) có đơn kháng cáo toàn bộ bản án Dân sự sơ thẩm
số: 36/2024/DS - ST ngày 11/12/2024, của Toà án nhân dân huyện Phú Lương,
tỉnh Thái Nguyên. Nội dung kháng cáo: bị đơn không nhất trí với quyết định của
bản án sơ thẩm đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ nội dung của vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn đồng thời là người đại diện theo
uỷ quyền của những người thừa kế quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan (gồm bà Đ, anh T, anh P1) vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
nội dung kháng cáo, không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm. Đề nghị
Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C.
- Bị đơn là ông Chu Quang L không nhất trí yêu cầu khởi kiện và nội dung
kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu ý kiến:
+ Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc
thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành và thực hiện đúng
các quyền và nghĩa vụ quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quan điểm của Kiểm sát viên đối với kháng cáo của nguyên đơn: Bản án
sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Do
vậy không có cơ sở để chấp nhận nội dung kháng cáo của anh D. Căn cứ khoản
1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
+ Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay phía nguyên đơn không có tài liệu
chứng cứ mới nào giao nộp để làm căn cứ kháng cáo; Sau khi phân tích Đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số
36/2024/DSST ngày 11/12/2024 của Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên.
Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và nghe lời trình bày của các
đương sự; Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Hội
đồng xét xử nhận định:
[1.] Về thủ tục tố tụng:
[1.1.] Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Tiến D - là đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn bà Lâm Thị C, đồng thời là người đại diện theo uỷ quyền của
những người thừa kế quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan (gồm bà Đ, anh T, anh P1) làm trong hạn luật định, đã nộp tạm ứng án phí
phúc thẩm là hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.2.] Việc xét xử vắng mặt các đương sự: Bà Dương Thị Đ, anh Nguyễn
Văn T, anh Nguyễn Đức P1 đã có giấy uỷ quyền cho anh D. Căn cứ Điều 296
Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên.
[2.] Về nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện và kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm của
nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[2.1]. Theo các tài liệu, chứng cứ trong quá trình tố tụng của các đương sự
cung cấp thì thấy:
- Gia đình bà Lâm Thị C được cấp giấy chứng nhận QSD đất tại thửa số
332 tờ bản đồ 16 do UBND huyện P cấp mang tên hộ ông Nguyễn Văn P, vào sổ
cấp giấy chứng nhận số 00981 ngày 02/12/2002, diện tích 2776m2, mục đích sử
dụng RTS. Thời hạn sử dụng tháng 12/2013.
Căn cứ vào đơn khởi kiện, lời khai của đại diện theo ủy quyền nguyên
đơn cho rằng gia đình bà C, ông P đã sử dụng thửa 332 tờ bản đồ 16 ổn định từ
năm 1996. Tuy nhiên, theo kết quả đo đạc thì diện tích thửa 332 của gia đình
bà C kéo từ chân đồi lên đến đỉnh đồi, bao gồm cả phần diện tích 554,4m
2
đất
tranh chấp thuộc thửa 333 và 20m
2
đất tranh chấp thuộc thửa 334 do ông L sử
dụng lấn chiếm. Do vậy, bà C khởi kiện để yêu cầu đòi lại QSD đất do gia đình
ông L đang lấn chiếm tại 3 vị trí đã lấn vào đất của bà C gồm: Diện tích
554,4m
2
tại thửa 333 tờ 16; diện tích 20m
2
tại thửa 334 tờ 16; diện tích 65,8m
2
tại thửa 332 tờ 16, ngoài ra bà C còn yêu cầu ông Liên thanh T3 giá trị cây cối
và khắc phục lại hiện trạng đất trên diện tích 65,8m
2
tại thửa 332 tờ bản đồ 16.
- Gia đình ông Chu Quang L được cấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CU 875905 đối với các
thửa 295/1114m
2
, 333/686m
2
và 334/965m
2
tờ bản đồ 16 xã V, loại đất rừng
sản xuất. Khi nhận chuyển nhượng, trên các thửa đất số 295, 333, 334 tờ bản
đồ 16 đã có các cây keo to nhỏ không đồng đều khoảng 6 - 8 năm tuổi. Nguồn
gốc đất nhận chuyển nhượng của bà Dương Thị Ánh H. Bà H đã được Sở Tài
nguyên môi trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS
394248 ngày 11/10/2019. Năm 2020, bà H tiếp tục chuyển nhượng 3 thửa đất
trên cho ông Chu Quang L. Ông L đã được Sở Tài nguyên môi trường tỉnh T
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CU 875905 ngày 17/3/2020.
[2.2]. Kết quả xem xét thẩm định và (bổ sung) thẩm định tại chỗ với kết
quả đo đạc hiện trạng cho thấy:
- Theo kết quả thẩm định: Phần đất tranh chấp tại các thửa 332, tờ bản đồ
số 16 được cấp quyền dụng mang tên ông Nguyễn Văn P (chồng bà C):
Phần đất tranh chấp do đương sự chỉ dẫn nằm tại hai vị trí:
Vị trí 1 là một phần thửa số 333, ráp ranh thửa 332 cùng tờ bản đồ 16.
Ranh giới giữa thửa 332 (ông P) và thửa 333 (ông L) có một rãnh hào rộng 20
cm, sâu 15 cm chạy hết ranh giới (rãnh này ông L xác định do gia đình đào năm
2021).
Vị trí số 2 giáp ranh giữa hai thửa 332 và 295, thực tế hiện trạng phần ranh
giới giữa thửa 295 và 332 là tả ly cao (thửa 332 của gia đình bà C ở tả ly dương;
thửa 295 của ông L ở tả ly âm.
- Kết quả thẩm định bổ sung và đo bằng máy thể hiện: Công ty Cổ phần T5
sử dụng máy đo định vị (chech) tọa lạc các điểm trên sơ đồ do nguyên đơn chỉ
dẫn và xác định do bị đơn lấn vào thửa 332. Kết quả đo đạc vị trí các điểm đều
nằm trên đồi thuộc thửa 332 cách xa với tả ly (ranh hiện trạng). Toàn bộ diện
tích 65,8m
2
tranh chấp nằm trên thửa 332, tờ bản đồ 16 vẫn thuộc quyền quản
lý, sử dụng của gia đình bà C. Ông L không sử dụng phần đất này.
Thửa 334 và thửa 332 tờ 16 không có cạnh thửa nào giáp ranh nhau. Ông L
đang sử dụng đất tại thửa 334 tờ 16, không lấn sang thửa 332 của bà C. 20m
2
tại
thửa 334.
[2.3]. Căn cứ vào quá trình xác minh thu thập chứng cứ của các cơ quan
chuyên môn cho thấy:
[2.2.1]. Đối với thửa đất số 332 tờ bản đồ 16 xã V, huyện P, tỉnh Thái
Nguyên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho hộ ông Nguyễn Văn P
theo số vào sổ cấp giấy chứng nhận số 00981 ngày 02/12/2002, diện tích
2776m
2
, mục đích sử dụng RTS. Thời hạn sử dụng tháng 12/2013. Nguồn gốc
do được bố mẹ tặng cho từ khoảng năm 1996, trồng chè sau đó trồng keo. Ông P
chết năm 2022 theo giấy chứng tử số 14/TLK-BS ngày 11/1/2022. Hiện thửa đất
do vợ (bà C) cùng các con đang trực tiếp quản lý sử dụng. Thu thập hồ sơ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Văn P đối với thửa 332
tờ 16; Qua các hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này cho thấy từ
năm 2002 ông P và bà O được cấp đất trên đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, được Hội đồng đăng ký đất đai xã Vô Tranh xét duyệt, công
khai tại địa phương, UBND xã V xác nhận đất sử dụng ổn định, không có tranh
chấp khiếu nại, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất tại địa phương.
[2.2.2]. Đối với thửa 295, 333 và 334 tờ 16 ông L đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất năm 2020, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CU 875905 đối với các thửa 295, tờ bản đồ 16, diện tích cấp là 1114m
2
; thửa số
333, tờ bản đồ 16, diện tích cấp 686m
2
và thửa số 334, tờ bản đồ 16, diện tích
cấp là 965m
2
thuộc xã V, loại đất RST (rừng sản xuất). Nguồn gốc do nhận
chuyển nhượng của bà H. (Bà H được chị gái là bà O tặng cho 3 thửa đất này, bà
O đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2002). Theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của bà O thì thửa 334 tờ bản đồ 16 trước đây là
loại đất Hg/b, thửa 295 tờ bản đồ 16 trước đây là loại đất Hg/Đn. Sau đó đã
được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện P đính chính tại trang 4 giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất về loại đất RSX. Sau đó bà O tặng cho bà H 3
thửa đất trên, bà H tiếp tục chuyển nhượng cho ông L 3 thửa đất trên đều là loại
đất RSX.
Về hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ bà Dương Thị O
đối với thửa 295, 333 và 334 tờ 16. Qua các hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất này cho thấy bà O được cấp đất trên đơn đề nghị cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, được Hội đồng đăng ký đất đai xã Vô Tranh xét duyệt,
công khai tại địa phương, UBND xã V xác nhận đất sử dụng ổn định, không có
tranh chấp khiếu nại, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất tại địa phương.
[2.3]. Tại biên bản làm việc giữa Tòa án với UBND xã V, huyện P và kết
quả trả lời tại công văn số 448 ngày 11/11/2024, được cung cấp thông tin:
Sau khi đối chiếu với sổ mục kê, theo bản đồ địa chính năm 2021 thì thể
hiện thửa 334, tờ bản đồ 16, diện tích 965 m
2
địa danh ở C được ký hiệu loại đất
Hoang bằng là Hg/b.
Kiểm tra sổ địa chính của xã V, tại trang 68, quyển số 01 đã điều chỉnh
thửa 334 từ loại đất hoang bằng (Hg/b) sang đất rừng. Giấy chứng nhận QSD đất
của bà O được cấp là đất Hoang bằng (Hg/b). Bản đồ địa chính năm 2001 vẫn
thể hiện là loại đất Hg/b, diện tích 965 m
2
chỉnh lý năm 2018 là BCS.
Đối chiếu ranh giới, vị trí thửa số 334 không thay đổi trên bản đồ 299
không thể hiện thửa đất này. Bản đồ địa chính (bản đồ số) mà UBND xã V cung
cấp cho Tòa án để đối chiếu hiện trạng (bản đồ hiện trạng) là bản đồ địa chính
năm 2001 (đo lần đầu). Thửa 334 trên bản đồ địa chính năm 2001 và thửa 334
trên bản đồ địa chính năm 2018 không thay đổi về vị trí, kích thước, không có
sự xê dịch.
UBND xã V cho biết trên địa bàn xã V hiện đang sử dụng hệ thống bản đồ
địa chính gồm: Bản đồ 299 đo đạc năm 1985, bản đồ địa chính đo đạc nghiệm
thu năm 2001 và bản đồ địa chính đo đạc chỉnh lý nghiệm thu năm 2018. Căn cứ
hồ sơ địa chính thì các thửa 295, 333, 334 và 332 tờ 16 tại bản đồ địa chính đo
đạc năm 2001 và bản đồ địa chính chỉnh lý năm 2018 không biến động về ranh
giới, diện tích, loại đất. Đối chiếu giữa bản đồ 299 và bản đồ địa chính thì khu
vực tranh chấp gồm các thửa 295, 332, 333, 334 không được thể hiện trên bản
đồ 299.
[2.4]. Kết quả đo đạc của Công ty Cổ phần T5 cho thấy:
- Theo giấy chứng nhận QSD đất cấp cho ông Nguyễn Văn P thửa đất số
332 tờ bản đồ 16 xã V, huyện P, tỉnh Thái Nguyên, vào sổ cấp giấy chứng nhận
số 00981 ngày 02/12/2002, diện tích 2776m
2
, mục đích sử dụng RTS. Diện tích
đo hiện trạng thửa 332, tờ bản đồ 16 là 2.768,5m
2
. Tiếp giáp với thửa 332 là
thửa 295, tờ bản đồ 16 của ông Chu Quang L. Về ranh giới giữa thửa 332 và
thửa 295 tờ 16 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và theo bản đồ địa chính
là đoạn 27-28-f (sơ đồ đo bổ sung), phần diện tích tranh chấp theo nguyên đơn
khởi kiện buộc ông L phải trả có diện tích 65,8m
2
, sơ đồ các điểm 23, 24, 28, 23.
Kết quả thẩm định hiện trạng phần diện tích 65,8m
2
,vẫn nằm trong thửa 332 và
do gia đình bà C đang sử dụng, ông L không sử dụng, mặt khác kết quả đo đạc
có sai số không đáng kể nên vẫn đảm bảo diện tích trong thửa được cấp so với
giấy chứng nhận không thiếu hụt diện tích.
- Thửa 334 và thửa 332 tờ 16 không có cạnh thửa nào giáp ranh nhau. Ông
L đang sử dụng đất tại thửa 334 tờ 16, không lấn sang thửa 332 của bà C. 20m2
đang tranh chấp tại thửa 334 theo nguyên đơn xác định là không có cơ sở.
- Đối với diện tích tranh chấp nguyên đơn yêu cầu ông L phải trả do lấn
chiếm là 554,4m
2
, xem xét thực tế và bản đồ đo bổ sung cho thấy: Tại ranh giới
của thửa 333 và thửa 332 tờ 16 (trên sơ đồ điểm 27- g) ông L đã đào hào (rãnh
mương) để làm ranh giới quản lý đất trên thực tế là trùng khớp với ranh giới trên
bản đồ địa chính đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần diện tích
554,4m
2
nằm hoàn toàn trong thửa số 333 của ông L đã được cấp giấy chứng
nhận, thực tế gia đình ông L đang sử dụng.
[3]. Đối với tài sản trên đất tranh chấp: Tại diện tích 554,4m2 tại thửa 333
tờ bản đồ 16 có 120 cây keo, trong đó 40 cây keo đường kính gốc từ 10-20cm,
80 cây keo đường kính gốc từ 5-10cm. Phía nguyên đơn xác định số cây cối trên
là của bà C ông P trồng tại cấp phúc thẩm cũng không đưa ra được tài liệu
chứng cứ chứng minh tài sản bị thiệt hại.
Theo quy định tại khoản 4, Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì: Đương
sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ
hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những
chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Điều 96 BLTTDS còn quy định:
“Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa
vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án...Nếu đương sự không giao nộp hoặc
giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do
chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp
và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải quyết
vụ việc dân sự”.
Do đó, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về tài sản trên
đất tranh chấp thuộc thửa 332, tờ bản đồ số 6. Các tài sản trên vị trí tranh chấp
khác không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[4]. Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử thấy nguyên đơn khởi kiện đòi
lại phần diện tích đất hiện ông L đang lấn chiếm là không đủ căn cứ, do đó cần
bác kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5.]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đề
nghị bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm
là có căn cứ.
[6] Về án phí:
- Án phí sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí có giá ngạch đối với yêu
cầu khởi kiện không được chấp nhận.
- Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận
nên phải chịu theo quy định được đối trừ vào khoản tiền tạm ứng đã nộp.
[7] Chi phí tố tụng (chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, chi phí định giá, chi
phí đo đạc tại cấp sơ thẩm): Xét thấy số tiền chi phí tố tụng gồm chi phí đo vẽ
hiện trạng xem xét thẩm định tại chỗ là 8.500.000 đồng và chi phí định giá tài
sản là 3.500.000 đồng, tổng là 12.000.000 đồng bà C phải chịu theo quy định
của pháp luật (đã thanh quyết toán xong).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miền, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí lệ phí Tòa án. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Lâm Thị
C đối với bản án dân sự sơ thẩm số 36/2024/DSST ngày 11/12/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
Tuyên xử:
1. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 36/2024/DSST ngày 11/12/2024
của Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lâm Thị C phải chịu 300.000đ (Ba trăm
nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm nộp ngân sách Nhà nước, được đối trừ vào
khoản tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000đ theo biên lai thu số 0004812
ngày 24/12/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Lương (người nộp
tiền anh Nguyễn Tiến D – là đại diện theo ủy quyền).
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Thái Nguyên;
- TAND huyện Phú Lương;
- Chi cục THADS huyện Phú Lương;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
(Đã ký)
Nguyễn Mạnh Toàn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 422/2025/DS-PT ngày 08/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Bản án số 398/2025/QĐ-PT ngày 28/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 360/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm