Bản án số 482/2025/DS-PT ngày 24/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 482/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 482/2025/DS-PT ngày 24/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 482/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: LÊ VĂN K YÊU CẦU NGUYỄN NGỌC T2 CHIA THỪA KẾ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 482/2024/DS-PT
Ngày 11-9-2024
V/v tranh chấp thừa kế tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phan Thanh Tòng
Các Thẩm phán: Ông Lê Minh Đạt
Ông Nguyễn Thế Hồng
- Thư ký phiên tòa: Ông Võ Tấn Vũ - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Thanh Thảo - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 232/2024/TLPT-DS ngày 23/7/2024 về
“Tranh chấp thừa kế tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 85/2024/DS-ST ngày 14/6/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2745/2024/QĐ-PT ngày
29/7/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Ông Lê Văn K, sinh năm 1959
1.2. Ông Hồ Văn B, sinh năm 1963
Cùng địa chỉ: Số nhà A N, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
1.3. Bà Hồ Thị D, sinh năm 1955
Địa chỉ: Số nhà B, B, phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1971
Địa chỉ: Số nhà D, Khu phố D, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Phan Thị Ngọc T1, sinh năm 1996
Địa chỉ: Số nhà A, khu phố B, Phường F, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Nguyễn Ngọc T2, sinh năm 1962
2
2.2. Bà Nguyễn Thị Ngọc T3, sinh năm 1968
2.3. Ông Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1973
2.4. Ông Nguyễn Ngọc C1, sinh năm 1978
2.5. Ông Nguyễn Ngọc M, sinh năm 1975
Địa chỉ: Số nhà A, N, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Trần Minh T4, sinh năm 1945
Địa chỉ: Ấp D, xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Trần Quốc H, sinh năm 1970
Địa chỉ: Số nhà B, Khóm A, Phường E, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3.2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965 (không rõ địa chỉ)
3.3. Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1967 (không rõ địa chỉ)
3.4. Bà Trần Thị Thanh H1, sinh năm 1996
Địa chỉ: Số nhà A N, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3.5. Bà Nguyễn Thị Ngọc T5, sinh năm 1966
Địa chỉ: Số nhà E, ấp A, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
3.6. Bà Nguyễn Thị Ngọc H2, sinh năm 1965
Địa chỉ: Số nhà B, Khu phố A, Phường H, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3.7. Ông Nguyễn Ngọc M1, sinh năm 1971
Địa chỉ: Ấp G, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre.
3.8. Ông Nguyễn Ngọc C2, sinh năm 1981
Địa chỉ: Số nhà I, Dương Văn D1, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Thanh H1, Nguyễn Thị
Ngọc T5, Nguyễn Thị Ngọc H2, ông Nguyễn Ngọc M1, ông Nguyễn Ngọc C2:
Ông Trần Minh T4, sinh năm 1945
Địa chỉ: Ấp D, xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3.9. Bà Lê Thị L1, sinh năm 1978
Địa chỉ: Số nhà B, Khu phố C, T, Phường D, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3.10. Bà Lê Thị Hồng T6, sinh năm 1985
Địa chỉ: Số nhà B N, Khu phố C, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3.11. Bà Lê Thị Thanh P1, sinh năm 1983
3.12. Ông Trần Văn H3, sinh năm 1975
3.13. Bà Lê Thị Thùy L2, sinh năm 1981
Cùng địa chỉ: Số nhà A N, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3
3.14. Bà Dương Thị Đ, sinh năm 1957
Địa chỉ: Số nhà B, T, Khu phố C, Phường D, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Lê Văn K.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của các nguyên đơn ông Văn K, ông Hồ Văn B,
Hồ Thị D và trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
trình bày:
Ông Văn K con của cụ Hồ Thị H4. Cụ H4 02 người chồng: Người
chồng thứ nhất cụ Trần Trung M2 (không năm sinh, năm mất), cụ H4 cụ
M2 02 người con Trần Thị Ngọc C3 (chết ngày 27/12/2003) ông Trần
Quốc T7 (chết trong chiến tranh, không năm chết); Người chồng thứ hai của cụ
H4 cụ Văn B1 (đã chết trước năm 1975), cụ B1 và cụ H4 04 người con
gồm ông Lê Văn N (chết năm 2010), bà Hồ Thị D, ông Lê Văn K, ông Hồ Văn B.
Trần Thị Ngọc C3 chồng là ông Nguyễn Văn Q (chết năm 1976), bà
C3 05 người con, gồm: Ông Nguyễn Ngọc T2, ông Nguyễn Ngọc T3, ông
Nguyễn Ngọc C, ông Nguyễn Ngọc M, ông Nguyễn Ngọc C1. Ông Trần Quốc T7
chết trong thời chiến tranh, không xác định được ngày chết, ông T7 vợ và 03
người con, một trong số các người con của ông T7 ông Trần Quốc H, những
người còn lại thất lạc từ lâu (bà Nguyễn Thị L bà Nguyễn Thị P), nguyên đơn
cũng không rõ vợ ông T7 là ai, hiện đang ở đâu.
Trong quá trình chung sống, cụ H4 cụ B1 tạo lập được tài sản căn nhà
và đất thuộc thửa 160, tờ bản đồ số 11, diện tích 135,6m
2
, tọa lạc phường A, thành
phố B, tỉnh Bến Tre. Các nguyên đơn sinh ra lớn lên tại đây. Ông T7, C3
gia đình sinh sống nơi khác. Sau khi chồng bà C3 chết, cụ H4 đã cho C3
cùng các con về sinh sống nhà sau phần đất. Cụ H4 chết ngày 30/9/2003, C3
chết ngày 27/12/2003, các con C3 tiếp tục sống tại đây. Đến ngày 30/5/2007,
ông Văn K được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất đối với thửa đất nêu
trên. Sau đó, phần đất này có tranh chấp nên bị thu hồi. Hiện tại, phần đất này chưa
được cấp quyền sử dụng đất cho ai di sản thừa kế của cụ B1, cụ H4. Do cụ
B1, cụ H4 chết không để lại di chúc, các đồng thừa kế của cụ H4 không thỏa thuận
được nên yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế. Cụ B1, cụ H4 mỗi người để lại di
sản ½ diện tích nhà, đất thuộc thửa 160 nêu trên. Nguyên đơn xác định hàng
thừa kế thứ nhất của cụ B1 gồm: D, ông K, ông B (do cụ H4, ông N đã chết),
nên di sản của cB1 được chia cho ông K, ông B, bà D. Phần di sản thừa kế của c
H4 được chia cho các đồng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ H4 là các
con của cụ H4. Tuy nhiên, do C3, ông N chết sau cụ H4 nên không được nhận
thừa kế, phần di sản của cụ H4 sẽ được chia cho ông Trần Quốc H (con của ông
T7), bà D, ông K, ông B.
Do đó, các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu nhận 118,85m
2
đất (gồm 03 phần
di sản của cụ B1 03 phần di sản của cụ H4). Theo nguyên đơn thì ông H chỉ
được nhận phần di sản là 16,95m
2
, diện tích này không đủ điều kiện tách thửa nên
4
các nguyên đơn đồng ý hoàn giá trị theo định giá cho ông H. Các bị đơn là con của
C3 không có quyền hưởng di sản của cụ H4, cụ B1 nên các nguyên đơn yêu cầu
những người này di dời ra khỏi căn nhà trên thửa 160 nêu trên, các nguyên đơn
đồng ý hỗ trợ chi phí di dời 50 triệu đồng. Ngôi nhà trước đây do cụ H4 xây
dựng đã không còn, nhà trên đất hiện nay toàn bộ do ông K xây dựng.
Trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông
Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, ông Nguyễn Ngọc C, ông Nguyễn Ngọc
C1, ông Nguyễn Ngọc M đồng thời cũng người đại diện theo ủy quyền của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc M1, bà Nguyễn Thị Ngọc
H2, bà Nguyễn Thị Ngọc T5 và ông Nguyễn Ngọc C2 trình bày:
Cụ Hồ Thị H4 bà nội của các bị đơn, khi còn sống cụ H4 hai người
chồng, cụ thể: Cụ H4 sống với cụ Trần Trung M2, 02 người con ông Trần
Quốc T7 và bà Trần Thị Ngọc C3 (chết năm 2003). Bà C3 có chồng là ông Nguyễn
Văn Q, bà C3 ông Q 10 người con là: Ông Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị
Ngọc T3, ông Nguyễn Ngọc C, ông Nguyễn Ngọc C1, ông Nguyễn Ngọc M,
Nguyễn Thị Ngọc H2, Nguyễn Thị Ngọc T5, ông Nguyễn Ngọc Q1 (đã chết,
không vợ con), ông Nguyễn Ngọc M1, ông Nguyễn Ngọc C2. Cụ H4 sinh sống với
cụ Văn B1 04 người con gồm: Ông Văn N, sinh năm 1956; bà Hồ Thị D,
sinh năm 1955; ông Lê Văn K, sinh năm 1959; ông Hồ Văn B, sinh năm 1963.
Phần đất đang tranh chấp có nguồn gốc của ông Hội đồng T8. Năm 1960, cụ
H4 cùng các con từ quê lên Bến Tre mượn đất của ông Hội đồng T8 cất nhà tạm để
ở. Cha của các bị đơn ông Nguyễn Văn Q (đã chết). Sau ngày 30/4/1975, cụ H4
cho con gái C3 ng mẹ của bị đơn cùng các con về lấp cái vũng sau đất
của cụ H4, xây nhà ở. Như vậy, phần đất gia đình C3 ở là thuộc diện đất
chủ. Nhà của C3 đăng hộ khẩu riêng từ năm 1976 (số nA), số nhà của
cụ H4 là 119. Để đi ra Đường N, bị đơn phải đi ngang nhà của cụ H4. Trước đây,
cụ H4 đăng ký để được cấp quyền sử dụng đất cả phần đất của bà C3 nên bà C3
không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng. Do đó, các bị đơn ông M1,
ông C2, H2, T5 cho rằng phần đất phía sau các bị đơn đang là di sản
của C3 (mẹ của bị đơn) để lại, gồm: Phần hiệu 160b diện tích 58,4m
2
160c diện tích 18,8m
2
, còn phần di sản thừa kế của cụ H4 (bà nội của bị đơn) để lại
là phần 160a diện tích 57,3m
2
.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Tòa án không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Cụ H4 chết ngày 30/9/2003, C3 chết ngày
27/12/2003, ông Q đã chết trước 1975. C3 ông Q có tất cả 10 người con nêu
trên (trong đó ông Nguyễn Ngọc Q1 đã chết, không vợ con). Do vậy, 09 người con
của C3 sđược hưởng kỷ phần thừa kế của bà C3 được nhận từ cụ H4, các bị
đơn không phải nhận thừa kế thế vị của C3. Bị đơn yêu cầu phản tố yêu cầu
chia thừa kế theo pháp luật, yêu cầu được nhận 1/6 di sản của cụ H4 để lại (gồm
nhà và đất) có diện tích 57,3m
2
thuộc thửa 160, tờ bản đồ số 11, tọa lạc phường A,
thành phố B, tỉnh Bến Tre (phần di sản lẽ ra C3 được nhận nếu còn sống), đồng
thời yêu cầu công nhận phần nhà gắn liền với đất diện tích 77,2m
2
thuộc một
5
phần thửa 160 nêu trên thuộc quyền sử dụng của bị đơn do C3 chiếm hữu, sử
dụng đất vô chủ từ năm 1976 đến nay.
Tại phiên tòa thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi yêu cầu, xác định căn nhà trên đất thuộc
phần hiệu 160a do ông K sửa chữa, xây dựng lại trên nền căn nhà gỗ
của cụ H4 nên đây tài sản của ông K, bị đơn không tranh chấp căn nhà này, chỉ
yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất thuộc phần hiệu 160a (diện tích
57,3m
2
). Tuy nhiên, bị đơn yêu cầu áp dụng họa đồ kèm theo bản án giải quyết
tranh chấp giữa ông N1 ông K trước đây đgiải quyết vụ án (theo họa đồ này,
phần 160a diện tích là 57,3m
2
, trong khi đó họa đồ ngày 15/9/2023 phần 160a diện
tích là 57,2m
2
).
Trong quá trình tố tụng, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần
Quốc H trình bày:
Ông cháu nội của cụ H4 con của ông Trần Quốc T7. Ông T7 chết
năm 1975, mẹ của ông H Nguyễn Thị T9, T9 bỏ đi sau khi ông T7 chết,
hiện nay không biết T9 đâu. Ông T7 T9 03 người con gồm: Ông
Trần Quốc H, Nguyễn Thị L Nguyễn Thị P. P, L hiện đang đâu,
ông H không biết, chỉ biết nơi cuối cùng của hai huyện B. Cụ H4 chết để
lại nhà, đất trên Đường N, ông H không nhớ số thửa, số tờ bản đồ. Tài sản này
hiện do ông K các người con của C3 quản lý, sử dụng. Ông H hiện đang
sống bên nhà của mẹ vợ. Ông H yêu cầu độc lập được nhận 1/6 di sản thừa kế
do cụ H4 để lại, ông Hòa đồng Ý nhận giá trị bằng tiền.
Trong quá trình tố tụng, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Thị Hồng T6 và bà Lê Thị L1 trình bày:
Hai bà là cháu nội của cụ H4, là con ruột của ông Lê Văn N. Ông N có vợ
Dương Thị Đ, ông NĐ có 02 người con là Lê Thị L1Thị Hồng T6.
Ông N đã chết gần 12 năm, Đ đang sống cùng với L1. T6 L1 yêu
cầu được nhận 1/6 di sản thừa kế cụ H4 để lại, phần tài sản này sẽ do bà T6
L1 cùng hưởng. Sự việc năm 2006, ông N thỏa thuận đồng ý để lại phần di
sản cho ông K đứng tên thì sau này bà T6, bà L1 mới biết. Đối với việc này, bà T6,
L1 cho rằng ông N chỉ tên đồng ý cho ông K đứng tên quyền sử dụng đất,
không phải tặng cho nhà, đất.
Trong quá trình tố tụng, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Dương
Thị Đ trình bày:
vợ của ông Văn N con dâu của cụ H4. Ông N chết năm 2010,
với ông N 02 người con Thị Hồng T6 và Thị L1. Khi cụ H4 còn
sống, vợ chồng bà sống chung với cụ H4, bà C3, các con bà C3, ông H, ông K, ông
B. Sau khi cụ H4 chết, ông N là người đứng tên chủ hộ. Sau khi ông N chết, ông K
đứng tên chủ hộ. Khi cụ H4 còn sống, không nghe cụ H4 nói cho đất ai. Ngày
27/10/2006, ông N, ông B làm tờ thỏa thuận để cho ông K đứng tên nhà đất
thời điểm đó ông N bị bệnh, đi lại khó khăn, ông K tự làm giấy tờ đđược cấp sổ.
Thực tế, ông N chỉ tên để ông K đại diện gia đình đứng tên đất, không cho
6
đất ông K. Sau khi ông N chết, ông K được cấp sổ đỏ đã đuổi các con C3 ra
khỏi nhà với do đất đã bán rồi. Hiện phần đất tranh chấp đang do ông K, các
con của ông K, các con C3 đang ở. Đ không tranh chấp hay yêu cầu đối
với phần di sản ông N được hưởng từ cụ H4, nếu được nhận phần di sản này,
Đ đồng ý để lại cho các con của bà là Lê Thị L1Lê Thị Hồng T6.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Lê Thị Thanh P1, bà Lê Thị Thùy L2, ông Trần Văn H3 trình bày:
Ông bà con ruột, con rể ông K, ông bà không ý kiến tranh chấp đối với
phần di sản mà cụ H4, cụ B1.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre đã đưa vụ án
ra xét xử.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 85/2024/DS-ST ngày 14/6/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Bến Tre đã áp dụng các Điều 649, 650, 651, 660, 688 Bộ Luật
Dân sự năm 2015; các Điều 167, 170 Luật Đất đai năm 2013, Điều 12 27 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Hồ Thị D,
ông Hồ Văn B, ông Lê Văn K.
Chia thừa kế cho bà Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn K mỗi người
được nhận phần đất có diện tích là 22,38m
2
thuộc một phần thửa đất số 160, tờ bản
đồ số 11, tọa lạc phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của các bị đơn ông Nguyễn Ngọc T2,
Nguyễn Thị Ngọc T3, ông Nguyễn Ngọc C, ông Nguyễn Ngọc C1, ông Nguyễn
Ngọc M.
Chia thừa kế cho ông Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, ông
Nguyễn Ngọc C, ông Nguyễn Ngọc C1, ông Nguyễn Ngọc M được nhận chung giá
trị phần đất với số tiền 895.200.000 đồng (đối với diện tích 22,38m
2
thuộc một
phần thửa đất số 160, tờ bản đồ số 11, tọa lạc phường A, thành phố B, tỉnh Bến
Tre); phần của Nguyễn Thị Ngọc H2, Nguyễn Thị Ngọc T5, ông Nguyễn
Ngọc M1, ông Nguyễn Ngọc C2 được nhận thừa kế chung với 05 bị đơn sẽ tạm
giao cho ông T2 quản lý). Số tiền này do bà Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Lê Văn
K có nghĩa vụ liên đới hoàn trả.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Trần Quốc H.
Chia thừa kế cho ông Trần Quốc H, bà Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị P
được nhận chung giá trị phần đất với số tiền 895.200.000 đồng (diện tích 22,38m
2
thuộc một phần thửa đất số 160, tờ bản đồ số 11, tọa lạc phường A, thành phố B,
tỉnh Bến Tre). Số tiền này do Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Lê Văn K nghĩa
7
vụ liên đới hoàn trả. Do không xác định được địa chỉ của bà L, P nên tạm giao
cho ông H quản lý toàn bộ số tiền này.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Thị Hồng T6 và bà Lê Thị L1.
Chia thừa kế cho Thị Hồng T6 Thị L1 được nhận chung giá
trị phần đất với số tiền 895.200.000 đồng (diện tích 22,38m
2
thuộc một phần thửa
đất số 160, tờ bản đồ số 11, tọa lạc phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre). Số tiền
này do bà Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Lê Văn K có nghĩa vụ liên đới hoàn trả.
Buộc Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn K liên đới hoàn trả giá trị
phần nsau trên phần hiệu 160b giá trị 26.972.000 đồng cho các ông bà:
Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, Nguyễn Ngọc C, Nguyễn Ngọc C1,
Nguyễn Ngọc M, Nguyễn Thị Ngọc H2, Nguyễn Thị Ngọc T5, Nguyễn Ngọc M1,
Nguyễn Ngọc C2; đồng thời, buộc bà Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Lê Văn K liên
đới hoàn trả ½ giá trị tài sản trên phần đất thuộc phần hiệu 160c (nhà bếp,
nhà vệ sinh, nhà tắm) giá trị 3.814.000 đồng cho các ông bà: Nguyễn Ngọc T2,
Nguyễn Thị Ngọc T3, Nguyễn Ngọc C, Nguyễn Ngọc C1, Nguyễn Ngọc M.
Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Lê Văn K được toàn quyền sử dụng phần
đất thuộc các phần hiệu 160a, 160b, 160c (tổng diện tích 134,3m
2
), tờ bản
đồ số 11, tọa lạc phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre và các tài sản trên đất thuộc
các phần 160b, 160c sau khi thực hiện xong nghĩa vụ hoàn trả giá trị di sản cho các
người thừa kế nêu trên. Riêng căn nhà trên phần đất có kí hiệu 160a là tài sản riêng
của ông K. Do phần nhà, đất, tài sản trên đất thuộc các phần có kí hiệu 160b, 160c
do ông Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, ông Nguyễn Ngọc C, ông
Nguyễn Ngọc C1, ông Nguyễn Ngọc M, bà Trần Thị Thanh H1 đang quản , sử
dụng nên buộc ông Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, ông Nguyễn Ngọc
C, ông Nguyễn Ngọc C1, ông Nguyễn Ngọc M, bà Trần Thị Thanh H1 phải
nghĩa vụ di dời đi nơi khác để giao trả nhà, đất, tài sản trên đất cho các nguyên đơn
bà Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn K.
(Có hồ sơ đo đạc theo yêu cầu của Tòa án do Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai thành phố B cung cấp ngày 15/9/2023 kèm theo).
Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn K được quyền liên hệ quan, tổ
chức thẩm quyền đđược xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với
phần diện tích đất được nhận thuộc các phần hiệu 160a, 160b, 160c nêu trên
theo quy định pháp luật.
Buộc ông Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, ông Nguyễn Ngọc C,
ông Nguyễn Ngọc C1, ông Nguyễn Ngọc M, bà Trần Thị Thanh H1 không được
làm thay đổi hiện trạng đất tài sản trên đất khi giao nhà, đất cho bà Hồ Thị D,
ông Hồ Văn B, ông Lê Văn K.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ chậm thi
hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 28/6/2024, nguyên đơn ông Văn K kháng cáo toàn bộ bản án
8
thẩm, nội dung kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm, chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ
nguyên nội dung kháng cáo, ông T trình bày: Theo Điều 651 Bộ luật Dân sự thì
những người hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai hàng
thừa kế trước, con của C3, ông N là hàng thừa kế sau nên không được hưởng di
sản, chỉ con ông T7 được hưởng do thừa kế thế vị. Ngoài ra, ông N đã cho đất
ông K theo tờ thuận phân ngày 27/10/2006. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan L1, T6 không đồng ý với
kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng, nguyên đơn đã tuân thủ đúng các
quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Người đại diện theo ủy quyền của
bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Minh T4 được
Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, chưa thực hiện đúng nghĩa
vụ của đương sự.
Về nội dung: Kháng cáo của ông K là không có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét
xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, không chấp nhận
kháng cáo của ông Lê Văn K, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 85/2024/DS-ST ngày
16/6/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ đã được thẩm tra công khai
tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên; xét
kháng cáo của ông Lê Văn K; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Ông Trần Minh T4 người đại diện theo ủy quyền của b
đơn những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được triệu tập hợp lệ đến lần
thứ hai nhưng vắng mặt, không đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; những người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Quốc H, Thị Thanh P1, Thị
Thùy L2, ông Trần Văn H3, Dương Thị Đ đơn đề nghị xét xvắng mặt nên
căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự, cấp phúc thẩm tiến hành xét xử vắng mặt
những người này.
[2] Về nội dung:
[2.1] Phần đất tranh chấp qua đo đạc thực tế diện tích 134,3m
2
gồm các
phần hiệu 160a diện tích 57,2m
2
, 160b diện tích 58,3m
2
, 160c diện tích
18,8m
2
, thuộc một phần thửa 160, tờ bản đồ s11, tọa lạc phường A, thành phố B,
tỉnh Bến Tre (đối với các phần đất kí hiệu 154A diện tích 0,3m
2
, 154B diện tích
0,3m
2
160d diện tích 1,2m
2
do các bên đương sự xác định thuộc quyền sdụng
của chủ sử dụng đất liền kề nên không tính vào phần đất tranh chấp). Năm 2007,
phần đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Văn K
9
nhưng hiện nay đã bị thu hồi theo Bản án dân sự phúc thẩm số: 153/2021/DS-PT
ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre. Nguyên đơn, bđơn những
người đang quản lý, sử dụng đất.
Nguyên đơn cho rằng quyền sử dụng đất nêu trên di sản của cụ H4 và cụ
B1 nên yêu cầu chia thừa kế với tổng diện tích yêu cầu được nhận 118,85m
2
di sản của cụ B1 và ¾ di sản của cụ H4), còn lại 16,96m
2
di sản của cụ H4) các
nguyên đơn đồng ý trả giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trần Quốc H. Trong khi
đó, bị đơn cho rằng một phần thửa đất tranh chấp là tài sản của bà C3 một phần
là di sản của cH4 nên có yêu cầu phản tố đề nghị xác định các phần đất có kí hiệu
160b, 160c thuộc quyền sử dụng của các con bà C3 và chia thừa kế phần di sản của
cụ H4 theo pháp luật. Những người quyền lợi, liên quan ông H, L1, T6
cho rằng quyền sử dụng đất nêu trên di sản của cụ H4 nên yêu cầu độc lập
chia thừa kế theo pháp luật.
[2.2] Xác định di sản thừa kế:
Về nguồn gốc đất: Theo giấy xác nhận nguồn gốc đất do Ủy ban nhân dân
Phường A, thị B xác nhận ngày 26/3/2002 thì phần đất tranh chấp trước đây
của địa chủ - ông Hội đồng T8. Năm 1960, gia đình cụ H4 đến ở, quản sử dụng
phần đất này. Sau khi cụ B1 (chồng thứ hai của cụ H4) chết năm 1965, cụ H4 tiếp
tục quản lý, sử dụng khai, đăng với quan quản đất đai năm 2002
tên trong smục kê. Trong quá trình sử dụng đất, cụ H4 đã thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ thuế với cơ quan Nhà nước.
Đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp “Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất” giữa ông Trung N1 ông Văn K liên quan đến
thửa đất 160 nêu trên, các đương sự trong vụ án này đều xác định thửa đất số 160
di sản của cụ H4 để lại (được ghi nhận tại Bản án dân sự thẩm số
26/2016/DS-ST ngày 02/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, Bản án
dân sự phúc thẩm số 198/2016/DS-PT ngày 30/8/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh
Bến Tre, Quyết định giám đốc thẩm số 291/2019/DS-GĐT ngày 29/11/2019 của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh).
Từ đó, có đủ căn cứ xác định phần đất tranh chấp là di sản của cH4.
[2.3] Xác định hàng thừa kế và kỷ phần thừa kế:
Những người thuộc hàng thừa kế thnhất của cụ H4 gồm 02 người chồng
của cụ H4 cụ M2 cụ B1 đều đã chết trước cụ H4 và 06 người con gồm ông N
(chết sau cụ H4), D, ông K, ông B, ông T7 (chết trước cụ H4), C3 (chết sau
cụ H4). Do đó, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất được hưởng di sản của cụ
H4 được xác định gồm: D, ông K, ông B, người thừa kế thế vị của ông T7,
người thừa kế của C3 người thừa kế của ông N. Trong đó, ông T7 03
người con ông Trần Quốc H, Nguyễn Thị L bà Nguyễn Thị P nên ông H,
L, P sẽ được nhận phần di sản lẽ ra ông T7 được nhận. C3 chồng
ông Nguyễn Văn Q (đã chết trước năm 1975) 10 người con gồm các ông
Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, Nguyễn Ngọc C, Nguyễn Ngọc C1,
Nguyễn Ngọc M, Nguyễn Thị Ngọc H2, Nguyễn Thị Ngọc T5, Nguyễn Ngọc Q1
(đã chết, không vợ con), Nguyễn Ngọc M1, Nguyễn Ngọc C2 nên 09 người con
còn sống của bà C3 sẽ người được nhận phần di sản lẽ ra bà C3 được nhận từ cụ
10
H4. Ông N vợ bà Dương Thị Đ 02 người con là Thị Hồng T6 bà
Thị L1 nên vợ, con của ông N sẽ là người được nhận phần di sản lẽ ra ông
N được nhận từ cụ H4.
Do cụ H4 chết không đlại di chúc nên di sản của cụ H4 sẽ được phân chia
theo pháp luật. Cụ H4 tổng cộng 06 người con gồm các ông bà: Trần Quốc T7,
Nguyễn Thị Ngọc C4, Lê Văn N, Hồ Văn B, Hồ Thị D, Lê Văn K nên phần đất của
cụ H4 được chia làm 06 phần, mỗi phần tương đương diện tích 22,38m
2
(134,3m
2
/6).
[2.4] Đối với tài sản trên đất:
Đối với phần tài sản trên phần đất hiệu 160a: Trong quá trình tố tụng,
các bên đương sđều thừa nhận căn nhà trên phần đất này là do ông K (nguyên
đơn) sửa chữa lại trên nền nhà gỗ của cụ H4 đã hỏng nên có căn cứ xác định
căn nhà này thuộc quyền sở hữu của ông K.
Đối với phần tài sản trên phần đất hiệu 160b: Theo lời trình bày các
đương svề quá trình sử dụng đất thì C4 các con trên đất từ sau ngày
30/4/1975, sau khi C4 chết, ông T2, T3, ông C, ông M, ông C1 tiếp tục sinh
sống trên đất. Ông K cũng cho rằng từ khi C4 về trên đất thì phần nhà sau,
ông K chỉ xây dựng, sửa chữa nhà phía trước. Do đó, căn cứ xác định nhà trên
phần đất này là của bà C4.
Đối với tài sản nhà vệ sinh n bếp trên phần đất hiệu 160c:
Nguyên đơn bị đơn đều cho rằng do nh xây dựng nhưng không cung cấp
được chứng cứ chứng minh, đồng thời nguyên đơn và bị đơn sử dụng chung các tài
sản này. Do đó, cấp thẩm xác định đây tài sản chung của nguyên đơn bị
đơn là phù hợp.
[2.5] Phân chia di sản thừa kế và xử lý tài sản trên đất:
Do phần đất di sản của cụ H4 để lại chiều ngang giáp Đường N rộng
4,33m nên không đủ chiều rộng tách thửa nếu phân chia từng kỷ phần bằng hiện
vật nên người nhận hiện vật nghĩa vụ hoàn giá trị cho những người thừa kế
khác. Các nguyên đơn được nhận 03 kỷ phần, đồng thời nguyên đơn đang sinh
sống trên phần đất có kí hiệu 160a nhà kiên cố của ông K nên giao phần nhà,
đất cho các nguyên đơn được trọn quyền quản lý, sử dụng phù hợp; nguyên đơn
có nghĩa vụ liên đới hoàn lại giá trị cho những người thừa kế khác, cụ thể:
Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn K được toàn quyền sử dụng đất
trên các phần đất có kí hiệu 160a, 160b, 160c và các tài sản trên đất thuộc các phần
hiệu 160b, 160c. Riêng căn nhà trên đất thuộc thửa 160a tài sản riêng của
ông K.
Đối với kỷ phần của ông N2: Buộc bà Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Lê Văn
K liên đới hoàn trả giá trị 1/6 di sản thừa kế của cụ H4 diện tích 134,3m
2
/6 =
22,38m
2
giá trị theo kết quả định giá 895.200.000 đồng cho ông Trần Quốc
H, Nguyễn Thị L Nguyễn Thị P. Do không xác định được địa chỉ của L,
bà P nên tạm giao cho ông H quản lý toàn bộ.
11
Đối với kỷ phần của C4: Buộc Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn
K liên đới hoàn trả giá trị 1/6 di sản thừa kế của cụ H4 diện tích 134,3m
2
/6 =
22,38m
2
giá trị theo kết quả định giá 895.200.000 đồng giá trị phần nhà
sau trên phần hiệu 160b (tài sản của bà C4) gtrị 26.972.000 đồng
(521.700 đồng x 51,7m
2
) cho các người con còn sống của bà Nguyễn Thị Ngọc C4
gồm các ông bà Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, Nguyễn Ngọc C, Nguyễn
Ngọc C1, Nguyễn Ngọc M, Nguyễn Thị Ngọc H2, Nguyễn Thị Ngọc T5, Nguyễn
Ngọc M1, Nguyễn Ngọc C2. Tuy nhiên, do Nguyễn Thị Ngọc H2, Nguyễn
Thị Ngọc T5, ông Nguyễn Ngọc M1, ông Nguyễn Ngọc C2 không đơn yêu cầu
chia di sản thừa kế nên giao cho ông Nguyễn Ngọc T2, bà Nguyễn Thị Ngọc T3,
ông Nguyễn Ngọc C, ông Nguyễn Ngọc C1, ông Nguyễn Ngọc M được nhận, phần
của bà H2, bà T5, ông M1, ông C2 (nhận thừa kế chung với 05 bị đơn) sẽ tạm giao
cho ông T2 quản lý. Đồng thời, buộc các nguyên đơn hoàn trả ½ giá trị tài sản trên
phần đất thuộc thửa 160c (nhà bếp, nhà vệ sinh, nhà tắm) giá trị 3.814.000
đồng [(405.800 đồng x 18,8m
2
)/2] cho các ông Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị
Ngọc T3, Nguyễn Ngọc C, Nguyễn Ngọc C1, Nguyễn Ngọc M. Do phần nhà, đất
các nguyên đơn được trọn quyền quản lý, sử dụng nên các bị đơn ông Nguyễn
Ngọc T2, bà Nguyễn Thị Ngọc T3, ông Nguyễn Ngọc C, ông Nguyễn Ngọc C1,
ông Nguyễn Ngọc M và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Thanh
H1 phải nghĩa vụ di dời đi nơi khác để giao trả nhà, đất, tài sản trên đất cho các
nguyên đơn.
Đối với kỷ phần của ông N: Khi ông N còn sống, mặc ông N cùng D,
ông B đã lập “Tờ tương phân”, tuy nhiên nội dung “Tờ tương phân” chỉ thể hiện
ông N, D, ông B đồng ý để ông K được đứng tên quyền sử dụng đất sở hữu
nhà nên không căn cứ để xác định ông N, D, ông B tchối nhận di sản thừa
kế của cụ H4. Hơn nữa, vào thời điểm này di sản thừa kế của cụ H4 chưa được
phân chia nên chưa xác định được kỷ phần mỗi người thừa kế của cụ H4 được
nhận là bao nhiêu. Ông N đã chết năm 2010, các con của ông N là bà Thị Hồng
T6Thị L1 yêu cầu được nhận kỷ phần thừa kế lẽ ra ông N được nhận;
Dương Thị Đ vợ ông N ý kiến không tranh chấp, đồng ý để T6, L1
nhận kphần thừa kế ông N được nhận nên sở chấp nhận yêu cầu độc lập
của T6 L1 về việc yêu cầu được nhận 1/6 di sản của cụ H4. Do đó, buộc
Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Lê Văn K liên đới hoàn trả giá trị 1/6 di sản thừa
kế của cụ H4 Thị Hồng T6 Thị L1 diện tích 134,3m
2
/6 =
22,38m
2
có giá trị theo kết quả định giá là 895.200.000 đồng.
Từ những nhận định trên, cấp thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phù hợp, nguyên đơn kháng cáo nhưng
không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu của mình
nên không được chấp nhận.
[3] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp với nhận định
của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông
Văn K phải chịu án phí theo quy định. Tuy nhiên, ông K người cao tuổi nên
12
được miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn K;
Giữ nguyên Bản án thẩm số: 85/2024/DS-ST ngày 14/6/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
Áp dụng các Điều 649, 650, 651, 660, 688 Bộ Luật dân sự năm 2015; các
Điều 167 170 Luật Đất đai năm 2013, Điều 12 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Hồ Thị D,
ông Hồ Văn B, ông Lê Văn K.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của các bị đơn ông Nguyễn Ngọc T2,
Nguyễn Thị Ngọc T3, ông Nguyễn Ngọc C, ông Nguyễn Ngọc C1, ông Nguyễn
Ngọc M.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
ông Trần Quốc H; bà Lê Thị Hồng T6 và bà Lê Thị L1.
Chia thừa kế cho bà Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn K mỗi người
được nhận phần đất diện tích 22,38m
2
thuộc một phần thửa đất số 160, tờ bản
đồ số 11, tọa lạc phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Chia thừa kế cho ông Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, ông
Nguyễn Ngọc C, ông Nguyễn Ngọc C1, ông Nguyễn Ngọc M được nhận chung giá
trị phần đất diện tích 22,38m
2
thuộc một phần thửa đất số 160, tờ bản đồ số 11,
tọa lạc phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre với số tiền 895.200.000 đồng do
Hồ Thị D, ông HVăn B, ông Văn K nghĩa vụ liên đới hoàn trả. Trong đó,
phần thừa kế của Nguyễn Thị Ngọc H2, Nguyễn Thị Ngọc T5, ông
Nguyễn Ngọc M1, ông Nguyễn Ngọc C2 được nhận thừa kế chung với ông
Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, ông Nguyễn Ngọc C, ông Nguyễn
Ngọc C1, ông Nguyễn Ngọc M do những người này chưa có yêu cầu nên tạm giao
cho ông Nguyễn Ngọc T2 quản lý.
Chia thừa kế cho ông Trần Quốc H, Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị P được nhận
chung giá trị phần đất diện tích 22,38m
2
thuộc một phần thửa đất số 160, tờ bản
đồ số 11, tọa lạc phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre với stiền 895.200.000
đồng doHồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn K nghĩa vụ liên đới hoàn trả.
Do không xác định được địa chỉ của Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị P nên tạm
giao cho ông Trần Quốc H quản lý toàn bộ số tiền này.
13
Chia thừa kế cho Thị Hồng T6 Thị L1 được nhận chung giá
trị phần đất diện tích 22,38m
2
thuộc một phần thửa đất số 160, tờ bản đồ số 11,
tọa lạc phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre với số tiền 895.200.000 đồng do
Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Lê Văn K có nghĩa vụ liên đới hoàn trả.
Buộc Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn K liên đới hoàn trả giá trị
phần nhà sau trên phần đất hiệu 160b giá trị là 26.972.000 đồng cho các
ông bà Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, Nguyễn Ngọc C, Nguyễn Ngọc
C1, Nguyễn Ngọc M, Nguyễn Thị Ngọc H2, Nguyễn Thị Ngọc T5, Nguyễn Ngọc
M1, Nguyễn Ngọc C2; đồng thời, buộc bà HThị D, ông Hồ Văn B, ông Văn
K liên đới hoàn trả ½ giá trị tài sản trên phần đất thuộc phần hiệu 160c (nhà
bếp, nhà vệ sinh, nhà tắm) giá trị 3.814.000 đồng cho các ông Nguyễn
Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, Nguyễn Ngọc C, Nguyễn Ngọc C1, Nguyễn Ngọc
M.
Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn K được toàn quyền sử dụng các
phần đất hiệu 160a, 160b, 160c (tổng diện tích 134,3m
2
), thuộc một phần
thửa 160, tbản đồ số 11, tọa lạc phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre các tài
sản trên đất thuộc phần hiệu 160b, 160c sau khi thực hiện xong nghĩa vụ
hoàn trả giá trị di sản cho các người thừa kế nêu trên. Riêng căn nhà trên đất thuộc
thửa 160a tài sản riêng của ông Văn K. (các phần đất hồ đo đạc theo
yêu cầu của Tòa án do Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố B cung
cấp ngày 15/9/2023 kèm theo).
Buộc ông Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, ông Nguyễn Ngọc C,
ông Nguyễn Ngọc C1, ông Nguyễn Ngọc M, bà Trần Thị Thanh H1 phải nghĩa
vụ di dời đi nơi khác để giao trả nhà, đất, tài sản trên đất cho bà Hồ Thị D, ông Hồ
Văn B, ông Văn K.
Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn K được quyền liên hệ quan, tổ
chức thẩm quyền để được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với phần diện tích đất được nhận thuộc các phần kí hiệu 160a, 160b, 160c nêu
trên theo quy định pháp luật.
Buộc ông Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3, ông Nguyễn Ngọc C,
ông Nguyễn Ngọc C1, ông Nguyễn Ngọc M, bà Trần Thị Thanh H1 không được
làm thay đổi hiện trạng đất tài sản trên đất khi giao nhà, đất cho bà Hồ Thị D,
ông Hồ Văn B, ông Lê Văn K.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật
quy định khác.
[2] Về chi phí tố tụng:
14
Chi phí xem xét thẩm định, đo đạc, định giá tài sản 11.904.000 đồng:
Buộc Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn K mỗi người chịu 1/6 số tiền nêu
trên là 1.984.000 đồng; buộc các ông Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị Ngọc T3,
Nguyễn Ngọc C, Nguyễn Ngọc C1, Nguyễn Ngọc M liên đới chịu 1/6 là 1.984.000
đồng; buộc ông Trần Quốc H, Nguyễn Thị L Nguyễn Thị P liên đới chịu 1/6
1.984.000 đồng; buộc Thị Hồng T6 Thị L1 liên đới chịu 1/6
1.984.000 đồng. Thị Hồng T6 Lê Thị L1 đã tạm ứng 5.000.000 đồng
và quyết toán xong. Số tiền còn lại do các nguyên đơn ông Lê Văn K, bà Hồ Thị D,
ông Hồ Văn B đã nộp tạm ứng nên buộc các ông bà Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Thị
Ngọc T3, Nguyễn Ngọc C, Nguyễn Ngọc C1, Nguyễn Ngọc M liên đới hoàn trả
cho Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Văn K số tiền 1.984.000 đồng; buộc các
ông bà Trần Quốc H, Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị P liên đới hoàn trả lại cho ông
Văn K, bà Hồ Thị D, ông Hồ Văn B số tiền 1.984.000 đồng.
[3] Về án phí:
[3.1] Án phí sơ thẩm:
- Bà Hồ Thị D, ông Hồ Văn B, ông Lê Văn K được miễn
- Hoàn trả cho ông Hồ Văn B số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.250.000
đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009920 ngày 17/10/2022
của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
- Buộc các ông bà Nguyễn Thị Ngọc T3, Nguyễn Ngọc C, Nguyễn Ngọc C1,
Nguyễn Ngọc M liên đới chịu 38.856.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền
tạm ứng án phí đã nộp 3.363.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0010154 ngày 29/12/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bến
Tre. Các ông bà Nguyễn Thị Ngọc T3, Nguyễn Ngọc C, Nguyễn Ngọc C1, Nguyễn
Ngọc M còn phải liên đới nộp 35.493.000 đồng. Riêng ông Nguyễn Ngọc T2
người cao tuổi nên được miễn.
- Buộc ông Trần Quốc H, Nguyễn Thị L Nguyễn Thị P liên đới
chịu 38.856.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
500.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010128 ngày
19/12/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bến Tre. Ông Trần Quốc H,
Nguyễn Thị L và bà Nguyễn Thị P còn phải liên đới nộp 38.356.000 đồng.
- Buộc Thị Hồng T6 Thị L1 liên đới chịu 38.856.000 đồng
nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 500.000 đồng theo Biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010130 ngày 20/12/2022 của Chi cục thi
hành án dân sự thành phố Bến Tre. Thị Hồng T6 Thị L1 còn phải
liên đới nộp 38.356.000 đồng.
[3.2] Án phí phúc thẩm: Ông Lê Văn K được miễn.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 của Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
15
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND thành phố Bến Tre;
- Chi cục THADS thành phố Bến Tre;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Thanh Tòng
Tải về
Bản án số 482/2025/DS-PT Bản án số 482/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 482/2025/DS-PT Bản án số 482/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất