Bản án số 596/2025/DS-PT ngày 26/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 596/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 596/2025/DS-PT ngày 26/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 596/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: PHẠM THỊ HỒNG T YÊU CẦU PHẠM THỊ NGỌC Đ CHIA THỪA KẾ DI SẢN CỦA CHA MẸ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẾN TRE Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 596/2024/DS-PT
Ngày: 26-11-2024
“V/v tranh chấp về thừa kế tài sản”
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Ông Nguyễn Thế Hồng
Các Thm phán: Ông Phan Thanh Tòng
Ông Tôn Văn Thông.
- Thư phiên toà: Trần Thị Diễm Kiều TTòa án nhân dân tỉnh
Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tnh Bn Tre tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Xa Riêng – Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 11 m 2024, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân tỉnh
Bến Tre xét xử phc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 357/2024/TLPT-
DS ngày 11 tháng 10 năm 2024 về tranh chấp về thừa kế tài sản.
Do Bản án dân sự thẩm số: 109/2024/DS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phc thẩm số 4076/2024/QĐ-PT ngày
21 tháng 10 năm 2024, giữa:
- Nguyên đơn:Phạm Thị Hồng T, sinh năm: 1958;
Nơi thường tr: Số E ngõ A, đường N, Khối Y, phường Đ, thành phố V,
tỉnh Nghệ An;
Địa chỉ tạm tr: Ấp H, xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre; có mặt.
- Bị đơn:
1. Bà Phạm Thị Ngọc Đ, sinh năm: 1956;
Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre; có mặt.
2. Ông Trương Văn Đ1, sinh năm: 1957;
Địa chỉ: H, khu phố F, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre; có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật Nguyễn Thị
B Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc Hội Luật gia tỉnh B; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Phạm Thị H, sinh năm: 1937. Địa chỉ: Số E, ấp T, T, huyện G, tỉnh
Bến Tre.
Người đại diện theo y quyền của Phạm Thị H: Ông Nguyễn Văn T1,
sinh năm: 1959. Địa chỉ: Số D, ấp C, P, thành phố B, tỉnh Bến Tre (theo n
bản uỷ quyền ngày 14/7/2022); có mặt.
2. Phạm Thị T2, sinh năm: 1953. Địa chỉ: Ấp H, H, huyện G, tỉnh
Bến Tre; có mặt.
3. Phạm Thị T3, sinh năm 1954. Địa chỉ: Ấp B, H, huyện G, tỉnh Bến
Tre; có mặt.
4. Anh Trương Uyên L, sinh năm: 1985. Địa chỉ: H, khu phố F, phường P,
thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Trương Uyên L: Phạm Thị Ngọc
Đ, sinh năm: 1956. Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre (theo văn bản uỷ
quyền ngày 25/7/2023); có mặt.
5. Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Văn T4 - Chtịch Ủy ban nhân dân
huyện G, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Châu Thanh T5 - Trưởng Phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện G, tỉnh Bến Tre (theo văn bản uỷ quyền số
12795/QĐ-UBND ngày 05/11/2024); vắng mặt.
- Người làm chứng do bị đơn tự triệu tập:
Ông Huỳnh Thanh S, sinh năm: 1949;
Địa chỉ: ấp B, xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre; có mặt.
- Người kng cáo: Nguyên đơn Phạm Thị Hồng T; Người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị T2.
- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm;
Trong đơn khởi kiện, đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện, bản tự khai, biên
bản hòa giải, nguyên đơn bà Phạm Thị Hồng T người đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn là ông Huỳnh Minh T6 trình bày:
Phạm Thị Hồng T con ông Phạm Văn C, sinh năm 1915 (chết năm
1979) bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1917 (chết năm 2004). Sinh thời, ông C
Hối S1 được 05 người con gồm: Phạm Thị H, Phạm Thị T3, Phạm Thị T2,
Phạm Thị Ngọc Đ, Phạm Thị Hồng T. Ngoài ra, ông C, H1 không con riêng
hay con nuôi.
3
Ông C, bà H1 chết không để lại di chc. Di sản ông C, bà H1 để lại là thửa
đất số 69, tờ bản đồ số 19, diện tích 8.513m
2
tọa lạc tại H, huyện G, tỉnh Bến
Tre. Nguồn gốc thửa đất này của cha mẹ T tạo lập từ khi còn chiến tranh.
Sau khi ông C mất, các chị em của T lớn lên lập gia đình riêng đi nơi khác ở.
T sống chung nhà với H1, lúc này Đ làm việc Tiền Giang. Đến m
1982 thì bà T về Chợ L sinh sống và làm việc, bà H1 có kêu các con của bà H về
chung sống. Năm 1985 bà Đ có nhà tập thể ở Bến Tre và gia đình bà Đ sinh sống
đó, lc này T2 sống với H1 để chăm lo cho H1. Năm 1986 T chuyển
về dạy học G sống với H1. Năm 1987 Đ về đuổi T đi Đ
thành kiến về việc chồng của bà T là người miền B1. Năm 1988 bà T không còn
sinh sống trên đất, lc y H1 sinh sống với vợ chồng Đ. Đối với phần
đất tranh chấp, các thành viên trong gia đình thay nhau canh tác chứ không riêng
gì bà Đ. Sau khi bà H1 chết, bà Đ là người canh tác đất.
Trước đây, T nghe H1 nói lại là H1 đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) nhưng không biết H1 được cấp
GCNQSDĐ năm nào, cũng không rõ diện tích bao nhiêu. Sau khi H1 chết vài
năm, không biết do sao bà Đ thể làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất từ
H1 sang tên bà Đ mà không có sự đồng thuận của các chị em còn lại. Khoảng
cuối năm 2018, bà T có gặp bà Đ để đặt vấn đề xin một phần đất cất nhà thì bà Đ
không đồng ý và bà Đ cho rằng hiện giờ bà Đ đã được nhà nước cấp GCNQSDĐ
nên bà T không có quyền đòi lại.
Theo T được biết, di sản do người chết để lại nếu không có di chc thì
muốn định đoạt phải có đầy đủ thành phần những người thuộc hàng thừa kế thứ
nhất thống nhất bằng văn bản mới hợp pháp. Tuy nhiên, từ khi mẹ T chết (năm
2004) đến nay chị em T chưa từng họp mặt thống nhất bằng văn bản vấn đề
chia di sản nói trên. Như vậy, hiện nay bà Đ đứng tên quyền sử dụng đất thửa 69,
tờ bản đồ số 19, diện tích 8.513m
2
là không hợp pháp.
Đối với tờ chc ngôn Đ cung cấp, bà T không xác định được có phải
đng chc ngôn của ông C hay không. Tờ chc ngôn này cũng không chữ
ký của người viết chc ngôn.
Đối với quy trình cấp GCNQSDĐ cho Đ, những văn bản chữ
của H1 nhưng T khẳng định H1 không biết chữ, không thể tên vào
những văn bản này chữ hai văn bản cũng khác nhau. Ngoài ra, tại biên
bản họp gia đình ngày 21/10/1999 có thể hiện các chữ ký của bà Phạm Thị H, bà
Phạm Thị T2, bà H và bà T2 xác định đó không phải chữ ký của hai bà và hai bà
không có họp gia đình như biên bản thể hiện.
4
Như vậy xác định, ông C, H1 chết không để lại di chc nên theo quy
định pháp luật thì di sản phải chia cho ng thừa kế thứ nhất của ông C, H1
gồm: Phạm Thị H, Phạm Thị T3, bà Phạm Thị T2, Phạm Thị Ngọc Đ,
Phạm Thị Hồng T. Cụ thể bà T yêu cầu:
1. Hủy GCNQSDĐ cấp cho bà Phạm Thị Ngọc Đ và ông Trương Văn Đ1
đối với thửa 69, tờ bản đồ số 19, diện tích 8.513m
2
tọa lạc H, huyện G, tỉnh
Bến Tre.
2. Chia di sản thừa kế đối với thửa đất số 69, tờ bản đồ số 19, diện tích
8.513m
2
tọa lạc ấp H, H, huyện G, tỉnh Bến Tre thành 6 phần bằng nhau, cụ
thể: 8.513m
2
/6 = 1.418,8m
2
. Như vậy, bà T nhận diện tích 1.418,8m
2
trong tổng
diện tích đất nói trên. T đồng ý để Đ hưởng 02 kphần vì Đ người
đang quản lý, sử dụng đất và thờ cng ông bà. Các người con còn lại của ông C,
H1 mỗi người được nhận 1.418,8m
2
. Theo kết quả đo đạc thì T yêu cầu nhận
phần đất theo đo đạc thực tế thuộc thửa 69b, diện tích 726,9m
2
, còn phần diện tích
của T yêu cầu còn lại thuộc thửa 69c thì T đồng ý để H đứng GCNQSDĐ.
Khi nào cần nhận đất bà T sẽ tự thỏa thuận với bà H để tách ra.
Ngôi nhà của cha mẹ trước đây đã xuống cấp, hỏng, bà Đ đã tháo dỡ,
cất lại nhà mới. Nhà ở, công trình kiến trc trên đất hiện nay là của bị đơn nên
T không tranh chấp, không yêu cầu gì. Về hoa màu trên đất do phía bị đơn
trồng, trường hợp Toà án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của thì đồng ý bồi
thường giá trị hoa màu cho bị đơn. Đối với công sức giữ gìn, tôn tạo đất thì
cho rằng Đ đã quản đất hưởng huê lợi từ khi H1 chết nên không
đồng ý trả công sức cho bà Đ.
Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn là Phạm Thị
Ngọc Đ trình bày:
Cha mẹ là ông Phạm Văn C, Nguyễn Thị H1 có sinh được 10 người
con gồm: Phạm Công N (chết năm 1953 không vợ con), Phạm Thị H, Phạm Thị
P (chết lc nhỏ), Phạm Văn P1 (chết lc nhỏ), Phạm Thị T7 (chết lc nhỏ), Phạm
Thanh N1 (chết lc nhỏ), Phạm Thị T2, Phạm Thị T3, Phạm Thị Ngọc Đ, Phạm
Thị Hồng T.
Về nguồn gốc đất này của ông nội để lại cho cha mẹ bà. Cha mẹ bà
tổng cộng khoảng 10 công đất. Thời Pháp, ông C đi kháng chiến đến 1954 về
nhà sống với gia đình. Năm 1964, bót Lê L1 đóng sát mảnh đất của gia đình nên
lính đốn sạch cây trái trong vườn thành khoảng trống bình địa. Đến năm 1975,
miếng đất thành rừng đầy lau sậy, mặt liếp lạng ngang mặt ao. Cha mẹ già yếu
không sức lao động để cải tạo, trồng tỉa. Năm 1977, ông C cho vợ chồng
Phạm Thị T3 khoảng 01 công đất gần sông đtrồng mía cải thiện cuộc sống. Năm
5
1980 vợ chồng bà T3 về xã H sinh sống nên giao lại 01 công đất đó cho bà canh
tác góp phần nuôi H1. Sau khi mẹ mất (năm 2004), vợ chồng T3 tự
nguyện sung phần đất này vào việc hương hỏa, thờ tự. Năm 1979, công tác
Hội V, do ông C mắc bệnh ung thư nên xin nghỉ dài hạn để chăm sóc ông C,
đến cuối năm ông C qua đời. Khi làm đám 100 ngày của ông C, bà tìm thấy trong
tủ riêng của ông C một tờ chc ngôn, nội dung ông C giao cho bà phải canh tác
đất đai, ruộng vườn, làm ra huê lợi nuôi mẹ bà là bà H1 trong tuổi già và làm mồ
mả tổ tiên, cng giỗ hàng năm.
Sau đó, xin chuyển về Sở V1 để hàng ngày đi vchăm sóc H1 và làm
vườn, ruộng. Lc này H1 mắc nhiều bệnh cần phải người bên cạnh nên
năm 1985 xin thôi việc, về nhà với H1. Năm 1982 kết hôn với ông
Trương Văn Đ1 (công tác ở Sở V1), từ đó vợ chồng bà cùng nhau chăm lo ruộng
vườn và chăm sóc bà H1. Cùng thời gian này, phong trào tập đoàn sản xuất nông
nghiệp phát triển mạnh, chính quyền vận động gia đình bà góp một công
(1.000m
2
) đất ruộng vào tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Thấy nhà chỉ hai mẹ
con mà bà H1 già yếu bệnh tật nên tập đoàn cấp cho bà một công đất ruộng nhận
khoán và là tập đoàn viên bảo đảm sản lượng, làm đầy đủ nghĩa vụ. đất đai còn
hoang vu nên vợ chồng vay mượn 04 chỉ vàng để đầu tư, cải tạo đất. Đến
khi tập đoàn giải thể, xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất để trồng cây lâu
năm. Năm 1984-1985 chính quyền trưng dụng hai mảnh đất của gia đình bà gồm
450m
2
và 700m
2
(bao gồm một con đường ra lộ rộng 2,5m; dài 45m) để làm nhà
kho cho Hợp tác xã T9. Bên cạnh đó, Hợp tác xã trả một số tiền gọi là nhân công
hoa lợi. dùng số tiền đó để làm mộ cho cha, ông nội và mua cho H1 một
áo quan. Năm 1987 Hợp tác xã Thương nghiệp giải thể, Ủy ban bán lại phần đất
trên để thu hồi vốn. Chồng bà là ông Đ1 đi vay mượn bạn được 2,5 chỉ vàng
nộp cho Ủy ban nhân dân xã để phần đất đó trở lại gia đình như cũ. Hàng năm bà
phải thuê người để bồi đắp, săn sóc vườn, cải tạo, tu bổ đất. Năm 1992 bà đề nghị
H1 cắt chia cho bà Phạm Thị H Phạm Thị T2 hai mảnh đất liền kề gần
lộ diện tích khoảng 750m
2
685m
2
với điều kiện mỗi người góp 10 lít
gạo/tháng để góp phần nuôi dưỡng bà H1 nhưng không ai đóng góp gì.
đã bỏ ra rất nhiều công sức, tiền bạc mới phần đất cho huê lợi n
hiên tại. Suốt 43 năm đã gìn giphần đất này. T không sở để khởi
kiện chia thừa kế thửa đất này không còn di sản từ năm 1999. ông
Trương Văn Đ1 được Ủy ban nhân dân huyện G cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu
nhà tài sản gắn liền với đất vào ngày 25/10/2010. Toàn bộ diện tích đất
thuộc quyền sử dụng của bà và ông Trương Văn Đ1. Bà muốn bảo toàn phần đất
này đng như tâm nguyện cuối cùng của cha bà. đã trực tiếp canh tác đất, từ
khi bà H1 còn sống đã giao quyền sử dụng đất cho bà. Bà H1 ốm đau nên tài sản
6
trên đất là do bà tôn tạo, gìn giữ nên bà không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của
bà T.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Phạm Thị Ngọc Đ ông
Trương Văn Đ1 trình bày:
Cả nguyên đơn bị đơn đều thừa nhận phần đất đang tranh chấp nguồn
gốc của ông C, H1 nên đây tình tiết không phải chứng minh. Do đó,
nguyên đơn yêu cầu chia di sản của H1 đối với toàn bộ diện tích đất là không
phù hợp.
Xem xét áp dụng thời hiệu trong việc chia thừa kế: Ông C chết năm 1979,
T khởi kiện vào tháng 7/2022, do đó yêu cầu chia thừa kế của ông C đã hết
thời hiệu theo Đều 623 Bộ luật Dân sự. Hết 30 năm thì người nào đang quản lý,
sử dụng thì được giao quyền sử dụng đất, vì vậy phần di sản của ông C thuộc về
Đ theo quy định.
Thời hiệu chia thừa kế của H1 vẫn còn, tuy nhiên, lc H1 còn sống
đã định đoạt phần tài sản của mình thể hiện ở biên bản họp mặt gia đình, biên bản
ủy quyền thể hiện ý chí của H1. Nguyên đơn cho rằng, tờ uỷ quyền không
giá trị pháp lý thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nội dung của Tờ uỷ quyền chứ
không riêng chữ “Tờ uỷ quyền”. Ý kiến của H1 “thay thế tôi đứng tên
quyền sử dụng đất”, ý chí của bà H1 giao quyền sử dụng đất cho bà Đ. Về biên
bản họp mặt gia đình, qua ghi nhận, xác minh ý kiến của người trực tiếp tham gia
xác nhận biên bản này, cụ thể là ông Nguyễn Văn K người xác nhận ý kiến của
H1, ông trình bày được nghe H1 nói giao quyền sử dụng đất cho bà Đ.
Do đó, tài sản của H1 trong phần tài sản chung của vợ chồng H1 đã định
đoạt rất rõ, thể hiện biên bản, đề nghị của Ủy ban nhân dân H, tính pháp
nhất là Ủy ban nhân dân huyện G đã chuyển tên người sử dụng đất từ bà H1 sang
Đ.
Như vậy, toàn bộ tài sản của ông C, H1 tphần của ông C đã hết thời
hiệu, phần của H1 đã được H1 định đoạt trước khi H1 chết. Đ người
trực tiếp, quản đất từ trước đến nay. Việc Đ trình bày về việc đưa đất vào
Hợp tác xã, sau đó nhận đất lại chứng tỏ là Đ đã trực tiếp quản lý đất trên 30 năm.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và
yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Công nhận bà Đ, ông
Đ1 sử dụng đất hợp pháp. Trường hợp chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giá trị cây trồng trên đất công sức cải
tạo làm tăng giá trị đất của bà Đ, ông Đ1.
Theo đơn yêu cầu độc lập đề ngày 03/8/2022, biên bản hòa giải tại phiên
tòa, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị H người đại diện theo
ủy quyền của H là ông Nguyễn Văn T1 trình bày:
7
Phạm Thị H là con của ông Phạm Văn C và bà Nguyễn Thị H1. Ông C,
H1 đã qua đời, để lại di sản gồm 01 căn nhà một thửa đất diện tích
8.513m
2
thuộc thửa 69, tbản đồ s19, tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre.
H1 chết vào năm 2004, thời điểm đó người đang sống chung với H1 là bà
Phạm Thị Ngọc Đ tiếp tục quản lý, sử dụng ngôi nhà và thửa đất nói trên cho đến
nay, không có ý định chia di sản thừa kế cho chị em theo pháp luật vì bà H1 qua
đời không để lại di chc. Tờ chc ngôn T cung cấp, H không xác định
của ông C vì theo quy định pháp luật di chc phải công chứng, chứng thực của
quan nhà nước có thẩm quyền. Tờ chc ngôn bà Đ cung cấp không công
chứng nên không đng theo quy định pháp luật.
Về quá trình sdụng đất, Đ không trực tiếp canh tác đất từ năm 1979
như Đ trình bày. Năm 1985 T2 người trên đất lc này H1 sinh
sống với bà Đ ở Bến Tre. Năm 1986 bà T về ở trên đất với bà H1, đến năm 1989
bà T đi nơi khác sinh sống, H1 ở trên đất với bà Đ. Năm 1991 H1 có cho
H một phần đất khoảng 800m
2
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng
đất vào năm 1998 nhưng sau khi đo đạc năm 2004 trích lục thì diện tích chỉ
còn 683,3m
2
. Đ trình bày khi sử dụng đất thì đất còn lau sậy, hoang vu
không đng vì ông C, bà H1 đã cải tạo đất, sau khi giải phóng thì tiếp tục trồng
cây trên đất.
Thửa đất số 69, tờ bản đồ số 19, diện tích 8.514,5m
2
tọa lạc tại H là di
sản của cha mẹ H để lại nên H yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật. H
yêu cầu nhận 1.418,8m
2
theo đo đạc thực tế là thửa 69c diện tích 3.226,6m
2
trong
đó gồm phần diện tích H yêu cầu, phần diện tích T2 yêu cầu một phần
diện tích T yêu cầu. H sẽ đại diện nhận đất đứng tên GCNQSDĐ đối với
phần đất này. Trường hợp sau này bà H, bà T2, bà T yêu cầu nhận đất thì các
bà sẽ tự thỏa thuận với nhau. Đồng thời bà H yêu cầu hủy GCNQSDĐ cấp cho
Phạm Thị Ngọc Đ, ông Trương Văn Đ1 đối với thửa đất nêu trên vào ngày
25/10/2010.
Theo đơn yêu cầu độc lập đề ngày 03/8/2022, biên bản hòa giải, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị T2 người đại diện theo uỷ quyền
ông Huỳnh Minh T6 trình bày:
T2 thống nhất với lời trình bày của bà T về nguồn gốc đất và quá trình
sử dụng đất. Thửa đất thửa đất số 69, tờ bản đồ số 19, diện tích 8.514,5m
2
di
sản của cha mẹ để lại nên yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật. T2 u
cầu nhận 1.418,8m
2
, theo đo đạc thực tế thửa 69c, diện tích 3.226,6m
2
, trong
đó gồm phần của bà T2 yêu cầu, phần của bà H yêu cầu và một phần diện tích của
T yêu cầu. T2 thống nhất để bà H đứng tên GCNQSDĐ đối với phần diện
tích này. T8 nhợp sau này T2, bà H, bà T có yêu cầu nhận đất thì các sẽ tự
8
thỏa thuận với nhau. Đồng thời bà T2 yêu cầu hủy GCNQSDĐ cấp cho bà Phạm
Thị Ngọc Đ, ông Trương Văn Đ1 đối với thửa đất nêu trên vào ngày 25/10/2010.
Tại các biên bản hòa giải tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Phạm Thị T3 trình bày:
đồng ý với lời trình bày của Phạm Thị Ngọc Đ về quan hệ huyết
thống, nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất. Năm 1977 cha mẹ bà là ông C, bà
H1 cho bà khoảng 01 công đất để trồng mía. Đến năm 1979 1980 bà nhượng
phần đất này lại cho bà Đ để Đ canh tác, chăm sóc H1 lc tuổi già, về
quê chồng sinh sống tại xã H. Đối với phần đất thuộc thửa đất số 69, tờ bản đồ số
19, diện tích 8.514,5m
2
tọa lạc H hiện do bà Đ, ông Đ1 đứng tên GCNQSDĐ
bà không tranh chấp, không yêu cầu gì. Trường hợp Tòa án chia thừa kế theo yêu
cầu của nguyên đơn, cũng yêu cầu được nhận 01 kỷ phần nhưng đồng ý giao
lại cho bà Đ để làm hương hỏa thờ cng ông bà.
Về tờ chc ngôn bà Đ cung cấp, xác nhận đng là chc ngôn của cha
bà là ông C.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện G trình
bày:
Ngày 23/12/1999, Ủy ban nhân dân huyện C1 GCNQSDĐ cho hộ Phạm
Thị Ngọc Đ, diện tích 7.900m
2
, gồm thửa số 694, 695, 696, tờ bản đồ số 4 tại
H.
Năm 2004, H tiến hành đo đạc tọa độ để cấp đổi GCNQSDĐ. Năm 2010,
hộ Phạm Thị Ngọc Đ đăng chuyển mục đích sử dụng đất từ đất la sang đất
cây lâu năm, diện tích 1.000m
2
thuộc thửa đất số 696, tờ bản đồ số 4, xã H được
Ủy ban nhân dân huyện C2 GCNQSDĐ đất theo đo đạc tọa độ cho bà Phạm Thị
Ngọc Đ và ông Trương Văn Đ1 với tổng diện tích là 8.514,5m
2
thửa đất số 69, tờ
bản đồ số 19, xã H.
Việc cấp GCNQSDĐ năm 1999 cho hPhạm Thị Ngọc Đ cấp đổi
GCNQSDĐ cho bà Phạm Thị Ngọc Đ, ông Trương Văn Đ1 ngày 25/10/2010 là
đng trình tự, thủ tục quy định.
Tại phiên tòa:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Phạm Thị Hồng T là ông
Huỳnh Minh T6 trình bày:
T yêu cầu chia thừa kế tài sản của Nguyễn Thị H1 (chết năm 2004)
để lại thửa đất số 69, tờ bản đố số 19, diện tích 8.514,5m
2
toạ lạc tại H, huyện
G, tỉnh Bến Tre. Hiện con của ông C, H1 gồm các chị em ruột còn sống là
9
H, T2, T, Đ, T3, các người con khác đã chết khi còn nhỏ, không
gia đình nên xác định hàng thừa kế 05 người nêu trên. Nguồn gốc đất các bên
thừa nhận của ông C, H1 thời còn chiến tranh. Tuy nhiên, ông C chết m
1979, trước năm 1979 đất tranh chấp chưa được cấp cho ông C, H1. Sau khi
ông C chết, H1 tiếp tục sử dụng đất. Năm 1998 H1 đã già yếu, sức khoẻ
kém, sống chung với Đ, những người con khác sống riêng nhưng thỉnh
thoảng về thăm H1. Không biết do vì sao bà Đ được cấp GCNQSDĐ vào
năm 1999. Hồ cấp GCNQSDĐ chỉ Tờ uỷ quyền ngày 15/10/1998 Tờ họp
mặt gia đình ngày 21/10/1999 đlàm thủ tục sang tên. Mặt khác, 02 người con
của H1 H và T2 không biết việc làm thủ tục chuyển quyền sdụng đất
từ H1 sang Đ. Thời điểm 1998-1999 Luật đất đai năm 1993 đang hiệu
lực, các biểu mẫu khi thực hiện chuyển quyền sử dụng đất phải theo quy định
pháp luật, ít nhất phảihợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được công chứng,
chứng thực. Hơn nữa, chữ ký Hối trong biên bản họp mặt gia đình thì bà T, bà H,
T2 không thừa nhận H1 không biết chữ. Thời điểm này H1 đã 81-82
tuổi mắt mờ, sức yếu không còn minh mẫn, không thể chủ trì họp gia đình để
chuyển quyền sử dụng đất. Biên bản họp gia đình ngày 21/10/1999 Đ thừa
nhận không phải chữ ký của bà H, bà T2, T3 nên biên bản này không phù hợp.
Vì nếu họp gia đình phải có sự có mặt của tất cả các thành viên trong gia đình và
phải cùng ký tên vào biên bản. Ông Đ1 chồng bà Đ người ghi biên bản nên
không khách quan. Xác nhận của cán bộ sau Tờ ủy quyền nội dung “Nội
dung đơn ủy quyền của bà H1... do tuổi cao sức yếu là đng” như vậy xác nhận
nội dung gì xác nhận sau ngày viết Giấy uỷ quyền thì cũng không đảm bảo tính
khách quan. Ngoài ra, không có người chứng kiến mà chỉ có xác nhận nên không
giá trị. Ý nghĩa của ủy quyền nghĩa A u quyền cho B thực hiện công việc
đó thay cho A, chưa quy định ủy quyền sử dụng đất từ người này sang người
kia, người y quyền chết thì giấy này mất giá trị pháp lý. Do đó, việc chuyển
quyền sử dụng đất từ H1 sang bà Đ không đng. Sau đó từ bà Đ sang tên bà
Đ và ông Đ1 cũng không đng vì ông Đ1 không phải là người tạo lập tài sản. Vợ
chồng bà Đ không mua đất nên ông Đ1 cùng đứng tên quyền sử dụng đất với
Đ không phù hợp. Về di chc của ông C Đ cung cấp không ch
của ông C, không xác nhận, bà T cũng không thừa nhận nên không phải
chứng cứ để xem xét. Giấy trả tiền công huệ lợi bản phô tô do Đ cung cấp,
không có bản gốc, không có giá trị pháp lý, do đó đề nghị không xem xét về việc
đất đưa vào Hợp tác xã sau đó khoán lại cho Đ như Đ trình bày. T xác
định, việc cấp GCNQSDĐ cho H1 năm 1998 là đng quy định pháp luật. Mặc
đất có nguồn gốc là của ông C và H1, tuy nhiên, tại thời điểm H1 được
cấp GCNQSDĐ thì không còn di sản của ông C nên việc bị đơn yêu cầu áp
dụng thời hiệu là không đng. Việc cấp GCNQSDĐ từ bà H1 sang bà Đ, từ bà Đ
sang bà Đ và ông Đ1 không đng, không có giá trị pháp lý nên di sản vẫn còn
10
như ban đầu. Do đó, T u cầu khởi kiện, bà H, T2 yêu cầu độc lập
được chia thừa kế tài sản của bà H1 để lại đối với thửa đất đang tranh chấp là
sở, phù hợp quy định pháp luật, đề nghHội đồng xét xchấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn. T đồng ý để Đ hưởng 02 kỷ phần Đ
người thờ cng ông bà. Các người con còn lại của ông C, bà H1 mỗi người được
nhận 1.418,8m
2
. Theo kết quả đo đạc thì bà T yêu cầu nhận phần đất theo đo đạc
thực tế thửa 69b diện tích 726,9m
2
, n phần diện tích của T yêu cầu còn lại
thuộc thửa 69c thì T, H, bà T2 cùng đứng tên GCNQSDĐ. Khi nào cần nhận
đất T sẽ tự thỏa thuận với H, T2 để tách ra. Về nhà ở, công trình kiến
trc của bị đơn nên T không tranh chấp. Vhoa màu trên đất do phía bị
đơn trồng, trường hợp Tán chấp nhận yêu cầu khởi kiện thì T đồng ý bồi
thường giá trị hoa màu cho bị đơn. Đối với công sức giữ gìn, tôn tạo đất thì T
cho rằng bà Đ đã quản lý đất và hưởng huê lợi từ khiH1 chết nên bà T không
đồng ý trả công sức cho bà Đ.
Đối với yêu cầu huỷ các GCNQSDĐ cấp cho Đ và ông Đ1 thì nguyên
đơn xin rt yêu cầu. Trường hợp Toà án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn thì kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh GCNQSDĐ phù hợp với án
tuyên.
Ông đồng thời là người đại diện theo uỷ quyền của T2 thì bà T2 thống
nhất với ý kiến của bà T.
Bị đơn bà Đ trình bày:
Di sản của mẹ bà là 01ha chứ không phải 8.514,5m
2
như nguyên đơn trình
bày. Nhưng do cha mẹ đã cho H, T2 nên còn lại diện tích này. là
người cùng sử dụng đất với H1 từ khi ông C chết. Ngày 23/12/1999 Ủy ban
nhân dân huyện G ban hành Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số 0831 ngày 10/9/1992 của mẹ bà là Nguyễn Thị H1 để cấp GCNQSDĐ cho
hộ Phạm Thị Ngọc Đ và đã được cấp GCNQSDĐ ngày 23/12/1999. Năm 2010
thực hiện thủ tục cấp đổi GCNQSDĐ, bà ông Trương Văn Đ1 cùng đứng
tên GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số 218607 cấp
ngày 25/10/2010 nên đây không còn là di sản như nguyên đơn trình bày.
Mặt khác, Ủy ban nhân dân huyện G, y ban nhân dân H ng xác nhận
việc cấp GCNQSDĐ qua các giai đoạn là đng trình tự, thủ tục.
Phần diện tích 8.514,5m
2
thửa 69, tờ bản đồ 19 của ông C, H1 thì mỗi
người ½ là 4.257,25m
2
. Ông C chết năm 1979 đã hết thời hiệu khởi kiện nên phần
diện tích 4.257,25m
2
thuộc quyền sử dụng của bà là người đang trực tiếp quản lý
di sản. Phần của bà H1 đã cho bà vào năm 1999 thể hiện ở biên bản họp gia đình
ngày 21/10/1999. H1 cũng đã đến UBND trình bày nguyện vọng của bà,
được chính quyền địa phương chứng thực. Thời điểm bà H1 lớn tuổi, già yếu đến
khi chết, bà đã lo chu đáo từ thuốc thang đến tang ma. Hiện nay bà vẫn chịu trách
11
nhiệm hương hỏa, cng giỗ ông bà, cha mẹ. Từ năm 1999 đến khi H1 chết, bà
H1 không văn bản khác thay thế n bản tặng cho đó. Từ m 2004 đến nay
không ai có ý kiến hay tranh chấp gì chứng tỏ các chị em đã đồng thuận. Tóm lại,
thửa đất tranh chấp không còn di sản nên không đồng ý chia theo yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
Bị đơn ông Đ1 trình bày:
Ông thống nhất với lời trình bày của vợ ông Phạm Thị Ngọc Đ.
Phạm Thị Hồng T không sở khởi kiện chia thừa kế thửa đất tranh chấp
thực tế ½ diện tích thửa đất phần của ông C (cha vợ của ông) đã hết thời hiệu
khởi kiện; còn lại 4.257,25m
2
của H1 (mẹ vợ của ông) không còn là di sản qua
những biến động khách quan theo thời gian khi ông C chết năm 1979 đến bà H1
chết năm 2004. Năm 1977 lc ông C còn sống có cho T3 một phần đất khoảng
500m
2
. Việc tặng cho này được thể hiện trong Chc ngôn của ông C, bà H1 ng
đã nêu ý chí trong biên bản họp gia đình nội dung thực chất hợp đồng
tặng cho điều kiện ngày 21/10/1999 được Ủy ban nhân dân H chứng thực
sau khi H1 đến Ủy ban nhân dân trình bày nguyện vọng. Nvậy 500m
2
của T3 phải được trừ ra trong số đất của bà H1, số đất của H1 còn lại
3.757,25m
2
. Năm 1982 gia đình đưa vào tập đoàn sản xuất nông nghiệp
1.000m
2
đất ruộng, khi đo đạc thực tế có diện tích 1.614,5m
2
. Phần diện tích này
không thuộc quyền quản của gia đình nữa vì đã thay đổi phương thức sản xuất,
quan hệ sản xuất. Tập đoàn khoán lại cho bà Đ lao động chính. Sau khi Tập
đoàn giải thể, ông và bà Đ đã trực tiếp canh tác, sử dụng ngay tình, liên tục, công
khai từ đó đến nay đã gần 40 năm đã được nhà nước cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Số đất còn lại là 3.757,25m
2
1.614,5m
2
= 2.142,75m
2
. Ngày
23/12/1999 Ủy ban nhân dân huyện G ban hành quyết định thu hồi GCNQSDĐ
của H1 để cấp GCNQSDĐ cho hộ Phạm Thị Ngọc Đ người đồng sdụng.
Như vậy, mỗi người được ½ diện tích là 1.071,375m
2
.
Năm 1984 1985 chính quyền địa phương trưng dụng hai phần đất tổng
diện tích là 1.150m
2
để làm nhà kho chứa đường cho Hợp tác xã mua bán H.
H1 đã đồng ý bán số đất của H1. Như vậy, sđất Hợp tác xã mua bán trưng
dụng đã âm vào số đất của bà Phạm Thị Ngọc Đ được quyền sử dụng (1.150m
2
1.071,375m
2
= 78,625m
2
). Trong biên bản bàn giao đất hoa lợi ngày 03/7/1985
giữa đại diện chính quyền xã và gia đình ở mục 2 có ghi “Hoa lợi: dừa và chuối”
“kể từ giờ pht nầy sau khi lập bảng xong quyền sở hữu thuộc về bên A kể cả đất
hoa lợi”. Như vậy, di sản của bà H1 đã hết. Năm 1987, Hợp tác giải thể, ông
đã mua lại với giá 2,5 chỉ vàng và vợ chồng ông đã trực tiếp quản lý, canh tác từ
đó đến nay đã 36 năm. Trong đơn đăng Quyền sử dụng đất ngày 24/10/1998
của Phạm Thị Ngọc Đ khai: Họ tên (vợ, chồng) của hộ gia đình: Trương
12
Văn Đ1. Như vậy, phần đất ruộng 1.614,5m
2
được Tập đoàn khoán hai phần
đất ông mua lại sau khi Hợp tác mua bán giải thể diện tích 1.150m
2
phải
được xem vợ chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân của Phạm Thị Ngọc Đ
ông Trương Văn Đ1, không còn di sản như T khởi kiện. đó, ông không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 109/2024/DS-ST ngày 16/8/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Giồng Trôm, tnh Bn Tre đã quyt định (tóm tắt):
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phạm
Thị Hồng T yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Phạm Thị H, bà Phạm Thị T2 về việc yêu cầu bà Phạm Thị Ngọc Đ, ông Trương
Văn Đ1 chia thừa kế tài sản là thửa đất số 69, tờ bản đồ số 19, diện tích 8.514,5m
2
tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre.
2. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của Phạm Thị Hồng T, Phạm
Thị H, Phạm Thị T2 về hủy GCNQSDĐ cấp cho ông Trương Văn Đ1, Phạm
Thị Ngọc Đ đối với thửa đất số 69, tờ bản đồ số 19, diện tích 8.514,5m
2
tọa lạc
tại xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về án phí dân sự thẩm, chi phí tố
tụng, quyền kháng cáo của các đương sự, quyền yêu cầu thi hành án.
Ngày 26/8/2024, nguyên đơn Phạm Thị Hồng T và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị T2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm, yêu cầu cấp phc thẩm giải quyết sửa bản án thẩm, chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
Ngày 04/9/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm,
tỉnh Bến Tre kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phc thẩm giải quyết
sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu độc
lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tại phiên tòa phc thẩm:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa giữ
nguyên theo quan điểm kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
Giồng Trôm.
Những người đại diện theo ủy quyền của Phạm Thị Hồng T, Phạm
Thị H, Phạm Thị Thu G nguyên kháng cáo thống nhất kháng nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm.
Bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Thị T3 không
đồng ý với kháng cáo của T, H, T2; không đồng ý với kháng nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, yêu cầu giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
13
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn; không chấp nhận kháng
nghị của Viện kiểm sát.
Kiểm sát viên phát biểu:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử phc thẩm đương sự đã thực hiện đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đnghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật T
tụng dân sự, chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị Hồng T, Phạm Thị H,
Phạm Thị T2; chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
huyện Giồng Trôm; sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 109/2024/DS-ST ngày
16/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre theo hướng chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Hồng T và yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị
T2.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm
tra công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét kháng
cáo của nguyên đơn Phạm Thị Hồng T, xét kháng cáo của những người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Thị H, Phạm Thị T2, xét kháng nghị
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm đề nghị của đại
diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thị Hồng T, đơn kháng cáo
của những người có quyền lợi, nghĩa vliên quan bà Phạm ThH, Phạm Thị
T2; Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKS-DS ngày 04/9/2024 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm còn trong thời hạn luật định nên được
Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục phc thẩm
theo quy định tại các điều 285, 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện G
vắng mặt tại phiên tòa, có yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 của Bộ luật
Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt y ban nhân
dân huyện G.
[2] Về nội dung:
[2.1] Cụ Phạm Văn C cụ Nguyễn Thị H1 tất cả 10 người con gồm:
Phạm Công N (chết năm 1953, không có vợ con), Phạm Thị H, Phạm Thị P (chết
lc nhỏ), Phạm Văn P1 (chết lc nhỏ), Phạm Thị T7 (chết lc nhỏ), Phạm Thanh
N1 (chết lc nhỏ), Phạm Thị T2, Phạm Thị T3, Phạm Thị Ngọc Đ, Phạm Thị
Hồng T. Ngoài ra, cụ C và cụ H1 không con riêng hay con nuôi nào khác. Điều
14
này được các đương sự thừa nhận và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án nên đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật
Tố tụng dân sự. Từ đó, xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ C, cụ H1 gồm 05
người là bà H, bà T2, bà T, Đ và bà T3.
[2.2] Giữa cụ C và cụ H1 tồn tại hôn nhân thực tế theo hướng dẫn tại Nghị
quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội. Các đương sự trình
bày thống nhất về nguồn gốc thửa đất số 69, tờ bản đồ số 19, diện tích 8.514,5m
2
(thửa số 694, 695, 696, cùng tờ bản đồ số 4, diện tích 7.900m
2
) tọa lạc tại
H, huyện G, tỉnh Bến Tre là do cụ C cụ H1 cùng tạo lập. Căn cứ quy định tại
Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì “Vợchồng đều có quyền s
hữu, hưởng thụ sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”,
do đó, cơ sở xác định thửa đất số 69, tờ bản đsố 19
tài sản chung của vợ
chồng cụ C, cụ H1.
Cụ C chết năm 1979 không để lại di chc. Mặc Đ cung cấp cho
Tòa án Tờ chc ngôn có nội dung “Tờ chúc ngôn của cha là Phạm Văn C…” đ
làm cơ sở giải quyết vụ án nhưng đây là bản ptô, không có công chứng, chứng
thực của quan nhà nước thẩm quyền, T, T2, H cũng không xác định
tờ chc ngôn này phải của cụ C viết hay không, vậy, Tờ chc ngôn này
không có giá trị chứng minh. Hơn nữa, theo Tchc ngôn “Phạm Ngọc Đ quản
lý toàn bộ ruộng vườn, nhà cửa, đồ đạc đlàm thêm ra nuôi dưỡng má bây trong
lúc tuổi già…”, hoàn toàn không nội dung nào thể hiện cụ C cho Đ phần
đất hiện nay đang tranh chấp.
Sau khi cụ C chết, cụ H1 đã tiến hành đăng khai để được cấp
GCNQSDĐ. Ngày 10/9/1992, cụ H1 được Ủy ban nhhân dân huyện G cấp
GCNQSDĐ lần đầu đối với các thửa đất số 694 (diện tích 300m
2
, loại đất T), 695
(diện tích 6.600m
2
, loại đất CN), 696 (diện tích 1.000m
2
, loại đất 2L), tổng diện
tích 7.900m
2
, cùng tờ bản đồ số 4. Việc cấp GCNQSDĐ là đng trình tự, thủ tục
theo quy định của pháp luật, thời điểm cụ H1 được cấp GCNQSDĐ các con của
cụ H1 H, T2, bà T, bà Đ, bà T3 đều biết nhưng không ai ý kiến phản
đối hay khiếu nại gì. Như vậy, tài sản chung của vợ chồng cụ C, cụ H1 đã chuyển
thành tài sản riêng của cụ H1 kể từ thời điểm cụ H1 được cơ quan có thẩm quyền
cấp GCNQSDĐ.
Đ cho rằng, trong tổng diện tích đất nêu trên có khoảng 1.000m
2
đất do
Đ mua lại của Hợp tác nhưng Đ không cung cấp được chứng cứ chứng
minh nên không có cơ sở chấp nhận lời trình bày này của bà Đ.
Cụ H1 chết năm 2004 nên căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 688, khoản 1
Điều 623 của Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia
di sản của cụ H1 chết để lại vẫn còn. Do phần đất nêu trên không được xác định
15
là di sản do cụ C chết để lại nên không áp dụng thời hiệu đối với di sản của cụ C
theo yêu cầu của phía bị đơn.
[2.3] Xét tính hợp pháp của việc chuyển quyền sử dụng đất tcụ H1 sang
Đ, thấy rằng:
Cụ H1 là chủ sử dụng hợp pháp các thửa đất số 694, 695, 696, cùng tờ bản
đồ số 4 nên các quyền của người sử dụng đất quy định tại Điều 73 Luật Đất
đai năm 1993. Việc cụ H1 định đoạt quyền sử dụng đất này không cần thiết phải
có sự đồng ý của tất cả những người con của cụ H1.
Theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện: Ngày
23/12/1999, Ủy ban nhân dân huyện G ban hành Quyết định số 1030/QĐ-UB về
việc thu hồi cấp GCNQSDĐ, theo đó, thu hồi GCNQS đã cấp cho cụ
Nguyễn Thị H1 vào ngày 10/9/1992 để cấp GCNQSDĐ cho hộ Phạm Thị Ngọc
Đ với do cH1 già mất sức lao động nên giao quyền sử dụng đất cho con
Phạm Thị Ngọc Đ, căn cứ “Tờ ủy quyền” lập ngày 15/10/1998 của cụ H1 có nội
dung “tôi xin ủy quyền cho con gái tôi là Phạm Thị Ngọc Đ (42 tuổi, giấy chứng
minh nhân dân số 320564239, cấp ngày 27.4.1981) được thay th tôi đứng tên s
quyền sử dụng đất. Đó thực t nguyện vọng thit tha của tôi. Mong quí ban
chấp thuận để gia đình tôi được hoàn thành thủ tục xin cấp sổ quyền sử dụng
đất”. Ở cuối tờ ủy quyền này chữ ký, chữ viết họ tên cụ Nguyễn Thị H1. Xét
tờ ủy quyền này được lập thành n bản, là hình thức của hợp đồng tặng cho tài
sản, theo đó cụ H1 đồng ý tặng cho Đ phần diện tích đất 7.900m
2
do cụ H1
đứng tên là phù hợp quy định tại Điều 461 Bộ luật Dân sự năm 1995. Phía T
cho rằng cụ H1 không biết chữ, không thể ký tên trên tờ ủy quyền này và có yêu
cầu giám định chữ nhưng T không tài liệu chứng minh nên đã rt lại yêu
cầu giám định chữ của cụ H1 trong tờ ủy quyền. Xét mặc chcủa cụ H1
trong tờ ủy quyền không được chứng thực, song tờ ủy quyền này đã được địa
chính Ủy ban nhân dân H xác nhận “Nội dung đơn ủy quyền của bà Nguyễn
Thị H1… ủy quyền sử dụng đất cho con là Phạm Thị Ngọc Đ cùng hộ khẩu với lý
do tuổi cao sức khỏe yu đúng” và được Ủy ban nhân dân H chứng thực.
Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân huyện G đã cấp GCNQSDĐ các thửa đất s694,
695, 696, cùng tờ bản đồ số 4, diện tích 7.900m
2
cho hộ bà Phạm Thị Ngọc Đ vào
ngày 23/12/1999 Đ đã trực tiếp quản lý, sử dụng đất n định từ thời điểm
đó cho đến khi T tranh chấp vthừa kế vào năm 2022. Quá trình sdụng
đất, vợ chồng bà Đ, ông Đ1 đã thực hiện các quyền, nghĩa vụ của người sử dụng
đất theo quy định của pháp luật, chuyển mục đích sử dụng đất, xây cất nhà ở kiên
cố, trồng cây lâu năm trên đất, không bị quan thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính theo các quy định của Nhà nước về xvi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai. Thời điểm cụ H1 còn sống cũng không có ý kiến phản đối, điều
đó thể hiện ý chí của cụ H1 là đã cho bà Đ phần đất nêu trên. Do đó, Hội đồng xét
16
xử công nhận hiệu lực của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ H1
Đ. Tđó, xác định việc Ủy ban nhân dân huyện G cấp GCNQSDĐ các thửa
đất số 694, 695, 696, cùng tờ bản đồ số 4, diện tích 7.900m
2
cho hộ bà Phạm Thị
Ngọc Đ vào ngày 23/12/1999 là đng quy định.
Năm 2004, xã H tiến hành đo đạc tọa độ thành lập bản đồ địa chính chính
quy để cấp đổi GCNQSDĐ trên địa bàn xã thì thửa đất số 694, 695, 696, cùng tờ
bản đồ số 4 có thửa tọa độ là thửa 69, tờ bản đồ số 19.
Năm 2010, hộ bà Phạm Thị Ngọc Đ đăng ký chuyển mục đích sử dụng đất
diện tích 1.000m
2
thửa 696, tờ bản đồ số 4 (thửa tọa độ thuộc một phần thửa 69,
tờ bản đồ số 19) từ đất trồng la sang đất trồng cây lâu năm và được Ủy ban nhân
dân huyện G cấp đổi GCNQSDĐ đứng tên bà Phạm Thị Ngọc Đ ông Trương
Văn Đ1 với diện tích 8.514,5m
2
thuộc thửa 69, tờ bản đồ số 19.
Như vậy, quyền sử dụng đất tại thửa 69, tờ bản đồ số 19 nêu trên không n
là di sản của cụ H1 để lại. Cho nên, yêu cầu khởi kiện của bà T, yêu cầu độc lập
của bà T2, bà H về việc chia di sản thừa kế là không có cơ sở chấp nhận như cấp
sơ thẩm đã giải quyết là phù hợp.
T, T2, H kháng cáo nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng
minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ nên không chấp nhận.
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm
có cùng nội dung như kháng cáo của T, bà T2, bà H, như đã phân tích nêu trên
là không có cơ sở chấp nhận.
Từ những nhận định và căn cứ trên, không chấp nhận kháng cáo của T,
T2, H; không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân huyện Giồng Trôm; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 109/2024/DS-ST
ngày 16/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre (tuy nhiên
có điều chỉnh về căn cứ pháp luật áp dụng).
[3] Xét lời trình bày của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn
là có cơ sở chấp nhận.
[4] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa không phù hợp với
quan điểm của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.
[5] Án phí dân sự phc thẩm: Người kháng cáo thuộc trường hợp người cao
tuổi, đơn xin miễn nộp tiền án phí nên được miễn nộp án phí dân sự phc thẩm
theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thị Hồng T.
17
Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà
Phạm Thị H, bà Phạm Thị T2.
Không chấp nhận kháng nghị số 01/QĐ-VKS-DS ngày 04/9/2024 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Giữ nguyên Bản án dân sthẩm số 109/2024/DS-ST ngày 16/8/2024
của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Cụ thể tuyên:
Áp dụng các điều 623, 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các điều 461,
463, 636, 637, 655, 679 của Bộ luật Dân sự năm 1995; Điều 73 của Luật Đất đai
năm 1993; Điều 15 Luật Hôn nhân gia đình năm 1959; Nghị quyết số
35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội;
Căn cứ các điều 147, 157, 165, 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án;
Xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phạm
Thị Hồng T; Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của những người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị T2 về việc yêu cầu bà Phạm
Thị Ngọc Đ và ông Trương Văn Đ1 chia thừa kế tài sản đối với thửa đất số 69, tờ
bản đồ số 19, diện tích 8.514,5m
2
tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre.
2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu của Phạm Thị Hồng T, Phạm Thị H,
Phạm Thị T2 về việc yêu cầu hủy GCNQSDĐ do Ủy ban nhân dân huyện G
cấp cho Phạm Thị Ngọc Đ ông Trương Văn Đ1 đối với thửa đất s69, tờ
bản đồ số 19, diện tích 8.514,5m
2
tọa lạc tại xã H, huyện G, tỉnh Bến Tre.
3. Chi phí tố tụng:
Phạm Thị Hồng T, Phạm Thị H, Phạm Thị T2 mỗi người phải chịu
2.343.666 (hai triệu ba trăm bốn mươi ba nghìn sáu trăm sáu mươi sáu) đồng. Do
T đã nộp tạm ứng nên buộc T2, bà H mỗi người có nghĩa vụ hoàn trả cho
T số tiền 2.343.666 (hai triệu ba trăm bốn mươi ba nghìn sáu trăm sáu mươi
sáu) đồng.
Ghi nhận Phạm Thị Ngọc Đ, ông Trương Văn Đ1 đã nộp xong chi phí
tố tụng đo đạc, định giá, thu thập quy trình chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất với số tiền là 11.307.000 (mười một triệu ba trăm lẻ bảy nghìn) đồng.
4. Án phí dân sự sơ thẩm: Phạm Thị Hồng T, bà Phạm Thị H, bà Phạm
Thị T2 thuộc trường hợp người cao tuổi được miễn nộp tiền án phí dân sự thẩm
theo quy định của pháp luật.
18
5. Án phí dân sự phc thẩm: Phạm Thị Hồng T, Phạm Thị H,
Phạm Thị T2 thuộc trường hợp người cao tuổi được miễn nộp tiền án phí dân sự
phc thẩm theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Giồng Trôm;
- Chi cục THADS huyện Giồng Trôm;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, VP, P. KTNV&THA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN T
Nguyễn Thế Hồng
Tải về
Bản án số 596/2025/DS-PT Bản án số 596/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 596/2025/DS-PT Bản án số 596/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất