Bản án số 66/2024/DS-PT ngày 17/12/2024 của TAND tỉnh Thái Bình về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 66/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 66/2024/DS-PT ngày 17/12/2024 của TAND tỉnh Thái Bình về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thái Bình
Số hiệu: 66/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp HĐ vay tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THÁI BÌNH
Bản án số: 66/2024/DS-PT
Ngày: 17-12-2024
V/v tranh chp hp đng vay tài sản
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Vũ Đông Giang
Các Thẩm phán: Ông Phạm Ngọc Thành
Nguyễn Thị Thuý Hoàn
- Thư ký phiên tòa:Hoàng Thị Minh Phương Cán bộ Tòa án nhân dân
tỉnh Thái Bình.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình tham gia phiên toà:
Ông Đỗ Hải Bằng - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 12 m 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét x
phúc thẩm công khai vụ án thsố 64/2024/TLPT-DS ngày 23/10/2024 về việc
Tranh chấp hợp đồng vay i sản do bản án dân sự thẩm số: 11/2024/DS-ST
ngày 17/9/2024 của Tán nhân dân huyện Kiến ơng, tỉnh Thái Bình bị kháng
cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 101/2024/QĐPT-DS ngày
26/11/2024; Quyết định hoãn phiên toà số 83/2024/QĐPT ngày 12/12/2024 giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị L, sinh năm 1958
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1969
Cùng cư trú tại địa chỉ: thôn CM, xã MQ, huyện KX, tỉnh Thái Bình.
( Lâm, Ngàn mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, vụ án có nội dung như sau:
* Nguyên đơn Trần Thị L trình bày: Nguyễn Thị N ng sinh
sống tại thôn CM, MQ, huyện KX, tỉnh Thái Bình. Do N làm trang trại phải
đầu nhiều nên thường xuyên vay tiền, vay vàng, vay thóc của bà (vàng thóc
đều quy đổi thành tiền), cụ thể: tngày 14/8/2013 (âm lịch) đến ngày 25/4/2015
(âm lịch) N đã vay nhiều lần, tổng số tiền gốc 500.000.000 đồng, lãi suất
2
1%/tháng, mỗi lần vay đều ghi vào sổ, Ngàn nhận, sau mỗi lần vay N
đều hứa sẽ trả sau từ 07 ngày đến 01 tháng đủ gốc lãi. Tuy nhiên sau mỗi lần
vay tiền của , N đều không trả gốc lãi như thỏa thuận, bà đã nhiều lần đòi
nhưng bà N đều khất lần không trả. Lý do lần vay trước chưa trả được nhưng bà lại
cho N vay tiếp vì bà N năn nỉhứa sẽ trả trong vài ngày. Do thương người
thu nhập từ việc buôn bán nên tiếp tục cho N vay. đã tổng hợp các
lần vay tiền vào 01 tờ giấy, tổng số tiền N đã vay nợ đến ngày 25/4/2015
(âm lịch) 500.000.000 đồng, lãi suất 1%/tháng, N đã công nhận vào t
giấy.
Ny 20/8/2015 (âm lịch) bà cho N vay 71.900.000 đồng, không thỏa thun
i suất, N hứa i ny strả nhưng đến nay vẫn ca trđã nhiều lần đòi.
Ny 05/11/2015 (âm lịch) cho bà N vay 75.000.000 đồng, không thỏa
thuận lãi suất, N hứa vài ngày sẽ trnhưng đến nay ng chưa tr đã nhiu
lần đòi.
N vậy tổng số tiền bà N đã vay là 646.900.000 đồng trong đó có
500.000.000 đồng thỏa thuận i suất 1%/tháng, số tiền còn lại không i suất.
Tkhi bắt đầu cho N vay tin (ny 14/8/2013 âm lịch) đến nay bà liên
tục gặpN yêu cu trnợ nng bà N đều kht nợ, thời gian gần đây mỗi lần bà đòi
tin bà N đều nói do N không biết ch n bà bảo thì ký. N i không biết
ch kng đúng N đã học hết lớp 4, có sc khỏe tốt và tinh thần minh mẫn.
Vì vậy, bà khởi kiện đề nghTòa án nhân n huyện Kiến ơng buộc
Nguyễn ThN phải tr số tiền gốc đã vay 649.900.000 đồng và tiền lãi của số tiền
500.000.000 đồng tiền gốc (nh đến hết tháng 4/2024 âm lịch) 500.000.000 đồng x
1%/tháng x 12 tháng/m x 9 năm = 540.000.000 đồng. Tổng số tiền gốc và lãi bà N
phi trả bà 1.186.900.000 đng.
* Bị đơn Nguyễn Thị N trình bày: người cùng làng với Trần
Thị L, L bán hàng chợ CM, xã MQ, huyện VT. không biết chữ, chỉ biết
viết chữ “N” “Nguyễn Thị N”. Năm 2010 vay thóc của Trần Thị L (bà
không nhớ số lượng) quy ra tiền 50.000.000 đồng, mỗi tháng bà phải trả L
5.000.000 đồng tiền lãi. Bà đã trả lãi đến năm 2013 thì không còn khả năng trả tiền
cho L nữa. Sau đó L nói tiếp tục cho nợ số tiền trên nhưng mỗi tháng
phải trả 20.000.000 đồng tiền lãi, bà trả được 2 tháng tiền lãi 40.000.000 đồng
thì không còn khả năng để trả nợ tiền gốc tiền lãi cho L. Đến năm 2015 (bà
không nhớ ngày tháng cụ thể) bà L nhiều lần đến nhà đòi tiền nhưng không
tiền để trả, sau đó đến nhà L nhận vào giấy do L viết, nội dung
giấy đó viết thì không biết, lúc đó đưa cho L 02 căn cước công dân
của vợ chồng 01 giấy chứng nhận trang trại mang tên Phạm Văn L (chồng
bà) để thế chấp. Naykhẳng định bà không nợ L số tiền gốc và tiền lãi như bà
3
L yêu cầu mà chỉ nbà L số tiền 50.000.000 đồng do mua thóc từ năm 2010,
vẫn chưa tiền để trả bà L. Việc vay thóc, trả lãi, vào giấy vay nđều
giấu chồng là ông Phạm Văn L, ông L không biết không liên quan gì đến
việc này.
* Ông Bùi Xuân T (chồng L) trình bày: Ông biết việc L cho N
vay tiền nhưng không biết cụ thể số tiền cho vay bao nhiêu, lãi suất thế nào? Số
tiền L cho N vay tiền riêng của L (bà L kinh doanh đồ khô tại chợ Cao
Mại) không liên quan đến quyền lợi của ông, ông cũng kinh doanh loa đài nên
cũng tiền riêng. Vì vậy việc Tòa án giải quyết yêu cầu của L đối với N
không liên quan đến ông, ông đề nghị Tòa án không đưa ông vào tham gia tố tụng.
* Ông Phạm Văn L (chồng N) trình y: N không được học hành nên
không biết chữ. L cho N vay 1 lần không trả được tại sao lại vẫn cho vay
tiếp nhiều lần? Vợ chồng ông không chuyện tại sao bà L không thông báo
cho ông biết.
* Đại diện chính quyền địa phương cung cấp:
Trần Thị L Nguyễn Thị N đều trú tại thôn CM, xã MQ, huyện
KX. L bán đồ khô tại chợ CM, bà N làm trang trại, hai không buôn bán
chung, góp vốn chung, chỉ người cùng thôn. N nói không biết chữ không
đúng những người không biết chtrú tại thôn CM thì trưởng thôn đều biết.
Việc L cho N vay tiền bà N vay tiền để làm gì địa phương không biết chỉ
biết N nrất nhiều người. Trang trại của gia đình N chủ yếu do ông Phạm
Văn L (chồng bà N) làm là chính, bà N nợ tiền nhiều người không liên quan gì đến
ông L, kinh tế gia đình ông L ổn định, không thuộc hộ nghèo, cận nghèo của xã.
Tại bản án dân sự thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 17/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đã quyết định:
Căn cứ Điều 147, Điều 235, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụngn sự; Điều
Điều 463, Điều 465, Điều 466 khoản 1 Điều 468 Bộ luật n sự; Điều 24; Điều
26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án. Xử chấp nhận toàn byêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L, cụ thể:
Buộc Nguyễn Thị N phải trả Trần Thị L tổng số tiền 1.186.900.000
đồng (một tỷ, một trăm tám mươi sáu triệu, chín trăm nghìn đồng) trong đó tiền gốc
646.900.000 đồng, tiền lãi là 540.000.000 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong
Nguyễn Thị N còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên ván phí quyền kháng cáo cho các
đương sự theo quy định của pháp luật.
4
Ngày 23/9/2024 Nguyễn Thị N kháng cáo toàn bộ bản án thẩm. đề
nghtuyên giấy biên nhận nợ giữa bà và bà Trần ThL là vô hiệu đồng thời chuyển
hồ sang cơ quan điều tra nếu có dấu hiệu hình sự.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, N không cung cấp thêm tài
liệu, chứng cứ gì chứng minh cho yêu cầu kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Trần Thị L trình bày vẫn giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện. Bđơn Nguyễn Thị N trình bày chỉ vay L số
tiền 50.000.000 đồng quy đổi từ vay thóc năm 2010, số tiền bản án thẩm buộc
phải trả cho L không đúng với số tiền thực tế đã vay; đề nghị cấp phúc
thẩm xét xử lại toàn bộ vụ án để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà.
Hai bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm về việc
giải quyết vụ án: Trong quá trình thụ giải quyết vụ án cấp phúc thẩm,
những người tiến hành tố tụng các đương sự đã chấp hành đúng các quy định
của Bộ luật Tố tụng Dân s. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308
Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Thị N, giữ
nguyên các quyết định tại bản án dân sự thẩm số 11/2024/DS-ST ngày
17/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghn cứu các tài liệu đã thu thập trong h vụ án, ng như
thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét
xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị N làm trong thời hạn
lut định hợp lệ, được xemt, giải quyết theo trình t phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị N thấy:
[2.1] Nguyên đơn Trần Thị L khởi kiện yêu cầu bị đơn Nguyễn Thị N
phải trả số tiền vay gốc 646.900.000 đồng lãi suất 1%/tháng của số tiền
500.000.000 đồng tiền gốc. Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là Biên nhận vay tiền ngày 25/4/2015 (âm lịch) số tiền vay 500.000.000
đồng, lãi suất 1%/tháng, biên nhận có chữ của người vay là bà Nguyễn Thị N
bản ghi chép tay của L đối với hai khoản vay 71.900.000 đồng ngày 20/8/2015
m lịch) 75.000.000 đồng ngày 05/11/2015 (âm lịch). Bị đơn Nguyễn Thị N
cho rằng vay L số tiền gốc là 50.000.000 đồng quy đổi từ vay thóc năm
2010, đã trả đủ tiền lãi L. Ngoài ra không còn nợ L khoản tiền nào
khác.
[2.2] Căn cứ vào cáci liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Từ ngày 14/8/2013 (âm lịch) đến ngày 25/4/2015 bà N đã nhiều lần vay tiền của bà
5
L, đến ngày 25/4/2015 L viết giấy chốt nợ tổng số tiền các lần vay của N
500.000.000 đồng, lãi suất 1%/tháng, N đã tên viết họ tên o biên bản
vay tiền. còn thế chấp khoản vay này bằng 02 n ớc công dân (của bà
của chồng bà ông Phạm Văn L) 01 giấy chứng nhận trang trại mang tên ông
Phạm n L. Đối với khoản vay 71.900.000 đồng tại giấy biên nhận đề ngày
20/8/2015 (âm lịch) khoản vay 75.000.000 đồng ngày 05/11/2015 (âm lịch),
tổng là 146.900.000 đồng, bà N cũng đã ký họ tên vào biên nhận. Tại các giai đoạn
xét xử N đều thừa nhận ch trong biên bản vay tiền đúng chữ của ,
không đưa ra được chứng cchứng minh bị ép buộc, bị lừa dối khi vào
các biên bản y. Bà N trình y do không biết chữ, chỉ biết viết ch“N”
“Nguyễn Thị N” nên khi L bảo vào tờ giấy do bà L viết thì cũng chứ
không biết nội dung các tờ giấy viết là không căn cứ; bà là người đầy
đủ năng lực trách nhiệm dân sự, buộc phải nhận thức được việc o biên
bản vay tiền sẽ làm phát sinh c quyền nghĩa vụ theo quy định của pháp luật;
mặt khác đại diện chính quyền địa phương nơi N cư trú đã c nhận N
biết chữ và có sức khỏe bình thường, tinh thần minh mẫn.
Tại các giai đoạn tố tụng, N không thừa nhận nợ L số tiền như bà L
yêu cầu chỉ thừa nhận nợ L số tiền 50.000.000 đồng quy đổi từ vay thóc
năm 2010, N đã trả lãi cho L đến năm 2013, sau đó L cho tiếp tục nợ
số tiền trên và bà đã trả 02 tháng tiền lãi là 40.000.000 đồng. Lời khai này của bà N
không được bà L thừa nhận. Mặt khác, ngoài lời khai này bà N không đưa ra được
tài liệu chứng cứ nào chứng minh việc bà chỉ vay N số tiền 50.000.000 đồng và
đã trả đủ lãi số tiền vay, do đó Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận.
[2.3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định giữa
Trần Thị L Nguyễn Thị N xác lập giao dịch vay tài sản nhiều lần, với
số tiền gốc đã vay 649.900.000 đồng tiền i của số tin 500.000.000 đồng tiền
gốc (nh đến hết tháng 4/2024 âm lịch) là 540.000.000 đồng, tổng cả tiền gốc i là
1.186.900.000 đồng. Bà N không trnợ như đã tho thun vi phạm nga vụ trả n
theo quy định tại Điều 466 Bluật Dân sự. Do đó, việc Toà án cấp thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của L, buộc N phải trả cho L tổng số tiền gốc
lãi 1.186.900.000 đồng căn cứ, phù hợp với c chứng cứ khách quan của
vụ án. N kháng cáo song không cung cấp được i liệu, chứng cứ chứng minh
cho u cầu kháng cáo của mình. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy không sở
để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của N mà cần giữ nguyên quyết định của bản
án sơ thẩm là phù hợp.
[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tphù hợp với nhận định
của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
[4] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo không được chp nhận n Nguyễn
Thị N phải chịu án phí n sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
6
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 1 Điều 308, Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1
Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn - Nguyễn Thị N, giữ
nguyên các quyết định tại bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày
17/9/2024 của Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
2. Về án p phúc thẩm:
Bà Nguyễn ThN phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Chuyển
số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí N đã nộp theo biên lai số 0002214 ngày
07/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện KX, tỉnh Thái Bình sang thi hành
án phí.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 17/12/2024.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Thái Bình;
- TA, THA huyện KX;
- Các đương sự;
- Lưu HC-TP và hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Vũ Đông Giang
7
Tải về
Bản án số 66/2024/DS-PT Bản án số 66/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 66/2024/DS-PT Bản án số 66/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất