Bản án số 62/2025/DS-PT ngày 21/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 62/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 62/2025/DS-PT ngày 21/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 62/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà N kháng cáo cho rằng phần đất tranh chấp nằm trong thửa đất 313 tờ bản đồ số 33 diện tích là 1.749m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H 01976 ngày 14/12/2006 cấp cho bà N. Tuy nhiên, phần đất tranh chấp này đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã B (nay là thành phố B) xác định rõ là thuộc thửa 291 tờ bản đồ 33 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS 15696 ngày 09/10/2020 cấp cho bà Nguyễn Thị Thanh N (cập nhật biến động ngày 05/3/2021 theo hồ sơ số 053216.CN.003 cho ông Nguyễn Thành T). Do đó, kháng cáo của bà N không có cơ sở để chấp nhận. Ông T và bà P khởi kiện yêu cầu bà N trả phần đất lấn chiếm và tháo dỡ hàng rào lưới B40 cùng 53 trụ bê tông cắm trên đất là phù hợp. Ông T và bà P đồng ý thanh toán cho bà N, ông S, bà T2 giá trị bồi thường cây trồng trên đất theo yêu cầu của bà N.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án s: 62/2025/DS-PT
Ngày: 21-01-2025
V/v tranh chp
quyn s dng đt
CỘNG HÒA XÃ HI CHNGHĨA VIT NAM
Độc lp - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CHNGHĨA VIT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phn Hi đng xét xphúc thm gm có:
Thm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyn Trung Dũng;
Các Thm phán: Bà Đinh Thị Mộng Tuyết;
Bà Nguyn ThDuyên Hng.
- Thư phiên tòa: Ông Trn Ngc Hoàng Quân - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại din Vin kim sát nhân dân tnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Trn ThPhưc - Kim sát viên.
Trong ngày 21 tháng 01 năm 2025, ti trsở Tòa án nhân dân tnh Bình Dương
xét x phúc thm công khai v án dân s th s 523/2024/TLPT-DS ngày
29/10/2024 vvic “Tranh chp quyn sử dụng đt”.
Do Bản án dân sthm s99/2024/DS-ST ngày 16 tháng 7 năm 2024 ca
Tòa án nhân dân thành phố B, tnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2025/QĐ-PT ngày 02 tháng 01
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành T, sinh năm 1972 và Nguyễn Anh P,
sinh năm 1973; cùng địa chỉ: D, T, đường L, phường E, Quận A, thành phố Hồ
Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của ông T P: Ông Minh T1, sinh năm 1973;
địa chỉ: Số F, lô B chung cư T, phường T, quận B, thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản
ủy quyền ngày 18/5/2023); có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1966; địa chỉ: tổ A, khu phố D,
phường C, thành phố B, tỉnh Bình Dương; có mặt.
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Đỗ Quốc H, sinh năm 1973; địa chỉ: Tổ E, khu phố D, phường M, thành
phố B, tỉnh Bình Dương; có mặt.
2. Ông Nguyễn Hoàng S, sinh năm 1987; có mặt;
3. Bà Nguyễn Thị Kim T2, sinh năm 1988; vắng mặt;
Cùng địa chỉ: Tổ A, khu phố D, phường C, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện đề ngày 16/5/2023; đơn khởi kiện bổ sung đề ngày
04/01/2024; ông Minh T1 người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày
trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa:
Vợ chồng ông T, P là chủ sử dụng thửa đất số 291, tờ bản đồ số 33 với diện
tích là 10.588,1m
2
(có 300 m
2
đất đô thị 10.288,1m
2
đất trồng cây lâu năm). Đất
tọa lạc tại phường C, thành phố B, tỉnh Bình Dương. Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của thửa đất số 291 số vào sổ CS 15696 ngày 09/10/2020 cấp cho bà Nguyễn Thị
Thanh N cập nhật biến động ngày 05/3/2021 theo hồ sơ số 053216.CN.003 cho ông
Nguyễn Thành T.
Nguồn gốc đất này ông T P nhận chuyển nhượng từ Nguyễn Thị
Thanh N do ông Đỗ Quốc H đại diện theo ủy quyền. Hợp đồng chuyển nhượng được
ký kết tại Văn phòng công chứng N ngày 23/02/2021. Khi nhận chuyển nhượng đất
thì ông T P nhận chuyển nhượng trọn thửa đất theo trích lục bản đồ địa chính
ngày 21/10/2020. Thực hiện việc chuyển nhượng không đo đạc thực tế thửa đất
trên có diện tích, chiều dài cạnh đất, hình thể, tứ cận rõ ràng.
Giá chuyển nhượng thửa đất trên 14.500.000.000 đồng bao gồm đất cùng
một số cây cao su cây tạp trên đất do N trồng. Ông T cùng P đã trả đủ tiền
cho N. N cùng với ông H đại diện của N đã giao thửa đất trên cùng cây
trồng trên đất cho ông T, bà P.
Sau khi nhận chuyển nhượng đất từ bà N thì ông T và bà P thấy ranh giới đất
đều rõ ràng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà N mới cấp năm 2020 có đo
đạc thực tế nên ông T, bà N không yêu cầu đo đạc lại.
Sau khi nhận chuyển nhượng đất thì ông T P có thuê người cạo mủ cây
cao su trên đất. Do xa nên ông T P ít điều kiện trực tiếp quản đất
lâu lâu có đến trông nom và kiểm tra việc cạo mủ cao su. Đến năm 2023 có nhu cầu
vay vốn ngân hàng nên ông T P tiến hành đo đạc lại thửa đất phát hiện N
cùng con trai của N ông S, con dâu T2 đã xây dựng hàng rào lấn chiếm
đất của ông T, bà P với diện tích đo đạc thực tế là 616,7m
2
. Trên phần đất lấn chiếm
này N cùng các con của N đã làm hàng rào lưới B40 cắm 53 trụ tông;
3
trồng một scây gồm 04 cây mít, 04 cây xoài, 01 y bơ, 03 cây chà là, 01 cây chôm
chôm, 01 cây sầu riêng, 01 cây măng cụt, 05 cây dừa, 30 cây tầm vông, 20 cây trúc.
Các bên giao dịch chuyển nhượng đất gồm ông T, P cùng N ông
H đại diện cho N đều thống nhất thửa đất chuyển nhượng diện tích, tứ cận đất
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất kèm theo trích đo bản vẽ nên tại thời điểm
giao đất thực tế thì các bên không chỉ kỹ từng cột ranh việc mua bán được thực
hiện trên giấy chứng nhận và không có hàng rào cụ thể như hiện nay. Khi bà N giao
đất cho ông T thì thửa đất 291 không htrụ bê tông nào phân chia đất như N
nói. Chính N thừa nhận tại biên bản hòa giải phường C sau khi bán đất cho
ông T thì bà N mới làm hàng rào.
N cho rằng phần đất tranh chấp nằm trong thửa đất 313 tờ bản đồ số 33
diện tích 1.749m
2
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H 01976
ngày 14/12/2006 cấp cho N không đúng. Bởi lẽ phần đất tranh chấp này đã
được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thị B (nay thành phố B) xác định
là thuộc thửa 291 tờ bản đồ 33 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ
CS 15696 ngày 09/10/2020 cấp cho Nguyễn Thị Thanh N (cập nhật biến động
ngày 05/3/2021 theo hồ sơ số 053216.CN.003 cho ông Nguyễn Thành T).
Do đó ông T P khởi kiện yêu cầu N cùng ông S, T2 phải giao trả
phần đất lấn chiếm diện tích 616,7m
2
. Buộc N cùng con N ông S,
T2 phải tháo dỡ hàng rào lưới B40 cùng 53 trụ bê tông cắm trên đất. Đối với một số
cây trồng trên đất do N, ông S, T2 trồng thì ông T P đồng ý thanh toán
lại cho bà N, ông S, bà T2 giá trị thành tiền theo định giá.
Bị đơn Nguyễn Thị Thanh N ý kiến trình bày trong quá trình giải quyết
vụ án:
Trước đây gia đình bà N vay ông Đỗ Quốc H một khoản tiền nên có ký ủy
quyền cho ông H đối với thửa đất 291 với diện tích là 9.047m
2
tờ bản đồ số 33 theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H01975 ngày 14/12/2006. Do giấy
chứng nhận cấp năm 2006 đã lâu nên ông H yêu cầu đo đạc lại đất, cấp lại sổ mới
yêu cầu gia đình N cắm trụ ranh xung quanh đất. Vì vậy, gia đình N đã tiến
hành cắm trụ bê tông xung quanh thửa đất số 291. Giáp thửa đất 291 thì có 01 phần
đất chiều ngang 01 chiều hơn 5 m, 01 chiều hơn 8m của N. Phần đất này
chính là phần đất ông T tranh chấp với N có diện tích đo đạc thực tế là 616,7m2.
Phần đất này là phần còn lại của thửa đất 313 tờ bản đồ số 33 theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số vào sổ H01976 ngày 14/12/2006 cấp cho N. Thửa số 313
này do đường điện 500kv cắt ngang nên còn thừa lại một phần đất giáp thửa 219.
Phần đất này bà N cùng con bà N S, T2 trồng cây ăn trái, nuôi gà… từ năm 2006
đến nay.
Sau khi làm thủ tục đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì N được cấp
lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS15696 ngày 09/10/2020 thửa số 291
4
với diện tích là 10.588,1m
2
. Bà N cũng không hiểu tại sao sau khi đổi sổ thì thửa đất
291 diện tích tăng từ 9.047m
2
lên 10.588,1m
2
.
Ông T nhận chuyển nhượng thửa đất 291 này. Ông H đại diện theo ủy quyền
của bà N đối với thửa đất này nên ông H với ông T ký kết hợp đồng chuyển nhượng
đất, N đồng ý với việc chuyển nhượng đất này. Giá chuyển nhượng
14.500.000.000 đồng N đã nhận đủ tiền của ông T. Ông T cùng ông H hợp
đồng chuyển nhượng vào ngày 23/02/2021. Cùng ngày 23/02/2021 N với ông H
và ông T có mặt tại thửa đất 291, bà N chỉ ranh mốc thửa 291 cho ông T và giao đất
cho ông T. Với sự chứng kiến của ông H thì N đã chỉ ranh mốc đất của thửa
291 cho ông T là thửa đất 291 giáp với phần đất 616,7m2 của bà N. Ranh mốc là 02
trụ tông đầu cuối đất. Do tin ởng nhau không nghĩ sau này tranh
chấp nên N không làm biên bản giao đất xác định rõ ranh mốc đất với ông T.
N xác định chuyển nhượng cho ông T toàn bộ thửa đất 291 theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CS 15696 do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp ngày
09/10/2020 cho bà N với diện tích 10.588,1m
2
. Khi chuyển nhượng đất thì không đo
đạc thực tế lại diện tích đất vì đất mới đo đạc cấp lại sổ đỏ nên dựa vào trích lục bản
vẽ.
Đến tháng 4 năm 2021, dựa trên hai trụ bê tông đã có sẵn, gia đình bà N cắm
những trụ nhỏ hơn thẳng hàng với 02 trụ này và giăng lưới B40 theo các trụ đã đóng
trên đất. Việc cắm trụ ranh xung quanh đất trước khi đo đất cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mới là do một mình ông Nguyễn Hoàng S làm, còn hàng rào lưới
B40 và cắm thêm trụ ranh thì vào tháng 04/2021 bà N cùng các con S, T2 làm.
Trên đất tranh chấp thì bà N cùng ông S, bà T2 trồng một số cây gồm mít, cây
trúc, cây tầm vông trồng khoảng tháng 3 năm 2019. Các cây xoài, cây bơ, cây chôm
chôm, cây sầu riêng, cây măng cụt trồng năm 2021, sau thời điểm rào lưới B40.
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố B xác định phần tranh chấp
diện tích 616,7m
2
thuộc thửa 291 là không đúng.
N xác định phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của N không lấn
chiếm đất của ai. Ông T P khởi kiện như vậy là không đúng, đề nghị Tòa án bác
yêu cầu của ông T, bà P.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ông Nguyễn Hoàng S ý kiến trong
quá trình giải quyết vụ án:
Ông S là con của bà N, thống nhất hoàn toàn với ý kiến của bà N.
Chính ông S người đi cắm trụ ranh tông xác định ranh đất của thửa đất
291 với phần đất còn lại của thửa 313 phần đất hiện tranh chấp 616,7m
2
. Ông S
cùng vợ là bà T2 cùng bà N làm hàng rào, trồng cây trên phần đất 616,7m
2
.
Ông T, bà P khởi kiện không có căn cứ, bà N không lấn chiếm đất của ông T.
Đề nghị Tòa án bác yêu cầu của nguyên đơn.
5
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Nguyễn Thị Kim T2 ý kiến trình
bày trong quá trình giải quyết vụ án:
Trưng là con của N. N chủ sử dụng thửa đất 313 tờ bản đsố 33
diện tích 1.749m
2
phần đất dưới đường dây điện 520kw đi cắt qua. Lúc quy hoạch
đường dây điện chỉ đền nhà cây trồng trên đất chứ không đền đất nên gia
đình T2 được phép canh tác sử dụng từ năm 1994 cho đến nay. Trên đất
ranh rào B40 giáp với đất của ông T.
Riêng phần đất thửa 291 tờ bản đồ số 33 diện tích 10.588m
2
đang tranh chấp
đường ranh bị lấn chiếm, nguồn gốc sau giải phóng năm 1975 do ông cha
mẹ T2 khai phá tạo dựng nên được ông bà tặng cho N từ năm 2006 sử dụng
cho đến nay. N đã chuyển nhượng thửa 291 từ năm 2021 cho ông T. Trên đất có
cột mốc ranh ràng thuận mua vừa bán. Gia đình T2 đã giao giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và đã nhận đủ tiền nên không còn trách nhiệm gì.
Ông T kiện N lấn chiếm đất là không đúng, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án
theo quy định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ông Đỗ Quốc H ý kiến trình bày
trong quá trình giải quyết vụ án:
Trước đây gia đình N vay ông H một khoản tiền nên có ký ủy quyền cho
ông H đối với thửa đất 291 với diện tích 10.588,1m
2
tờ bản đồ s33 theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS15696 ngày 09/10/2020.
Với sự đồng ý của N, ông H đại diện cho bà N chuyển nhượng thửa đất 291
với diện tích 10.588,1m
2
cho ông T. Việc chuyển nhượng sự tham gia đồng ý
của bà N. Giá đất chuyển nhượng giao nhận tiền doN ông T trực tiếp thực
hiện, giao nhận tiền với nhau. Ông H cùng ông T kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất tại phòng công chứng. Việc chuyển nhượng đất thì N và ông T
không thực hiện đo đạc thực tế đất do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà N
được cấp lại vào ngày 09/10/2020. N và ông T thỏa thuận chuyển nhượng buông
sổ (nghĩa là bên chuyển nhượng giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho bên nhận chuyển nhượng làm các thủ tục còn lại sau khi tên tại Văn phòng
công chứng).
Khi chuyển nhượng thì trên thửa đất 291 đã có cắm trụ rào (có chỗ là bê tông,
chỗ cây cọc) đã được N xác lập từ trước (trước khi cấp đổi lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tháng 10/2020). Khi ông T, P nhận chuyển nhượng thì
đất đã có sẵn hàng rào, hai bên mua bán theo hàng rào có sẵn.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H yêu cầu Tòa án kết hợp Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B tiến hành đo đạc lại đất, xem xét việc
thừa thiếu như thế nào. Nếu đủ thì thôi, n thiếu thì hai bên sẽ điều chỉnh lại ranh
mốc theo đúng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
6
Việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông T, P với N không
liên quan gì đến ông H. Ông H không ý kiến về việc tranh chấp trên, đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định, ông H không ý kiến hay yêu cầu gì đối với ông
T, bà P, bà N.
Người làm chứng ông Nguyễn Hữu Đ ý kiến trong quá trình giải quyết vụ
án:
Ông Đ em của N. Theo ông Đ biết thì phần đất hiện nay ông T tranh chấp
với bà N N được cha là ông Nguyễn Văn D cho năm 2006. Bà N đã cắm trụ bê
tông phía trước và sau để xác định phần đất này và sử dụng từ năm 2006 đến nay.
N bán thửa đất 291 cho ông T như thế nào thì ông Đ không rõ. Mua bán
đất thiếu đủ như thế nào thì ông Đ không đất được cha tặng cho thì của ai người
đó hưởng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 99/2024/DS-ST ngày 16 tháng 7 năm 2024, Tòa
án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thành T,
Nguyễn Anh P đối với bị đơn Nguyễn Thị Thanh N về việc: Tranh chấp quyền sử
dụng đất.
- Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh N cùng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Nguyễn Hoàng S Nguyễn Thị Kim T2 trách nhiệm tháo dỡ hàng
rào lưới B40 diện tích 171,84m
2
cùng 53 trụ bê tông giao trả cho ông Nguyễn
Thành T và bà Nguyễn Anh P phần đất có diện tích 616,7m
2
thuộc một phần thửa số
219 tờ bản đồ số 33 cùng cây trồng trên đất gồm 04 cây mít, 04 cây xoài, 01 cây bơ,
03 cây chà là, 01 cây chôm chôm, 01 cây sầu riêng, 01 cây măng cụt, 05 cây dừa, 30
cây tầm vông, 20 cây trúc (đất tọa lạc tại phường C, thành phố B theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS15696 ngày 09/10/2020, cập nhật biến động
chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thành T ngày 05/3/2021) (Có đồ bản vẽ kèm
theo).
- Ông T P được quản lý, sử dụng, sở hữu phần diện tích đất 616,7m
2
cùng cây trồng trên đất.
- Ông T P trách nhiệm liên đới thanh toán cho các ông, N, S, T2
giá trị cây trồng trên đất tính thành tiền là: 11.538.000 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, trách nhiệm thi hành án
và quyền kháng cáo cho các đương sự
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 08/8/2024 Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh
Bình Dương nhận được đơn kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thị Thanh N, N
kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự thẩm số 99/2024/DS-ST ngày 16/7/2024 đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
7
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày vẫn giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các bên đương
sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Bị đơn Nguyễn Thị Thanh N trình bày: Tôi Nguyễn Thị Thanh N, sinh
năm 1966. Tôi ngụ tổ A, khu phố D, phường C, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Đến hôm nay, tôi có gửi đơn kháng cáo đề nghị Tòa án phúc thẩm đo đạc lại miếng
đất tôi sang nhượng lại cho ông Nguyễn Thành T để ra diện tích. Tòa án cấp sơ
thẩm giải quyết như vậy không thoả đáng cho tôi. i muốn đo đạc miếng đất thiếu
hay đủ rồi xử lý tiếp.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Minh T1: Theo hồ sơ xin cấp
giấy vào năm 2020 của bà N, thì N đã xác nhận của chủ đất là xác nhận ranh giới,
mốc giới thực hiện đo đạc chính xác thực tế ranh giới, mốc giới trụ
tông, cam kết ranh giới, mốc giới không thay đổi so với khi được cấp giấy chứng
nhận. Do đó, từ thời điểm cấp mới cho đến hôm nay tại Tòa án thì diện tích đất
Tòa án đo đạc mà bà N đã bán cho ông T thì không có gì thay đổi và đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm công nhận bản án sơ thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểmsát tại phiên tòa:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Phần đất nguyên đơn bị đơn tranh chấp qua đo đạc thực
tế là 616,7m
2
. Trong đó, N, ông S T2 đang trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản
trên đất. Theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/02/2021 (bút
lục 109) thể hiện ông T đã nhận chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất thuộc thửa đất
số 291, tờ bản đồ số 33 được xác định diện tích 10.588,1m
2
không tiến hành
đo đạc thực tế. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng này đã được đo mới lại theo yêu cầu
của N trước đó để đảm bảo việc chuyển nhượng. Diện tích theo Mảnh trích lục
địa chính thể hiện phần đất tranh chấp nằm trên đất N đã chuyển nhượng
cho ông T. Do đó, ông T khởi kiện bà N yêu cầu trả phần đất tranh chấp là có cơ sở.
Tòa cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phù hợp theo quy
định của pháp luật. Tại phiên tòa, phía nguyên đơn đồng ý tăng mức hỗ trợ đối với
tài sản trên đất cho N lên 40 triệu đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng
khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn và sửa một phần bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh
Bình Dương để ghi nhận ý kiến tự nguyện của phía nguyên đơn.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên toà, kết quả tranh tụng của các đương sự tại phiên tòa, ý kiến đại diện Viện
kiểm sát,
8
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thị Thanh N trong thời hạn luật định.
Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.
[1.2] Tại phiên tòa, bà N yêu cầu tiến hành đo đạc lại phần đất tranh chấp với
ông T đã được đo đạc theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 258-2023
ngày 29/12/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thị B (nay thành
phố B). Tuy nhiên, quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn và bị đơn đã đồng
ý với bản vẽ của Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thành phố B. Ngoài ra, bà N
yêu cầu thẩm định giá lại đối với số cây trồng trên phần đất tranh chấp. N
cho rằng kết quđịnh giá cây trồng trên đất tính thành tiền 11.538.000 đồng
thấp và đề nghị tăng mức bồi thường cây trồng trên đất lên 40.000.000 đồng theo
đơn kháng cáo ngày 14/01/2025. Tại phiên tòa, nguyên đơn đồng ý tăng mức bồi
thường cho số cây trồng trên đất 40.000.000 đồng N không ý kiến. Do
đó, xét thấy việc N yêu cầu đo đạc lại đất và định giá cây trồng trên đất là không
cần thiết.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về hiệu lực việc thực hiện hợp đồng: Vào ngày 23/02/2021,
Nguyễn Thị Thanh N ông Đỗ Quốc H (bên chuyển nhượng) với ông Nguyễn
Thành T (bên nhận chuyển nhượng) đã ký kết và thực hiện thủ tục công chứng Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nội dung và hình thức của hợp đồng phù
hợp theo các quy định tại Điều 117 Điều 119 của Bộ luật Dân sự năm 2015,
khoản 3 Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013. Do đó, hợp đồng này giá trị pháp
lý và hiệu lực thi hành đối với các bên.
Sau khi kết hợp đồng, vào ngày 05/03/2021, Chi nhánh Văn phòng Đăng
đất đai thị B (nay thành phố B) đã xác nhận đăng biến động chuyển
nhượng cho ông Nguyễn Thành T quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 291, tờ bản
đồ số 33 tại phường C, thị B (nay thành phố B), tỉnh Bình Dương, diện tích
được ghi nhận 10.588,1m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 399825,
số vào sổ là CS15696. Do đó, có căn cứ để xác định rằng hiện nay ông T và vợ là bà
P có quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 291, tờ bản đồ số 33 nêu trên.
[2.2] Về đối tượng tranh chấp:
[2.2.1] Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có số vào sổ H01975 do Ủy
ban nhân dân huyện B (nay thành phố B) cấp ngày 14/12/2006, thửa đất số 291,
tờ bản đồ số 33 có diện tích là 9.047m
2
. Trong đó, đất ở nông thôn (ONT) là 300m
2
,
đất trồng cây lâu năm 8.225m
2
đất hành lang bảo vệ đường bộ (HLBVĐB)
522m
2
. Sau đó, thông qua quá trình cấp đổi theo yêu cầu của N, N được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 399825, số vào sổ CS 15696 do Chi
9
nhánh Văn phòng Đăng đất đai thị B (nay thành phố B) thừa ủy quyền Sở
Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày 09/10/2020. Theo Công văn số
1165/CNBC-ĐK&CGCN ngày 28/3/2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng đất
đai thị xã B (nay là thành phố B), tại thời điểm này, thửa đất số 291, tờ bản đồ số 33
được xác định diện tích 10.588,1m
2
. Trong đó, đất 300m
2
, đất trồng y lâu
năm là 10.288,1m
2
. Nguyên nhân của việc tăng diện tích đo đạc thực tế so với Giấy
chứng nhận cấp vào ngày 14/12/2006 do chủ sử dụng đất hướng dẫn sai ranh,
xác nhận của Ủy ban nhân dân phường C.
[2.2.2] Về kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất, thể hiện như sau: Căn cứ theo
Mảnh trích lục địa chính đo đạc chỉnh số 258-2023 đề ngày 29/12/2023 của Chi
nhánh Văn phòng Đăng đất đai thị xã B (nay thành phố B), diện tích đang tranh
chấp bao gồm 616,7m
2
(trong đó 35,5m
2
thuộc hành lang an toàn đường b-
HLATĐB), nằm trong phần thửa đất chuyển nhượng 10.588,1m
2
theo Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên. Đồng thời, Công văn số
1165/CNBC-ĐK&CGCN ngày 28/3/2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng đất
đai thị xã B (nay là thành phố B) xác định 616,7m
2
thuộc thửa đất tranh chấp không
thuộc hành lang bảo vệ đường điện 500kV thuộc thửa số 291 theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CS 15696 ngày 09/10/2020 cấp cho N, sau đó cập nhật
biến động chuyển nhượng cho ông T ngày 05/3/2021. Như vậy, phần đất tranh chấp
diện tích 616,7m
2
không thuộc hành lang bảo vệ đường điện 500kV mà thuộc thửa
số 291, tờ bản đồ số 33 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 399825, số
vào sổ là CS15696.
[2.2.3] Theo đơn kháng cáo, N cho rằng đã cắm cột mốc tông theo
Bản tả ranh giới, mốc giới thửa đất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp
năm 2006, do cán bộ đo đạc, công chức địa chính phường lập ngày 10/4/2020. Tuy
nhiên, điều này không làm ảnh hưởng đến việc phần đất tranh chấp nằm trong phần
diện tích mà bà N đã chuyển nhượng cho ông T. N cho rằng phần đất tranh chấp
616,7m
2
không thuộc thửa số 291 mà thuộc phần còn lại của thửa số 313, tờ bản đồ
số 33 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp ngày 14/12/2006 cho N;
thửa số 313 do đường điện 500kV cắt ngang nên còn thừa lại một phần đất diện tích
616,7m
2
giáp thửa số 219. Lời trình bày của N không có tài liệu chứng cứ chứng
minh nên không được chấp nhận. Do đó, có căn cứ xác định phần diện tích 616,7m
2
tranh chấp giữa các bên nằm trong phần diện tích 10.588,1m
2
đã được N chuyển
nhượng toàn bộ cho ông T theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
23/02/2021 (ông T đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 05/3/2021).
Việc bà N lấn chiếm phần đất tranh chấp nêu trên đã xâm phạm đến quyền sử dụng
đất hợp pháp của nguyên đơn cho nên N phải có trách nhiệm trả phần đất này cho
ông T và bà P.
[3] Đối với tài sản hiện trên phần đất tranh chấp, bao gồm 04 cây mít,
04 cây xoài, 01 cây bơ, 03 cây chà là, 01 cây chôm chôm, 01 cây sầu riêng, 01 cây
10
măng cụt, 05 cây dừa, 30 cây tầm vông, 20 cây trúc (đều được trồng vào năm 2020)
hàng rào lưới B40 diện tích 171,84m
2
cùng 53 trụ bê tông. Theo Biên bản định
giá tài sản ngày 10/10/2023 của Tòa án cấp thẩm, các đương sự mặt đã thống
nhất với kết quả định giá 11.538.000 đồng. Việc N kháng cáo cho rằng việc
định giá số cây lâu năm thấp, không tuân theo giá thị trường không phù hợp.
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ý
kiến rằng nguyên đơn đồng thanh toán số tiền 40.000.000 đồng để hỗ trợ bồi
thường các cây trồng trên đất tranh chấp. Xét thấy, đây ý chí tự nguyện của nguyên
đơn nên Tòa án ghi nhận.
[4] Từ những phân tích trên, xét thấy không sở để chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của bị đơn. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá toàn diện các chứng
cứ trong hồ vụ án, đảm bảo quyền lợi ích các bên, xét xử phù hợp với quy
định pháp luật. Phía bị đơn kháng cáo nhưng tại Tòa án cấp phúc thẩm không cung
cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác làm thay đổi nội dung vụ án nên không có căn
cứ chấp nhận kháng cáo của phía nguyên đơn.
[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn Nguyễn Thị Thanh N phải chịu
theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148; khoản 2 Điều 308, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 117 và Điều 119 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban
Thườngvụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng
án phí, lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh N.
2. Sửa một phần bản án sơ thẩm số 99/2024/DS-ST ngày 16 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương như sau:
2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thành T,
Nguyễn Anh P đối với bị đơn Nguyễn Thị Thanh N về việc: Tranh chấp quyền sử
dụng đất.
2.2. Buộc bị đơn Nguyễn Thị Thanh N cùng người quyền lợi, nghĩa v
liên quan ông Nguyễn Hoàng S Nguyễn Thị Kim T2 trách nhiệm tháo dỡ
hàng rào lưới B40 diện tích 171,84m
2
cùng 53 trụ tông giao trả cho ông Nguyễn
Thành T và bà Nguyễn Anh P phần đất có diện tích 616,7m
2
thuộc một phần thửa số
11
219 tờ bản đồ số 33 cùng cây trồng trên đất gồm 04 cây mít, 04 cây xoài, 01 cây bơ,
03 cây chà là, 01 cây chôm chôm, 01 cây sầu riêng, 01 cây măng cụt, 05 cây dừa, 30
cây tầm vông, 20 cây trúc (đất tọa lạc tại phường C, thành phố B theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS15696 ngày 09/10/2020, cập nhật biến động
chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thành T ngày 05/3/2021). (Có đồ bản vẽ kèm
theo).
2.3. Ông T P được quản lý, sử dụng, sở hữu phần diện tích đất 616,7m
2
cùng cây trồng trên đất.
2.4. Ghi nhận sự tự nguyện của ông T P về việc thanh toán cho các ông,
N, S, T2 giá trị cây trồng trên đất số tiền là: 40.000.000 đồng.
Kể từ ngày án có hiệu lực thi hành và người được thi hành án có đơn yêu cầu
thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán hoặc thanh toán không đầy
đủ thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi bằng mức lãi suất quy định tại Điều
357 khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền
thời gian chậm thi hành án.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyễn Thị Thanh N phải chịu 300.000 đồng.
- Ông Nguyễn Thành T Nguyễn Ánh P phải chịu 576.900 đồng được trừ
vào tiền tạm ứng án phí đã đóng 7.503.750 đồng theo Biên lai thu tiền số 0004043
ngày 18/01/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Bến Cát (nay là thành phố B),
tỉnh Bình Dương, ông T P được nhận lại 6.926.850 đồng. P được nhận lại
2.500.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0011384 ngày 09/6/2023 của Chi cục thi
hành án dân sự thị Bến Cát (nay thành phố B), tỉnh Bình Dương. Ông T được
nhận lại 2.500.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0011385 ngày 09/6/2023 của Chi
cục thi hành án dân sự thị xã Bến Cát (nay là thành phố B), tỉnh Bình Dương.
4. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản, sao lục hồ sơ:
Ông T nộp 8.315.994 đồng. N trách nhiệm hoàn trả cho ông T 8.315.994 đồng.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyễn Thị Thanh N phải chịu 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm tại Biên lai số 000800 ngày 08/8/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự.
12
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhn:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố B;
- TAND thành phố B;
- Các đương sự;
- Tổ Hành chính tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HI ĐNG XÉT XPHÚC THM
THM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyn Trung Dũng
Tải về
Bản án số 62/2025/DS-PT Bản án số 62/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 62/2025/DS-PT Bản án số 62/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất