Bản án số 12/2025/DS- ngày 15/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 12/2025/DS-

Tên Bản án: Bản án số 12/2025/DS- ngày 15/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 12/2025/DS-
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận Kháng cáo của ông Phạm Văn G, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 67/2024/DS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 12/2025/DS- PT
Ngày: 15 - 01 - 2025
V/v:“Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
ông Nguyễn Tấn Long
Các Thẩm phán:
ông Phạm Tấn Hoàng
ông Lê Tự
- Thư ký phiên tòa: bà Đinh Thị Trang, Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: bà Bùi Thị Dung, Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 227/2024/TLPT-DS
ngày 01/11/2024 về việc “Tranh chấp quyền sdụng đất yêu cầu huỷ giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự thẩm số 67/2024/DS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2024/QĐ-PT ngày 30 tháng
12 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: ông Phạm Văn G, sinh năm 1964; địa chỉ: tỉnh Thái Bình.
Người đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho ông G:
ông Đào Anh T Luật thuộc Công ty luật TNHH MTV pháp H; địa chỉ:
Tp. Hà Nội; có mặt. (Theo Giấy uỷ quyền ngày 08-11- 2022).
2. Bị đơn:
+ Ông Trần Tiến V; địa chỉ: thôn Đ, xã G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; vắng
mặt.
+ Ông Trần Văn H; địa chỉ: thôn Đ, xã G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; vắng
mặt.
+ Anh Nguyễn Văn T; địa chỉ: thôn B, G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình;
2
vắng mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông T: ông Ngô Tấn L, Văn
phòng luật C, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Bình; có mặt.
+ Anh Nguyễn Văn H; địa chỉ: thôn B, G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình;
vắng mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: ông Ngô Tấn L Luật thuộc
Văn phòng luật sư C Đoàn luật sư tỉnh Quảng Bình; có mặt.
+ Anh Trương Trung N; địa chỉ: tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.
Người đại diện theo y quyền: bà Nguyễn Thị P (vợ ông N); địa chỉ: tỉnh
Quảng Bình; vắng mặt.
+ Anh Trương Văn Đ; địa chỉ: tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.
3- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Quảng Bình; Người bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp có ông Nguyễn Trung H, Phó giám đốc Văn phòng đăng
đất đai tỉnh Quảng Bình; vắng mặt, có gửi văn bản trình bày ý kiến.
3.2. UBND huyện Q, tỉnh Quảng Bình; văn bản đề nghị xét xử vắng
mặt.
3.3. UBND G, huyện Q; địa chỉ: thôn Phú Lộc, G, huyện Q, tỉnh
Quảng Bình; vắng mặt.
3.4. Chị Phạm Thị O; địa chỉ: thôn Đ, G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình;
vắng mặt.
3.5. NThị L; địa chỉ: thôn B, G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; vắng
mặt; (vợ ông Nguyễn Văn T)
3.6. Bùi Thị L; địa chỉ: thôn B, G, huyện Q, tỉnh Quảng nh; vắng
mặt, (vợ ông Nguyễn Văn H)
3.7. Nguyễn Thị P; địa chỉ: thôn Đ H, H T, huyện L T, tỉnh Quảng
Bình; vắng măt, (vợ ông Trương Trung N).
3.8. Nguyễn Thị H; địa chỉ: thôn Đ H, H T, huyện L T, tỉnh Quảng
Bình; có mặt, (vợ ông Trương Văn Đ).
4. Người kháng cáo: nguyên đơn ông Phạm Văn G.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
[1] Theo bản án sơ thẩm, nội dung được tóm tắt như sau:
- Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn trình bày:
N 1979, ông G được ông nội là Phạm Văn S cho 01 diện tích đất tại địa chỉ:
thôn Đ, G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Theo bản đồ giải thửa 299 năm 1993
là thửa đất số 310, tờ bản đồ số 6, thông tin chủ sử dụng là G (hay G). N 1996
1997, nhà nước thực hiện dự án mở rộng đường quốc lộ 1A, đoạn từ M đến
G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Ngày 15/07/1996, ông được cấp Giấy chứng nhận
3
xác nhận nhà cửa, lều nằm trong phạm vi giải tỏa diện tích 218.3m
2
của Ban
giải tỏa 36/CP. Biên bản kiểm tổng hợp của Ủy ban nhân dân huyện Q ngày
26/7/1996 ghi nhận phần đất của gia đình ông bị thu hồi làm đường 218.3m
2
gồm nhà ở và khu phụ. Diện tích đất còn lại sau khi thu hồi giải phóng mặt bằng
157.7m
2
phía bên trong phần đất bị thu hồi. Ngày 10/12/1996, ông được Ủy
ban nhân dân G cấp giấy chứng nhận thửa đất 310, số 06, diện tích 370m
2
,
giải tỏa 218.3m
2
. N 1999 Ủy ban nhân dân G lập sổ mục xác nhận của
Sở địa chính ngày 03/11/2000 trong đó ghi nhận thửa 310, tờ số 6, diện tích
270m
2
(ĐM) – Đất chưa giao.
N 1999, do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên gia đình ông di vào miền
Nam sinh sống và lập nghiệp gia đình ông nhờ bố đẻ ông Phạm Văn Tốn
trông nom. Do ông bố chút mâu thuẫn riêng nên bố ông đã không để ý,
trông nom bị các gia đình phía trong lấn chiếm sử dụng. N 2016, ông quay
trở về quê hương sau gần 20 năm với mong muốn sẽ ổn định cuộc sống quê
nhà thì phát hiện thửa đất của mình đang bị các hộ dân khác lấn chiếm, sử dụng
toàn bộ diện tích, cụ thể các hộ gia đình: Trần Tiến V, Trần Văn H, Nguyễn
Văn T, Nguyễn Văn H các hkhác (ông T, Đ) H T, huyện L T, tỉnh
Quảng Bình. Bất bình trước sự việc trên, ông đã làm việc với các hdân, qua
nhiều lần trao đổi, tuy nhiên đều không có kết quả.
Ngày 20/09/2022, ông G gửi đơn tới Ủy ban nhân dân G thực hiện
hòa giải tranh chấp đất đai, nhưng bên bị đơn không đến làm việc nên các buổi
hòa giải ngày 14/11/2022 ngày 30/11/2022 đều không thành ông công
văn bổ sung sau khi thụ vụ án gửi Uỷ ban nhân dân huyện L T về việc tranh
chấp với gia đình ông N, ông Đ tại H T, huyện L T nhưng UBND huyện L T
văn bản trả lời trường hợp trên thuộc giải quyết của Toà án. vậy ông khởi
kiện đến Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình và yêu cầu giải quyết:
+ Trả lại cho gia đình ông G diện tích đất lấn chiếm tại địa chỉ thôn Đ,
G, huyện Q và thôn Đ H, xã H T, huyện L T, tỉnh Quảng Bình;
+ T hồi, huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho các gia đình
này theo qui định pháp luật;
+ Bồi thường hoa lợi, lợi tức cho ông trong suốt thời gian ln chiếm sử
dụng đất theo qui định tại nghị định 91/2019/NĐ-CP.
- Tại biên bản ghi lời khai, Biên bản hoà giải và tại phiên toà người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn ông Nguyễn Văn H (bị đơn) trình bày: ông
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì các lý do:
Vào năm 2015 vợ chng ông Nguyễn Văn H, Bùi Th L nhn
chuyển nhượng t v chng ông Trn Tiến V, bà Lê Th M mt phần đất có din
tích 323,1 m
2
(ONT: 100 m
2
; BHK: 223,1 m
2
) thuc thửa đất s 207, t bản đồ
4
s 45, ta lc ti thôn Đ, xã G, huyn Q, tnh Qung Bình. Phần đất nhn chuyn
nhưng thuc quyn s dng hp pháp ca v chng ông Trn Tiến V, bà
Th M theo Giy chng nhn quyn s dụng đất s C 0951840, s vào s cp
GCN: 12736 được y ban nhân dân huyn Q cấp ngày 18 tháng 03 năm 1994.
Vic chuyển nhượng trên đã hoàn tất, hai bên đã kết hợp đồng chuyn
nhưng quyn s dụng đất được công chng, chng thc hợp pháp, đúng theo
quy định ca pháp luật. Vào ngày 30 tháng 9 năm 2015 v chng ông Nguyn
Văn H, Bùi Th L đưc y ban nhân dân huyn Q cp Giy chng nhn
quyn s dụng đt, quyn s hu nhà tài sn khác gn lin với đất s CB
502950, s vào s cấp GCN: CH 01618 đối vi thửa đất s 207, t bản đồ s 45,
ta lc ti Thôn Đ, G, huyn Q, tnh Quảng Bình. Sau khi đưc cp giy
chng nhn quyn s dụng đt, v chng anh H đã quản lý, s dng mảnh đất
trên ổn định, lâu dài không tranh chp gì, hin nay v chng ôngHợi đã
xây nhà trên đất.
Thi gian gần đây vợ chng ông H mới được biết ông Phạm Văn G
khi kiện để đòi đt, trong khi v chng anh H không biết ông G ai cũng
không biết nguyên nhân vì đâu mà ông G li khi kin mình. V chng ông H là
những người nhn chuyển nhượng quyn s dụng đất ngay tình, hp pháp, th
tục sang nhượng đúng theo quy đnh ca pháp lut. Nên ông H cho rng vic
ông Phạm n G khi kiện trái quy định ca pháp lut, làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyn và li ích hp pháp ca v chng ông H. Đ ngh Tòa
án bác toàn b yêu cu khi kin ca ông Phạm Văn G không căn cứ xác
đáng, b đơn không chấp nhn vic khi kin của nguyên đơn.
- Tại biên bản ghi lời khai, Biên bản hoà giải và tại phiên toà người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Văn T (bị đơn) trình bày: ông không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì các lý do:
Vào năm 2015 v chng ông nhn chuyển nhượng t v chng ông
Đinh Duy Biên, Trn Th Mnh thửa đất s 180, t bản đồ s 45, din tích
231,7m
2
. Đồng thi v chng ông cũng nhn chuyển nhượng t ông Trn Tiến
V thửa đất 208, t bản đồ s 45, din tích 70,9m2 cùng to lc ti thôn Đ, G,
huyn Q, tnh Qung Bình. V chồng ông đã tiến hành làm các th tc hp hai
thửa đất trên thành thửa đất 209, t bản đồ s 45 vi din tích 302,6m
2
. Th tc
chuyển nhượng quyn s dụng đất trên là đúng theo quy đnh ca pháp lut, hp
đồng chuyển nhượng được công chng, chng thc hợp pháp được cp giy
chng nhn quyn s dụng đất vào ngày 30/9/2015. Đến ngày 25/12/2018, theo
d án cấp đổi giy chng nhn quyn s dụng đất, v chồng ông được S Tài
nguyên và môi trường tnh Qung Bình cấp đổi li. Sau khi cấp đổi li v chng
vn s dụng bình thường không tranh chp vi ai.
5
Thi gian gần đây vợ chng ông mới được biết ông Phạm Văn G khi
kiện để đòi đt, trong khi v chng anh không biết ông G ai cũng không
biết nguyên nhân đâu ông G li khi kin mình. V chng ông nhng
ngưi nhn chuyển nhượng quyn s dụng đất ngay tình, hp pháp, th tc sang
nhượng đúng theo quy định ca pháp luật. Đ ngh Tòa án bác toàn b yêu cu
khi kin ca ông Phạm Văn G.
- Ti biên bn ghi li khai, b đơn ông Trần Tiến V trình bày: Ông được
nhà nước giao đất đ làm vườn mt tin quc l 1A mt mt giáp
với đt ca ông Trn Minh H. Vic s dụng đất ca ông hoàn toàn hp pháp,
đúng quy định pháp luật được cp giy chng nhn quyn s dụng đất ngày
18/3/1994. Nhưng do ranh giới đất gia ông ông Trn Minh H không được
thng nên vào khoảng năm 2001-2004, ông và ông H tho thun vi nhau v
việc đổi chnh li ranh gii cho thng hàng (việc đổi đất đã được UBND xã G
đồng ý. Đến năm 2015, do không còn nhu cầu đ nên ông đã chuyển nhượng
cho v chng ông Nguyễn Văn H và Bùi Th L mt phần đất din tích
323,1m
2
, thửa đất s 207, t bản đồ s 45. Đồng thời ông cũng chuyển nhưng
cho v chngông Nguyễn Văn T, Ngô Th L mt phần đất din tích
70,9m
2
ti thửa đt s 208, t bản đồ s 45 cùng đa ch ti thôn Đ, G, huyn
Q, tnh Qung Bình. Quá trình thc hin chuyển nhượng đều đảm bảo đúng
trình tự, đúng quy định pháp lut. Sau khi thc hin vic chuyển nhượng thì gia
đình ông T, ông H qun lý, s dng ổn đnh, liên tc và không h tranh chp vi
ai.
Nay ông Phạm Văn G khi kiện đ đòi đt, ông không biết ông G ly
được căn c nào để khi kiện đòi lại đất gia đình ông đã s dng mảnh đt
này t lâu trước 1974. V chng ông T, ông H những người nhn chuyn
nhưng quyn s dụng đt ngay tình, hp pháp, th tục sang nhượng đúng theo
quy định ca pháp lut. Ông cho rng vic ông Phạm Văn G khi kin không
căn cứ, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyn li ích hp pháp ca v
chng ông H, ông T. Đ ngh Tòa án bác toàn b yêu cu khi kin ca ông
Phạm Văn G.
- Tại biên bản ghi lời khai, Biên bản hoà giải tại phiên toà ông Trương
Trung N trình bày (bị đơn): Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn vì các lý do:
Ngày 03/6/1994, bố của ông ông Trương Xuân T được Uỷ ban nhân
dân huyện L T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa số 03, tờ bản đồ
số 01 với diện tích 775 m
2
. Đến năm 2004, bố ông làm hợp đồng tặng cho một
phần diện tích trong thửa đất trên cho con trai ông Trương Văn Đ. Ngày
27/5/2004 Uỷ ban nhân dân huyện L T đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
6
đất cho ông Đ tại thửa đất số 368, tờ bản đồ 01 với diện tích 220m
2
. N 2019,
theo dự án cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bố của ông là Trương
Xuân T cũng được cấp lại tại thửa đất số 66, tờ bản đồ số 05 với diện tích 532,
8m
2
và thửa đất này được bố ông tặng cho ông. Việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho vợ chồng ông đúng trình tự quy định pháp luật, không lấn
chiếm đất của nguyên đơn. Đề ngh Tòa án bác toàn b yêu cu khi kin ca
ông Phạm Văn G vì không có căn cứ.
- Tại biên bản ghi lời khai, Biên bản hoà giải và tại phiên toà ông Trương
Văn Đ trình bày (bị đơn): Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn vì các lý do.
Ngày 03/6/1994, bố của ông ông Trương Xuân T được Uỷ ban nhân
dân huyện L T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa số 03, tờ bản đồ
số 01 với diện tích 775 m
2
. Đến năm 2004, bố ông làm hợp đồng tặng cho một
phần diện tích trong thửa đất trên cho ông. Ngày 27/5/2004 Uỷ ban nhân dân
huyện L T đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông tại thửa đất số
368, tờ bản đồ 01 với diện tích 220m
2
. N 2019, theo dự án cấp đổi lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, bố của ông cũng được cấp lại tại thửa đất số 66,
tờ bản đồ s05 với diện tích 532,8m
2
thửa đất này được bố ông tặng cho
Trương Trung N. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng
ông đúng trình tquy định pháp luật, không lấn chiếm đất của nguyên đơn.
Đề ngh Tòa án bác toàn b yêu cu khi kin ca ông Phạm Văn G vì không có
căn cứ.
Đối vi phn diện tích đất ca ông V sau khi đã bán một phần đất cho v
chng anh Nguyễn Văn H, phn còn li thửa đất ông bán cho v chng anh Ngô
Văn Huân và chị Phm Th O, nay v chng ly hôn thửa đất được giao cho v
Phm Th O đứng tên tha s 184, TBĐ s 5, thửa đất sát cnh tha ông Trn
Văn H. Quá trình gii quyết v án, ch O không mt tại địa phương nên Toà
án không th ly li khai hay có ý kiến v vic gii quyết v án ca ch O.
- Uỷ ban nhân dân xã G không có ý kiến trình bày.
- Uỷ ban nhân dân huyện Q tại văn bản số 1036/UBND-TNMT ngày
23/8/2024 nêu ý kiến về yêu cầu khởi kiện của ông Phạm văn G:
Ngày 18/3/1994, ông Trần Tiến V được UBND huyện Q cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tại thửa 309, tờ bản đồ số 6, xã G, huyện Q với diện tích
700 m
2
(đất 200 m
2
đất màu 500m
2
). Ngày 07/7/2006 đã ghi đăng biến
động do nhận chuyển nhượng sử dụng đất, diện tích còn lại 470 m
2
. Ngày
28/6/2010 đã ghi đăng biến động xác nhn thông tin thửa đất tương ng theo
bản đ địa chính thửa đất s 74, t bản đ s 45, din tích 661,7 m
2
. Ngày
02/8/2010 đã ghi đăng biến động do chuyển nhượng quyền sử dụng đất, diện
7
tích còn lại 394 m2. N 2015, ông V, bà M đã tách 394 m
2
ca tha 74, t bản đồ
s 45 thành hai thửa đất s 207 vi din tích 323,1 m2 tha 208, din ch
70,9 m
2
. Tha 207 ông V bà M dã chuyển nhượng cho ông H, bà L và ông H, bà
L đã được cp giy chng nhận năm 2015. Thửa đt s 208 ông V chuyn
nhưng cho ông Nguyễn Văn T và bà Ngô Th L.
Đồng thi ông T và bà L cũng
đã nhận chuyển nhượng quyn s dụng đt ca ông Đinh Duy Biên, bà Trần Th
Mạnh đối vi tha 180 vi din tích 231,7 m
2
và thc hin hp tha hai thửa đất
s 180 và tha 208 thành tha 209, din tích 302,6 m
2
.
Ông T L đã được cp
giy chng nhn quyn s dụng đất ti thửa 209 vào năm 2015.
Đối vi tha 310, t bn đồ 06 Bản đồ gii tha 299 hiệu ĐM:
Theo Công văn số 362/CNVPĐK ngày 23/11/2023 thì không thông tin v h
sơ cấp giấy đối vi thửa đất này.
V thu hi gii phóng mt bng: Theo cung cp thông tin ca Phòng kinh
tế - h tng huyn Q tại công văn s 149/KT&HT ngày 29/8/2022 cung cp
thông tin v thu hi gii phóng mt bng m rộng đường Quc l 1A ti G.
Theo đó tại biên bản đền được lập ngày 22/5/1997 đối vi h ông Phạm Văn
G (thuộc đối tượng h t di chuyn), tha 310, t bản đồ s 06, din tích 370 m
2
s tiền 24.444.000 đồng như sau:
+ Phần đền các hng mc b gii ta khi thc hin Ngh định 36/NĐ-CP
nhà 18,5 m
2
x 220.000 đồng/m
2
= 4.070.000 đồng, khu ph : 5,5 m
2
x 120
đồng/m
2
= 660.000 đồng;
+ Phần đn cho các hng mục khác: Đt 200m
2
x 60.000 đồng/m
2 =
12.000.000 đồng;
Đất ng nghip 170m
2
x 13.200 đồng/m
2
= 2.244.000 đồng;
Phi lao 8 cây x 10.000 đồng/cây = 80.000 đồng.
+ Tr cp khác: tr cấp khó khăn 990.000 đng; Tr cp di chuyn:
4.400.000 đồng.
Trình t th tc cp giy chng nhn quyn s dụng đất UBND huyện đã
căn c vào các quy định ca pháp luật đất đai bản đồ địa chính được cp
thm quyn pduyt ti thời điểm cp giy chng nhn quyn s dụng đất để
thc hin.
Thửa đất s 310 t bản đồ s 06 được th hin trên bản đồ gii tha 299
bản đồ không th hin tọa độ nên chưa xác định được v trí tương ng trên bn
đồ địa chính.
Theo bản đồ gii tha 299 thì thửa đất 310 t bản đồ s 06 có din tích 270
m
2
, ghi loại đất màu nhưng theo h giải phóng mt bng thì phn din tích
được đền đất được xác đnh 370 (bản họa mt bng hin trng công trình
và đt th hiện kích thước 37x10). Đ ngh Tòa án nhân dân tnh liên h vi Chi
8
nhánh Văn phòng đất đai huyện Q trích lc thửa 310 kích thước các cạnh đ
làm rõ s không thng nht v din tích và xét x theo luật định.
- Theo yêu cầu của nguyên đơn, Toà án đã thành lập Hội đồng thẩm định
tại chỗ ngày 05/4/2024. Diện tích theo nguyên đơn dẫn đạc phần diện tích
tranh chấp còn lại sau khi thu hồi giải phòng mặt bằng (năm 1996) diện tích
139m
2
, từ điểm 1, 2, 3, 4, phần diện tích đất này nằm trên các thửa số 184, tờ
bản đồ số 45 cấp cho chị Phạm Thị O diện tích 34,6m
2
(có nguồn gốc nhận
chuyển nhượng của ông V); nằm trên thửa 207, tờ bản đồ số 45 cấp cho vợ
chồng anh Nguyễn Văn H diện tích 36,1m
2
; nằm trên thửa 208 cấp cho vợ
chồng anh Nguyễn Văn T diện tích 32,2m
2
; nằm trên thửa 65, TBĐ số 5 cấp
cho ông Trương Văn Đ diện tích 35,9m
2
; trên diện tích đất tranh chấp
tường rào xây cao 1,8m (nằm thửa 207), 01 quán xây lợp Broximang,
cửa sđơn giản (tại thửa 208), tường xây gạch ống phía Bắc, mái che lợp
tôn và tường rào ở phía Nam (tại thửa 65).
- Tại phiên tòa sơ thẩm: nguyên đơn yêu cầu bổ sung ông Trương Văn T và
bà Phạm Thị O là bị đơn và không kiện ông Trần Văn H.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (ông H, ông T), ông Đ người
đại diện cho ông N không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bởi lẽ ông G đã
được nhà nước đến 100% diện tích thuộc đối tượng phải di dời. Ông T,
ông H, ông N, ông Đ đều nhận chuyển nhượng đất một cách hợp pháp. Đnghị
Tòa xử bác yêu cầu khởi kiện.
- Người làm chứng Trần Thị Đán trình bày: N 1996 ông G không
đăng kết hôn nhưng hai gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục địa
phương. Bà biết việc ông G được nhà nước bồi thường 370 m
2
đất, khi nhận tiền
bồi thường ông G cho 4.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền thì ông đi vào
miền Nam làm ăn hai người không liên quan đến nhau nữa. Theo thì ông
G đã được nhà nước đền bù về đất 100%.
[2] Tại Bản án dân sự thẩm số 67/2024/DS-ST ngày 28 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình quyết định:
Căn cứ khoản 4 Điều 34, Điều 157, Điều 165, khoản 1 Điều 227 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 96, Điều 100 Điều 135, Điều 203 Luật
đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án; xử:
1. Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Phạm Văn G về việc yêu cầu
huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Trần Văn H, Phạm Thị
9
O, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn H, ông Trương Trung N, ông Trương
Văn Đ.
2. Đình chỉ việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn G đối với
ông Trần Văn H.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền
kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.
[3] Kháng cáo:
Ngày 09-9-2024 ông Phạm Văn G kháng cáo toàn bộ bản án thẩm, nêu
do kháng cáo Toà án cấp thẩm chưa xem xét đầy đủ, khách quan các
chứng cứ, tình tiết trong hồ vụ án. Đề nghị huỷ bản án thẩm để xét xử
lại theo thủ tục sơ thẩm.
[4] Tại phiên toà phúc thẩm:
Đại diện của người kháng cáo giữ nguyên đơn kháng cáo, trình bày ý kiến
cho rằng bản án thẩm xác định ông G đã nhận tiền bồi thường diện tích đất
370m2 là chưa đúng với Giấy chứng nhận thực hiện nghị định 36/CP xác nhận
ông G chỉ bị giải toả 218,3m
2
, như vậy còn lại 151,7m
2
. Việc xác định thửa 310
không còn trên bản đồ thì do quan nhà nước. Giấy chứng nhận QSD đất của
ông V, ông T, ông H, ông Đ, O là không đúng diện tíchchồng lên đất của
ông G nên thuộc trường hợp huỷ. Việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ chưa
đưa đầy đủ người liên quan vào tham gia tố tụng. Đề nghị huỷ bản án sơ thẩm.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:
Về tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử
và các bên đương sự đều được đảm bảo, phù hợp với các quy định của pháp luật.
Xem xét kháng cáo: kháng cáo toàn bộ bản án thẩm nhưng không có
sở, bản án sơ thẩm đã tuyên có căn cứ, đúng pháp luật; đề nghị không chấp nhận
kháng cáo của ông Phạm Văn G, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cu các tài liu trong h vụ án căn c vào kết qu
tranh tng ti phiên tòa, Hội đồng xét x nhận định:
[1] Về tố tụng:
Tại phiên tòa thẩm, nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện đối với ông Trần
Văn H nên Hội đồng xét xđình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với
ông Trần Văn H.
Đối với yêu cầu bổ sung thêm người tham gia tố tụng bị đơn là ông Trương
Xuân T (là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số
03, tờ bản đồ 01 vào năm 1994, sau này tặng cho, chuyển nhượng là hai con trai
10
của ông T anh Trương Văn Đ (Thửa 368, tờ bản đồ 01) Trương Trung N
(thửa 66, tờ bản đồ 05), thì thấy: Việc xác định bị đơn và địa chỉ của bị đơn cũng
như các đương sự khác nghĩa vụ của người khởi kiện người yêu cầu.
Bản án sơ thẩm đã xác định ông Trương Văn Đ là bị đơn là hợp lý.
Đối với yêu cầu bổ sung bị đơn Phạm Thị O, Hội đồng xét xử thấy:
Thửa đất O hiện đang sử dụng (thửa 184, tờ bản đồ số 45) nguồn gốc t
việc nhận chuyển nhượng của ông V và ông G đã khởi kiện ông V lấn chiếm đất
nên Tòa án đưa bà O vào tham gia với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan là đúng quy định.
[2] Xem xét yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sdụng đất đã cấp cho
ông Trần Tiến V, anh Nguyễn Văn T, anh Nguyễn Văn H, anh Trương Văn N và
anh Trương Văn Đ tại thôn Đ, xã G, huyện Q thôn Đ H, H T, huyện L T
buộc Phạm Thị O, ông T, ông H, ông Đ, ông N phải trả lại đất lấn chiếm
đồng thời yêu cầu bồi thường hoa lợi, lợi tức cho nguyên đơn trong suốt thời
gian lấn chiếm sử dụng đất:
[2.1]. Theo nguyên đơn, phần diện tích đất đang tranh chấp có nguồn gốc là
phần đất còn lại của thửa đất số 310, tờ bản đồ số 6, theo bản đgiải thửa 299
sau khi bị Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng mở rộng đường Quốc lộ
1A có diện tích 152m
2
. Do ông đi làm ăn xa nên đã bị các hộ ông H, ông V, ông
H, ông T, ông Đ, ông N lấn chiếm. Tuy nhiên, theo kết quả thẩm định đối với
diện tích nguyên đơn dẫn đạc thì phần đất của ông dẫn đạc chỉ đi qua thửa
184 (của ông V bán lại cho bà Phạm Thị O) là 34,6m
2
; thửa 208 (của anh
Nguyễn Văn H) 36,1m
2
; thửa 209 (của anh Nguyễn Văn T) 32,2m
2
và thửa
65 (của anh Trương Văn Đ) 35,9m
2
. Tổng diện tích tranh chấp 138,8m
2
,
không đi qua thửa đất của ông N sử dụng.
[2.2]. Theo các tài liệu trong hồ vụ án lời trình bày của nguyên
đơn thì thửa 310 trước khi bị thu hồi chưa được cấp giấy chứng nhận quyền s
dụng đất.
Theo hđền giải phóng mặt bằng do phòng Nội vụ Uỷ ban nhân dân
huyện Q cung cấp thì kết quả việc đền giải phóng mặt bằng mở rộng đường
Quốc lộ 1A năm 1996, ông G đã được bồi thường tài sản trên đất gồm nhà ở,
khu phụ, cây cối: 4.730.000 đồng + 10.000 đồng/cây; phần đất được đền
200m
2
đất 170m
2
đất vườn với mức đền 100% (theo biên bản đền
ngày 22/5/1997 của Ban giải phóng mặt bằng QL 1A huyện Q). Ông G cũng
nhận được tiền hỗ trợ di dời số tiền 4.400.000 đồng. Tại phiên tòa thẩm, ông
cũng thừa nhận đã nhận tiền đến 100% thửa đất 310 nhưng ông cho rằng,
phần diện tích ông thu hồi chỉ 218 m
2
thì phần diện tích còn lại 158 m
2
vẫn
thuộc quyền sử dụng của ông là không căn cứ. Theo trích lục bản đồ giải
11
thửa đối với thửa 310 thì diện tích 270 m
2
, trong hồ đền giải phóng mặt
bằng ghi diện tích 370 m
2
(có dấu hiệu sửa chữa từ 270 m
2
thành 370 m
2
) và ông
G đã nhận đền 370 m
2
là việc Nhà nước (Hội đồng đền giải phóng mặt
bằng) làm lợi cho người dân thuộc diện giải tỏa. Phần diện tích còn lại (nếu có)
thì đã thuộc quyền quản của nhà nước người nhận được tiền đền không
còn quyền sử dụng đất tại thửa đất đã được nhận tiền đền với mức đền bù
100%.
Theo bản đồ địa chính từ năm 2006-2018 đã không còn thể hiện thửa
310, TBĐ số 06 trên bản đồ. Sau khi nhận tiền đền bù ông G cũng không còn s
dụng phần đất còn lại từ năm 1998 đến nay, không các giấy tờ về quyền sử
dụng đất theo quy định pháp luật cũng không xác định được diện tích, vị trí
đất ở đâu, không có sử dụng đất trên thực tế.
[3] Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy bản án sơ thẩm quyết định
không chấp nhận toàn bộ các yêu cầu khởi kiện tranh chấp đất đai đối với các bị
đơn và người liên quan căn cứ, đúng pháp luật. Người kháng cáo không
tài liệu, chứng cứ mới làm thay đổi nội dung vụ án, nên không chấp nhận kháng
cáo, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn người cao tuổi, đơn xin
miễn án phí theo đúng quy định tại Điều 12 Điều 14 của
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Toà
án, nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Ttụng dân sự năm 2015; không
chấp nhận Kháng cáo của ông Phạm Văn G, giữ nguyên Bản án dân sự thẩm
số 67/2024/DS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Bình.
2. Áp dụng khoản 4 Điều 34, Điều 157, Điều 165, khoản 1 Điều 227 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 96, Điều 100 Điều 135, Điều 203
Luật đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án; xử:
2.1. Không chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của ông Phạm Văn G về tranh
chấp quyền sử dụng đất huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho
ông Trần Văn H, Phạm Thị O, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn H, ông
Trương Trung N, ông Trương Văn Đ.
12
2.2. Đình chỉ việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn G đối
với ông Trần Văn H.
2.3. Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: ông Phạm Văn G phải chịu
7.600.000 đồng chi phí tố tụng (ông G đã nộp đủ). Trả tại phiên tòa cho ông G
2.400.000 đồng.
2.4. Án phí dân sự: Miễn án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm
cho ông Phạm Văn G.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Vụ II- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Bình;
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- Cục THADS tỉnh Quảng Bình;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
Tải về
Bản án số 12/2025/DS- Bản án số 12/2025/DS-

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 12/2025/DS- Bản án số 12/2025/DS-

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất